Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ và việc vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.63 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH VÂN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ VIỆC VẬN DỤNG
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH VÂN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ VIỆC VẬN DỤNG
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế


Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thanh Vân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁN BỘ ........................................................................................................... 6
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
cán bộ ................................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm cán bộ.................................................................................... 6
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ ......................................................... 8
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề cán bộ ............. 10
1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh....................... 13

1.3. Tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ............... 18
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức của người cán bộ .............................. 18
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tài của người cán bộ ................................ 26
1.3.3. Người cán bộ phải có trình độ lý luận ................................................ 34
1.3.4. Các tiêu chuẩn khác theo tư tưởng Hồ Chí Minh.............................. 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TRONG VIỆC VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ................................................................................................................ 42
2.1. Thực trạng về hệ thống pháp luật và đội ngũ cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 42
2.1.1. Thực trạng về hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 42
2.1. 2. Thực trạng về việc thi hành pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay........................................................................................................... 52
2.1.3. Thực trạng về đội ngũ cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ....... 54


2.2. Nguyên nhân ........................................................................................... 60
2.3. Quan điểm và phƣơng hƣớng của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam trên cơ sở vận
dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ........................................................................ 61
2.3.1. Quan điểm của Đảng về cán bộ trong thời kỳ mới ............................. 62
2.3.2. Phương hướng của Đảng về cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới
hiện nay ở Việt Nam ....................................................................................... 64
2.4. Giải pháp cơ bản về vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong việc hoàn
thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ........................... 69
2.4.1. Nhóm giải pháp thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan
đến cán bộ, công chức.................................................................................... 69
2.4.2. Nhóm giải pháp thứ hai: Xây dựng đội ngũ công chức chuyên

nghiệp, giáo dục đạo đức, pháp luật đối với cán bộ, công chức ................. 73
2.4.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động
thi hành công vụ của cán bộ, công chức ...................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã ý thức rõ
việc dùng người là quốc sách. Nó không phải là nguyên nhân duy nhất nhưng
có tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, sự trường tồn và phát triển
của dân tộc. Phát huy truyền thống và phương sách dùng người của ông cha ta
để lại, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi
cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Cán bộ luôn là gốc
của mọi công việc và là nhân tố quyể định đến sự thắng lợi của chính sách,
chiến lược cũng như nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích 10 năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Chính vì vậy,
Người và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện xây dựng được một đội
ngũ cán bộ trung thành với Tổ quốc và dân tộc, tận tụy, kiên cường hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát rất nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong
phú, trong đó vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề được Người quan tâm
hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một khi
đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người coi
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “là dây chuyền của bộ máy” và “là
tiền vốn của Đoàn thể” do đó “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”. Trong sự phát triển của đất nước ta hiện nay, vai trò của cán
bộ lại càng được nhấn mạnh và đề cao. Bởi cán bộ vừa là người đề xuất ra các
chủ trương, các chính sách vừa là người trực tiếp tổ chức, thực hiện, bày ra

các cách để cho nhân dân làm theo, làm cho các đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước được đi đúng hướng và hoạt động có hiệu quả.
Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất
coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao
1


chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình.
Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của Đảng và văn bản pháp
luật của Nhà nước như Luật cán bộ, công chức năm 2008; Nghị định số
24/2010/NĐ-CP của Chính Phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức,
Nghị định số 21/2010/NĐ-CP về quản lý biên chế công chức, Nghị định
18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng công chức…Những văn bản này tạo
tiền đề cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh,
vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi cuối cùng theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, cùng với những nỗ lực cải cách để phát triển, dân chủ và nhân
quyền, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng đã đang được ngày
càng hoàn thiện. Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng, bên cạnh những
mặt đã đạt được, công tác cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay đang gặp phải
nhiều vấn đề lớn mang tính chất lực cản cho sự phát triển chung của xã hội,
quản lý nhà nước. Đó là vấn đề về năng lực, tiêu chuẩn, phẩm chất, thái độ và
văn hóa ứng xử, tính trách nhiệm và bản lĩnh chính trị. Hiện tượng tham
nhũng, hách dịch, cửa quyền, gây khó dễ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, thiếu
tính tiên phong, liêm chính…dù không phải quá phổ biến, tràn lan nhưng
cũng gây nên những bức xúc trong dư luận, phương hại đến thể chế, giảm sút
lòng tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước, cản trở quá trình hội nhập, dân
chủ, pháp quyền của đất nước. Những biểu hiện đó một phần là do cơ chế thị
trường, nhưng cũng làm lộ rõ những yếu kém, bất cập, lổ hổng trong cơ chế,

chính sách pháp luật về công tác cán bộ và việc thực thi trên thực tiễn. Do đó
việc tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bên cạnh đó, nhìn tổng quan về hệ thống
pháp luật ở nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
2


chậm đi vào cuộc sống; các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức
và hoạt động công vụ trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập.
Do đó, cần thiết phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xây dựng, ban hành,
tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo
đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công
bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, học viên đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và việc vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán
bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học,
chuyên ngành Lí luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật tại Khoa Luật- Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát:
Với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và việc vận dụng trong
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay”, tác giả đi
sâu vào phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với mục tiêu cuối
cùng là chỉ ra những thiếu sót về mặt luật pháp, những thực trạng cụ thể khi
thi hành pháp luật cán bộ, công chức, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải
pháp nhằm cải thiện những thực trạng đã nêu.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
Với mục tiêu tổng quát như trên, luận văn của tôi muốn đạt tới một số

mục tiêu cụ thể sau:
Một là, làm rõ những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong đó
có nêu ra khái niệm cán bộ; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng
3


sản Việt Nam về cán bộ; vị trí, vai trò của cán bộ; về tiêu chuẩn của cán bộ và
phẩm chất cơ bản của cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích làm rõ thực trạng quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hiện nay ở Việt NamNhững ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
Ba là, đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở nước ta hiện nay đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa, chuyên
nghiệp hóa, minh bạch hóa và hiệu quả, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức vừa hồng vừa chuyên phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và
thực tiễn hiện nay của Việt Nam.
1.3. Tính mới và đóng góp của luận văn
Đề tài tôi lựa chọn là đề tài có tinh mới và đóng góp của luận văn, cụ thể:
- Góp phần nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
quá trình vận dụng tư tưởng đó trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cán
bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng của quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay; làm rõ những ưu, nhược điểm và nguyên nhân.
- Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu đề tài đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,

trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu
4


chuẩn cán bộ, về lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối
với cán bộ. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ
và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở cho việc tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay.
1.5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bọ, đồng thời
tác giả có tham khảo thêm các công trình nghiên cứu của một số tác giả có
liên quan đến luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các biện pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp logic- lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiều,
phương pháp chuyên gia để luận giải các vấn đề.
1.6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu,kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, để giải quyết vấn đề trên, luận văn gồm 02 chương, cụ thể:
Chƣơng 1: Nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay.

5



CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về cán bộ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa nào thật đầy đủ về cán bộ nhưng qua
các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn khẳng định “cán bộ là cái dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thực hiện được” [12, 8]. Theo Người, cán bộ là người
có trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước chứ không phải là
người đứng trên hoặc đứng ngoài nhân dân. Họ có trách nhiệm đưa đường lối,
chủ trưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân
để nhân dân hiểu rõ và tổ chức, vận động nhân dân thi hành. Đồng thời, cán
bộ cũng là người có trọng trách phải gần gũi nhân dân, nắm được tâm tư
nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng nhân dân phản ánh với Đảng,
Nhà nước để đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho phù hợp
với quy luật vận động, phát triển của xã hội và đáp ứng được yêu cầu, nguyện
vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
Ngày nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm: Tất cả những người được bầu cử vào các cơ quan Nhà nước, Đảng,
đoàn thể; những người được bổ nhiệm đảm nhiệm một công tác quản lý hoặc
được giao một công tác chuyên môn nào đó (cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa
học kỹ thuật…) trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
6



1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị).
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường không có chức vụ. [41,5]
Theo từ điển Hành chính “Cán bộ là người có đủ các điều kiện được
tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức lực lượng vũ
trang; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có trình độ
chuyên môn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ được sử dụng rộng rãi trong các
nước Xã hội chủ nghĩa trước đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ, công chức khi
thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ”. [ 39,46]
Theo Khoản 1 và khoản 3 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2010 quy định:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, người đứng
đầy tổ chức chính trị- xã hội….”
Như vậy, quan niệm về cán bộ có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các ý kiến
đó, thông thường được hình thành từ cách nhìn trực tiếp đối với từng loại cán
bộ, theo phương pháp liệt kê các tiêu chí hoặc theo cảm tính, nên chưa phản
7



ánh được một cách đầy đủ về khái niệm cán bộ. Song cơ bản các khái niệm
trên về cán bộ đều đã khái quát rõ những đặc trưng của cán bộ đó là:
- Cán bộ phải là những người được bầu hoặc được chỉ định hay bổ nhiệm
để đảm nhận cương vị nhất định trong một tổ chức nào đó (đặc trưng này
phân biệt người cán bộ với người không có chức vụ, không có cương vị).
- Chức vụ, cương vị của người cán bộ liên quan đến lãnh đạo, quản lý,
điều hành hoạt động của một tổ chức nhất định (đặc trưng này để phân biệt
giữa cán bộ với những người có cũng chức vụ, cương vị nhưng không coi là
cán bộ như trưởng tộc, trưởng hội đồng môn….).
Cán bộ phải là người có uy tín, có vai trò nòng cốt, có tác động ảnh
hưởng tích cực đến hoạt động của tổ chức, điều chỉnh mối quan hệ liên quan
đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động, duy trì, thúc đẩy và định hướng sự
phát triển của tổ chức.
Những đặc trưng trên là cơ sở để chúng ta phân biệt người cán bộ với những
đối tượng khác. Nếu thiếu một trong ba đặc trưng trên đều đưa đến nhận thức
phiến diện về cán bộ. Từ những đặc trưng trên, cán bộ được phân chia trên nhiều
lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau. Trong từng loại cán bộ đều cần phải
quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Ngay từ khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng. Tháng 6 năm 1923, Người rời nước Pháp đi đến Liên Xô
dự Đại hội V Quốc tế cộng sản. Chuyến đi này Người mang theo một khát
vọng muốn hiểu biết thực tiễn chủ nghĩa xã hội như thế nào để truyền bá nó
vào Việt Nam, đồng thời Người cũng muốn thông qua một đại hội của Quốc
tế Cộng sản để trình bày thực tế của sự đàn áp của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc
8


địa với mong muốn giúp cho những người cộng sản trên thế giới hiểu được tình

trạng khổ cực của nhân dân lao động các nước này.
Ngay từ những năm đầu đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã có một
suy nghĩ là “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh hộ, tổ chức họ, đoàn
kết hộ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [20,192]
Trong một thời gian ngắn sống ở nước Nga Xô viết, được chứng kiến
những thay đổi to lớn của nhân dân Liên Xô do cách mạng xã hội chủ nghĩa
đem lại, Người đã có một dự định cho công tác tuyên truyền, tổ chức lực
lượng cho cách mạng Việt Nam:
“1. Xuất bản một tờ báo nhỏ Tiếng Việt
2. Tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng.
3. Cố gắng đưa những thanh niên người bản xứ đi Matxcova
4. Xây dựng dây liên lạc Matxcova- Đông Dương- Pari” [20,204]
Qua những bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Quốc tế Cộng sản, qua
những bài viết của Người, chúng ta thấy, Người đã có một tầm nhìn chiến
lược, muốn cho cách mạng đi tới thắng lợi, trước hết phải chăm lo tới công
việc lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Bằng những lời nói giản dị, nhưng chứa đựng một triết lý sâu sắc “cán
bộ là cái gốc của công việc” Người đã nêu bật được vị trí, tầm quan trọng của
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Song Người cũng chỉ cho chúng ta thấy, cán bộ phải là người như thế nào
mới đưa cách mạng tới thắng lợi. “ Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [14,240] vì cũng như “gốc có vững thì cây mới bền”.
Theo tư tưởng của Người, cán bộ còn được hiểu là “cái dây chuyền của
bộ máy”. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy
thì bộ máy cũng tê liệt. Trong đời sống kinh tế- xã hội, sự chuyển động của xã
9


hội được coi như một “cỗ máy” khổng lồ. Trong “cỗ máy” đó, cán bộ là dây
chuyền là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Đây là một dây

chuyền đặc biệt vì: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là người xây dựng
nên đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sao cho phản
ánh đúng lợi ích của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với thực tiễn đời sống
của cán bộ. Cán bộ cũng là người tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng với nhân dân, là người thực thi pháp luật của Nhà nước, “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho phù hợp”[14,269].
Bác Hồ trong suốt cuộc đời cách mạng của mình rất mực quan tâm đến
cán bộ. Cán bộ mà chúng ta bàn tới đây theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là những người làm trong các cơ quan, đoàn thể, công sở, lực lượng vũ
trang. Họ có thể giữ chức vụ chỉ huy, phụ trách, quản lý, lãnh đạo hoặc làm
công tác nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần.
Tóm lại, cán bộ là những người hoạt động trong những thời kỳ cách
mạng, thoát ly, có hưởng lương hoặc phụ cấp để phân biệt nhân dân và là đầy
tớ của nhân dân. Tuy nhiên, trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, những người chịu trách
nhiệm trực tiếp và to lớn, nặng nề trước nhân dân và toàn dân tộc.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề cán bộ
“Cán bộ là nhận tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”. [44,66] Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ và coi đây là một
trong những vấn đề có vai trò quyết định đối với toàn sự nghiệp cách mạng.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa
10


VIII đã khẳng định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước, cán bộ cũng có vai
trò cực kỳ quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đất nước….”
[44,24] Trong lãnh đạo, quản lý Nhà nước, cán bộ có ý nghĩa nghĩa quan

trọng và là khâu then chốt. Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của cán bộ,
Đảng ta đã đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối đúng đắn và tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối chính trị đó. Đây là vấn đề quyết định bảo đảm cho
giai cấp vô sản giành chính quyền, xây dựng và bảo vệ chính quyền. Có
đường lối đúng đắn, có phương pháp tổ chức thực hiện đường lối có hiệu quả
vẫn chưa đủ mà Đảng và giai cấp vô sản phải có đội ngũ cán bộ có đủ phẩm
chất và năng lực, trí tuệ đáp ứng được đòi hỏi của mỗi thời kỳ phát triển đất
nước, vì cán bộ chính là người xây dựng đường lối của Đảng và cũng là người
tổ chức thực hiện đường lối đó.
Nói về cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: cán bộ là khâu quyết
định thành công trong đổi mới nền hành chính. Đội ngũ cán bộ yếu sẽ cản trở
sự phát triển chung của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã nghiêm túc đánh giá một cách khách quan: “Những sai lầm, khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong
hoạt động tư tưởng tổ chức và cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân”. [44,140]
Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định
của bộ máy Nhà nước. Khi xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã quán triệt
các quan điểm có tính nguyên tắc trong cán bộ. Đồng thời Đảng cũng đề ra
những tiêu chuẩn cán bộ đó là hai mặt đức và tài, phẩm chất, năng lực, không
coi nhẹ mặt nào. Song đức là gốc, tài là quan trọng. Đó là nội dung căn bản
nhất, chung cho mọi thời kỳ cách mạng, cho mọi cán bộ. Trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiêu chuẩn đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý là
11


“có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trình độ chuyên môn và
năng lực thực tiễn cao, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức
lối sống. Nói tóm lại là phải có đầy đủ cả đức và tài, trong đó đức là gốc”.

Như vậy, người cán bộ có phẩm chất chính trị là người vững vàng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cán bộ có đạo đức
cách mạng là người có lối sống trung thực, không tham vọng cá nhân, không
kèn cựa địa vị, không cơ hội, không tham nhũng, có lối sống giản dị trong
sáng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực
khác, khắc phục chủ nghĩa cá nhân.
Thực hiện quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, đồng thời thấy
được tầm quan trọng của công tác cán bộ, vai trò của cán bộ, ngày 26/02/2008
Quốc Hội đã ban hành Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2010 mà trước đó là Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi bổ sung năm
2003. Việc ban hành Luật này đã thể hiện sự quan tâm thích đáng của Nhà
nước tới công tác cán bộ, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bọ, công
chức từ việc thể chế hóa những tiêu chuẩn, quy định về công việc, hành vi,
trách nhiệm…của từng cán bộ, công chức trong hoạt động công tác.
Tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã xác định những đối
tượng được công nhận là cán bộ, công chức như sau:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
12


2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. ”
Như vậy, có thể xem cán bộ là những người làm việc trong cơ quan của
Đảng, Nhà nước hoặc đoàn thể, có hưởng lương hoặc phụ cấp. họ cần có đủ
tài năng và đạo đức để phục vụ nhân dân.
1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về cán bộ, rằng “ Không
một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn
định và duy trù được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [47,58], và
“Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền
lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những
13


người phụ tá….biết giúp đỡ họ làm việc, đề bạt họ, biết giới thiệt và chú ý đến
kinh nghiệm của họ” [50, 407], Hồ Chí Minh xác định việc xem xét vị trí, vai
trò của cán bộ phải đặt trong tổng hòa các mối quan hệ đa chiều. Từ thực tiễn
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết

định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, Người
nói “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[11,240], nghĩa là khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại
của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và
nơi kiểm tra…cả ba điều ấy đều rất quan trọng và quyết định ở người cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc” [11,269] nên
người cán bộ không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là người
có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đầy
tớ của nhân dân, người đại diện, đại biểu cho lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vị mà nhân dân giao phó. Người cán bộ
không được cho mình đứng ở vị trí lãnh đạo, chỉ tay năm ngón điều hành
công việc mà phải sâu sát cơ sở, bám sát quần chúng nhân dân, xây dựng mối
quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên
hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp
Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định hoặc
gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng và
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Họ là những người hội tụ đầy đủ
các yếu tố: gần dân nhất, trực tiếp nhất, công việc nhiều nhất nên sự nghiệp
14


cách mạng có thành công hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ này.
Người khẳng định “Cấp xã là người gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [11,371].
Mở rộng quan điểm về vị trí, vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh
đồng thời cũng khẳng định vai trò, vị trí của người Đảng viên. Theo quan

điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi đảng viên của Đảng cũng là cán bộ, họ vẫn là
những người lãnh đạo, mặc dù họ chỉ là những đảng viên bình thường, không
đảm nhiệm những cương vị trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nên
khi nói về người cán bộ thì Người vẫn thường dùng cụm từ “cán bộ đảng
viên”.
Như vậy, có thể xem xét việc vị trí, vai trò của người cán bộ theo quan
điểm của Hồ Chí Minh phải được xác định trong mối quan hệ biện chứng, đa
chiều giữa chủ thể và đối tượng, đặt người cán bộ trong mối quan hệ với quần
chúng nhân dân, trong sự tương quan về nhiệm vụ. Trong đó, người cán bộ
vừa là chủ thể lãnh đạo, điều hành, vừa là đối tượng và là lực lượng tổ chức
thực hiện.
Vai trò của ngƣời cán bộ đƣợc thể hiện ở những điểm cụ thể nhƣ
sau:
1. Cán bộ là người xây dựng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Muốn cho đường lối đúng đắn, pháp luật phù hợp với thực tiễn của
cuộc sống đòi hỏi cán bộ phải là những người có phẩm chất đạo đức trung
thực, có kiến thức khoa học phải sát với thực tiễn cuộc sống của xã hội. Việt
Nam là một nước trải qua đấu tranh giành độc lập dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã
hội, do vậy đòi hỏi một sự sáng tạo lớn khi vận dụng Chủ nghĩa Mác- Lênin
để tìm ra con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của đất
nước.
15


Do đó, nếu “cán bộ dở” thì một mặt chính sách không thể thực hiện
được, mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc
không phù hợp. Do đó đòi hỏi cán bộ phải đi sâu, đi sát vào quần chúng nhân,
nắm được tâm tư nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh đã viết “Mỗi công việc
của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân” và “khi
đặt ra khẩu hiện và chỉ thị luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh

nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và địa phương”.
2. Cán bộ là người đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào
trong cuộc sống. Muốn để người dân tiếp nhận những đường lối chính sách
của Đảng cũng như chính sách pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi người cán bộ
phải có phẩm chất đạo đức sao cho để cho dân tin, dân mến, dân làm theo.
Nếu dân không tin thì cán bộ không thể tiếp cận được với dân để tìm hiểu về
dân. Muốn dân hiểu, dân làm thì người tuyên truyền phải biết cách tuyên
truyền, do đó người cán bộ tuyên truyền phải hiểu đường lối đó một cách thấu
đáo, phải có tài trong tuyên truyền, thuyết phục nhân dân một cách có lý, có
tình, làm cho họ hiểu rõ “thì việc gì khó mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy
họ cũng không sợ” [14,241]
3. Cán bộ là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và là người bày cách cho dân làm. Cán bộ không chỉ là người tổ
chức thực hiện đường lối cho nhân dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền mà ngay cả trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Vì: đấu tranh
giành chính quyền đã khó nhưng xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trên
các lĩnh vực lại không hề đơn giản. Quá trình xây dựng xã hội mới là một quá
trình khó khăn, phức tạp, lâu dài, gian khổ bởi: Việt Nam từ một nước sản
xuất nhỏ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lại
càng khó khăn hơn các nước khác, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn,
16


năng suất lao động thấp, trình độ dân trí còn hạn chế. Vì vậy, trong các lĩnh
vực xây dựng chính quyền kinh tế- xã hội đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có
năng lực để đảm nhiệm được những nhiệm vụ của cách mạng. Do đó, cán bộ
phải thật sự “nhúng tay” vào việc, cùng với nhân dân bàn bạc và tìm ra cách
giải quyết có hiệu quả nhất “việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng và giải
thích cho dân dân chúng” [14,295]
4. Cán bộ là người tổng kết thực tiễn, từ thực tiễn cuộc sống phải tiếp tục

bổ sung lý luận và phát triển lý luận, vì thực tiễn thay đổi nhanh hơn so với lý
luận cũng như thực tiễn thì rất phong phú và phức tạp, do đó đòi hỏi cán bộ
không chỉ có phẩm chất tốt mà còn phải có năng lực, trình độ cao để đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ của công việc, để có thể bổ sung và hoàn thiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Do đó, nói đến cán bộ là nói đến “tiền vốn của Đoàn thể”. [15, 46] Có
vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì sẽ
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì sẽ hỏng việc, tức là lỗ vốn.
Vì vậy, để thực hiện được những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, chúng ta
cần có một đội ngũ cán bộ biết “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong công
việc”. [18, 285] Như vậy, khi bàn đến vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh
đã không đề cập cán bộ một cách chung chung mà Người đã sử dụng cán bộ
“có tính từ”. Đó là “cán bộ tốt”, “cán bộ kém”, “cán bộ dở”. Mà “muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” hay nói cụ thể hơn là
nếu có cán bộ tốt thì mọi việc mới thành công.
Khẳng định vai trò của người cán bộ cần phải hiểu rằng không phải đã là
cán bộ thì chỉ có tính tốt. Mà cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính
17


xấu. Song đã là người cán bộ cách mạng thì phải cố gắng phát triển những
tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì “tính xấu của một người thường chỉ có
hại cho người đó, còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ thì sẽ có hại
đến Đảng, có hại đến nhân dân” [14,254]
Nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, song Người
không cho rằng “cán bộ quyết định tất cả” mà “cách mạng là sự nghiệp của
quân chúng nhân dân, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng
nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã có tổ chức và phát huy lực

lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới
lá cờ tất thắng của Chủ nghĩa Mác- Lênin” [19,197]. Do đó, Người luôn đề
cao vai trò của quần chúng nhân dân và đặt người cán bộ trong mối quan hệ
với nhân dân “dân như nước, cán bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhở ở
dân hết”. Người khẳng định “nước lấy dân làm gốc” còn “cán bộ quyết định
mọi việc” [18,480]. Sự “quyết định” ở đây là cán bộ phải đi trước, làm gương
về tư tưởng đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát huy được đầy đủ tính
sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi trước, tự cải tạo
mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản vững chắc,
giác ngộ về Chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng của những tư
tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần và
ý thức tập thể.
1.3. Tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức của người cán bộ
1.3.1.1. Người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng
Đây là một trong những phẩm chất hàng đầu và quan trọng bậc nhất đối
với người cán bộ làm cách mạng. Trong thời đại Hồ Chí Minh, đất nước ra,
18


dân tộc đang trải qua một giai đoạn gay go khốc liệt, vừa phải đâu tranh giành
độc lập dân tộc, vừa phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, xây
dựng một xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình cải tạo xã
hội cũ, đã lỗi thời thành xã hội mới tiến bộ hơn, một cuộc đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu…đan xen, chuyển hóa lẫn nhau.
Vì vậy để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng dân tộc trước hết phải có
những người cách mạng chân chính, đủ bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và nghị lực
để vượt qua. Người cán bộ cách mạng ấy phải lấy đạo đức cách mạng làm nền

tảng. Bởi “cũng như sống thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [11, 252-253], có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang.
Phẩm chất đạo đức cách mạng theo Người trước hết là trung với nước,
hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Người dạy, đối với cán bộ đảng
viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” và hơn nữa phải
“tận trung với nước, tận hiếu với dân” xứng đáng vừa là người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi
của người làm chủ đất nước. “Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ,
biết quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [13,223]
Hai là phải biết yêu thương con người. Yêu thương con người trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng
19


sản. Người coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan
hệ xã hội. Cũng có lẽ vì tình yêu bao la rộng lớn ấy, mà Người đã dành cả
cuộc đời của mình để thực hiện “một ham muốn, ham muốn tột bậc làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Một thứ ham muốn khác lạ,
không dành cho mình, không phải cho gia đình, anh em, họ hàng mình mà là
cho quê hương, dân tộc và cả nhân loại. Đó là thứ tình yêu, sự khát vọng về

một thế giới đại đồng. Vì thế, với Hồ Chí Minh người cán bộ, đảng viên để
hoàn thành tốt sự nghiệp mà nhân dân giao phó, thực sự xứng đáng là người
đầy tớ trung thành của nhân dân thì yêu cầu mà Người đặt ra là tinh thần hy
sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với
nhân dân, yêu thương đồng bào, nhân loại. Người cán bộ đảng viên phải biến
tình yêu ấy thành lẽ sống: sống có tình, có nghĩa, sống có trước có sau. Người
luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải có tình đồng chí, yêu thương lẫn nhau,
không bao che, bảo vệ nhau điều sai, điều không đúng, kéo bè, kết cánh mà
nên tôn trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình để góp ý, sửa chữa cho nhau
một cách chân thành. Người nói “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình
có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng
cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào đồng chí, tình nghĩa năm châu
bốn biển một nhà. Biết chủ nghĩa Mác- Leenin là phải sống với nhau có tình
có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao
gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin” [13,554]. Tình yêu thương con người
trong tư tưởng Hồ Chí mInh được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng
trước hết là tình yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động hết sức
bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức bóc lột. Yêu
20


×