Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Độc lập tư pháp và việc bảo đảm quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THUỲ DƯƠNG

ĐỘC LẬP TƯ PHÁP
VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THUỲ DƯƠNG

ĐỘC LẬP TƯ PHÁP
VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số:

60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái

Hà Nội – 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
luận điểm, nội dung nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Thùy Dương


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Đặt vấn đề ......................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 2
1.3. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
1.4. Tính mới và những đóng góp của luận văn........................................................ 3

1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
2. Địa điểm và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 5
2.1. Địa điểm nghiên cứu ......................................................................................... 5
2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5
3. Kết cấu luận văn................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1 - TƯ PHÁP VÀ ĐỘC LẬP TƯ PHÁP ................................................ 7
1.1. Tư pháp ............................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm tư pháp ......................................................................................... 7
1.1.2. Hoạt động tư pháp ......................................................................................... 7
1.2. Độc lập tư pháp ................................................................................................ 9
1.2.1. Khái niệm độc lập tư pháp ............................................................................. 9
1.2.2. Các tiêu chí về độc lập tư pháp .................................................................... 10
1.2.3. Các điều kiện bảo đảm độc lập tư pháp ....................................................... 31
1.3. Độc lập tư pháp và Nhà nước pháp quyền ....................................................... 32


CHƯƠNG II - MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP TƯ PHÁP VÀ QUYỀN CON
NGƯỜI ................................................................................................................. 35
2.1. Khái quát về quyền con người ........................................................................ 35
2.1.1. Khái niệm và nội dung quyền con người ...................................................... 35
2.1.2. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người.................................................... 38
2.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của độc lập tư pháp với việc bảo đảm quyền con người . 40
2.2.1. Độc lập tư pháp giúp bảo đảm khả năng kiểm soát hành vi xâm hại quyền con
người của cơ quan nhà nước ................................................................................. 41
2.2.2. Độc lập tư pháp giúp bảo đảm khả năng thực thi công lý của hệ thống Tòa án
với những vi phạm nhân quyền .............................................................................. 43
2.2.3. Độc lập tư pháp giúp bảo đảm khả năng xét xử khách quan, vô tư của Tòa án
và Thẩm phán ........................................................................................................ 45
2.3. Các quyền con người có liên hệ chặt chẽ với độc lập tư pháp.......................... 46
2.3.1. Quyền có một phiên tòa độc lập, khách quan, công khai và kịp thời ............ 46

2.3.2. Quyền có một phiên tòa công bằng .............................................................. 48
CHƯƠNG 3 - ĐỘC LẬP TƯ PHÁP VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................... 53
3.1. Độc lập tư pháp ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 53
3.1.1. Khái quát “tư pháp” và “độc lập tư pháp” qua các bản Hiến pháp ............ 53
3.1.2. Quan điểm về “tư pháp” ở Việt Nam hiện nay ............................................. 54
3.1.3. Quan điểm về độc lập tư pháp ở Việt Nam hiện nay ..................................... 55
3.1.4. Khái quát về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam theo quy định của
Hiến pháp 2013 và Luật TCTAND 2014 ................................................................ 56
3.1.5. Thực trạng độc lập tư pháp ở Việt Nam hiện nay ......................................... 58
3.1.6. Nhận xét chung ............................................................................................ 77
3.2. Thực trạng độc lập tư pháp và ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con người ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................. 79
3.2.1. Kết quả đạt được ......................................................................................... 79


3.2.2. Một số hạn chế, bất cập về độc lập tư pháp và ảnh hưởng đến việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 86
3.3. Một số quan điểm, giải pháp nâng cao độc lập tư pháp để bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam hiện nay.................................................................................... 93
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACHPR 1981

:

Hiến chương quyền con người và nhân dân châu Phi 1981


ACHR

:

Công ước quyền con người châu Mỹ 1969

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP

:

Cải cách tư pháp

CHLB

:

Cộng hoà liên bang


CHXHCN

:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

ĐCSVN

:

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐLTAHPLB

:

Đạo luật về Tòa án Hiến pháp liên bang

ECHR

:

Công ước quyền con người châu Âu 1950

HĐND

:

Hội đồng nhân dân


HĐTP

:

Hội đồng Thẩm phán

HRC

:

Uỷ ban quyền con người

IBA

:

Hiệp hội Luật sư thế giới

ICCPR

:

Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự 1966

LTTHC

:

Luật Tố tụng hành chính


TAHP

:

Tòa án Hiến pháp

TAHPLB

:

Tòa án Hiến pháp liên bang

TAND

:

Tòa án nhân dân

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

TCTAND

:

Tổ chức Tòa án nhân dân


UBTVQH

:

Uỷ ban thường vụ Quốc hội

UDHR

:

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Nội dung

Trang

Bảng 3.1: So sánh tổng số vụ án hành chính mà Tòa án
1

(cấp sơ thẩm và phúc thẩm) thụ lý và xét xử với tổng

91

số đơn thư khiếu nại, tố cao mà cơ quan hành chính

nhà nước thụ lý, giải quyết từ năm 2011 đến năm 2014
Bảng 3.2: Số lượng án dân sự Tòa án cấp sơ thẩm và

2

phúc thẩm thụ lý, giải quyết và tồn đọng từ năm 20102014

92


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

STT
1

Nội dung
Hình 3.1: Tỷ lệ phần trăm Thẩm phán trao đổi đường
lối giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án

Trang
89


MỞ ĐẦU

1.

Đặt vấn đề

1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Quyền con người là một giá trị cao quý, là thành quả đấu tranh chung của toàn
thể nhân loại. Xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người đều được tự do và
hưởng các quyền con người một cách thực chất, đầy đủ và bình đẳng là một vấn đề
cấp thiết được đặt ra đối với các quốc gia trên thế giới, nhất là trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay.
Chính vì vậy, vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền con người đã trở thành một yếu tố
không thể thiếu khi hoạch định chính sách, pháp luật và quan hệ đối ngoại của các
quốc gia. Một trong những bảo đảm quan trọng hàng đầu là sự độc lập của tư pháp,
bởi đó là điều kiện tiên quyết để giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước, từ đó
nhằm đảm bảo, bảo vệ quyền con người.
Vấn đề độc lập tư pháp đã được ghi nhận không chỉ trong nhiều văn kiện quốc
tế mà trong cả Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn,
Điều 104 Hiến pháp Ý năm 2003 quy định “Cơ quan tư pháp tự chủ và độc lập với
mọi quyền lực khác” [49, tr.9]; Điều 138 Hiến pháp An-giê-ri năm 2002 quy định
“Quyền lực tư pháp là độc lập. Nó được thực thi trong khuôn khổ pháp luật” [49,
tr.9]; Điều 64 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 2005 quy định “Tổng thống nước
Cộng hòa là nhà bảo trợ cho sự độc lập của cơ quan tư pháp” [49, tr.9].
Riêng đối với Việt Nam, nguyên tắc độc lập tư pháp không được ghi nhận một
cách trực tiếp và chính thức trong Hiến pháp Việt Nam, mà thông qua một hình
thức gián tiếp khác, đó là khẳng định tính độc lập của Thẩm phán trong quá trình
xét xử. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp Việt Nam khẳng định “Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [28].
Có thể khẳng định sự độc lập tư pháp ngày càng trở thành yếu tố cần thiết trong
xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm, bảo vệ công lý, mà ở đó quyền con người
được bảo đảm ở mức độ cao nhất. Đây thực sự là một vấn đề được rất nhiều nhà

1



khoa học, luật gia, cũng như những nhà lập pháp quan tâm và chú trọng. Do đó,
việc nghiên cứu độc lập tư pháp và việc bảo đảm quyền con người rất bổ ích, đặc
biệt đối với Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay. Sự độc lập của tư pháp chắc chắn là tiêu chí cốt lõi để Việt Nam thiết lập một
nền tư pháp công bằng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Mà thực tế hiện nay,
những quy định pháp luật về cơ chế bảo đảm cho việc thực thi nguyên tắc độc lập tư
pháp ở Việt Nam vẫn còn chưa hiệu quả và nhiều hạn chế.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Độc lập tư pháp và việc bảo đảm quyền con
người” làm luận văn thạc sỹ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
a) Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát là nghiên cứu, đánh giá cơ chế bảo đảm tính độc lập tư pháp
với việc bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam.
b) Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thông qua phân
tích đánh giá thực tiễn xác định các yếu tố cần thiết nhằm nâng cao tính độc lập tư
pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề độc lập tư pháp và quyền con người cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu và nhiều bài viết về các đề tài này, như:
(i) Luận án tiến sỹ của Tô Văn Hòa, Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu
pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến
nghị đối với Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội, 2007.
(ii) Bài viết “Những bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án độc lập xét xử có hiệu lực
thực tế” của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
19 năm 2007; và “Quyền tư pháp trong mối quan hệ với các quyền lập pháp, hành
pháp theo nguyên tắc phân chia quyền lực” đăng trên Tạp chí Luật học số 25 năm
2009.


2


(iii) Luận án tiến sỹ của TS. Lưu Tiến Dũng, Những vấn đề về độc lập xét xử
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta tại Học viện Khoa học xã
hội, 2011.
(iv) Luận văn Thạc sỹ Luật của Ngô Thị Thanh, Bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, bảo vệ tại Khoa Luật năm 2013.
(v) Luận văn Thạc sỹ Luật của Trần Quang Trung, Bảo đảm quyền con người
trong việc thu hồi đất: qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình, bảo vệ tại Khoa Luật năm
2013.
Có thể nói vấn đề độc lập tư pháp không còn là điều mới mẻ trên thế giới và
điều này được ghi nhận trong Hiến pháp của nhiều quốc gia, tuy nhiên vấn đề độc
lập tư pháp mới được đặt ra trong những năm gần đây ở Việt Nam. Nhìn chung
những nghiên cứu ở Việt Nam đều chỉ đề cập đến hoặc tính độc lập tư pháp hoặc cơ
chế bảo đảm quyền con người trong từng lĩnh vực cụ thể mà không đề cập rõ ràng
tới vai trò của độc lập tư pháp trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người; cũng
như chưa đề cập đến quy định của pháp luật quốc tế về những điều kiện bảo đảm sự
độc lập tư pháp một cách toàn diện và hệ thống.
1.4. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống về tính độc lập tư
pháp gắn với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thể hiện ở các nội dung cơ bản
sau đây:
- Làm rõ được vai trò của độc lập tư pháp trong việc bảo đảm quyền con người
và mối liên hệ giữa quyền con người với độc lập tư pháp;
- Chỉ ra được những tiêu chí đảm bảo tính độc lập tư pháp theo quy định của
pháp luật quốc tế, cụ thể là Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948, Bộ luật tiêu
chuẩn tối thiểu về độc lập tư pháp của Hiệp hội Luật sư thế giới 1982, Tuyên bố
quốc tế Montreal về độc lập tư pháp 1983, Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp
quốc về độc lập tư pháp do Đại hội đồng thông qua năm 1985, Bộ nguyên tắc

Bangalore về Đạo đức tư pháp 2002; và pháp luật một số nước;

3


- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về
độc lập tư pháp và ảnh hưởng đến việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người theo Hiến
pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 (có hiệu lực từ ngày 01-6-2015,
sau đây gọi tắt là “Luật TCTAND”).
- Chỉ ra những yếu tố cần thiết để nâng cao tính độc lập tư pháp nhằm bảo
đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.
Với những điểm mới nêu trên, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
các nhà lập pháp; hỗ trợ có hiệu quả trong công tác thực tiễn của tác giả cũng như
các cán bộ làm công tác xét xử tại Toà án nhân dân.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
- Vai trò của độc lập tư pháp trong việc bảo đảm quyền con người;
- Tiêu chí đảm bảo tính độc lập tư pháp theo quy định một số văn kiện quốc tế
và pháp luật một số quốc gia;
- Quy định của pháp luật Việt Nam về tính độc lập tư pháp;
- Thực trạng độc lập tư pháp và ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con người
ở Việt Nam hiện nay.
b) Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài không: (i) phân tích các khái niệm về độc
lập tư pháp và quyền con người, (ii) đi sâu vào nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể
về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người; (iii) không phân tích trình tự thủ tục tố
tụng của bất kỳ một ngành luật nào, như dân sự, hình sự, hành chính v.v...về việc
bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật Việt Nam; (iv) đối với Việt
Nam, đề tài sẽ không đi sâu phân tích việc so sánh giữa các quy định của Hiến pháp
2013 và những bản Hiến pháp trước (Hiến pháp 1946, 1960, 1980, 1992 (sửa đổi

2001)); giữa Luật TCTAND 2014 và Luật TCTAND 2002 về cơ cấu tổ chức và
hoạt động của hệ thống Tòa án.
Đề tài chỉ tập trung, nhấn mạnh vào những vấn đề sau:

4


(i) Phân tích, đánh giá những quy định về độc lập tư pháp của một số văn kiện
pháp luật quốc tế căn bản nhất, không phân tích toàn bộ nội dung của văn kiện đó.
(ii) Phân tích, đánh giá việc bảo đảm độc lập tư pháp của một số quốc gia trên
cơ sở quy định của pháp luật quốc gia đó, không phân tích thực trạng thực thi.
(iii) Đánh giá vai trò của độc lập tư pháp với việc bảo đảm quyền con người và
chỉ ra mối liên hệ giữa quyền con người với độc lập tư pháp.
(iv) Thực trạng độc lập tư pháp và ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam hiện nay
Do Luật TCTAND 2014 vừa mới có hiệu lực, nên chưa thể đánh giá được tính hiệu
quả của Luật trong việc áp dụng vào thực tế. Ngoài ra, Luật TCTAND mới ra đời được
hơn một năm nên pháp luật về tố tụng trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình,... vẫn chưa được sửa đổi cho phù hợp. Do đó, không thể đánh giá thực trạng
thực thi sự độc lập của tư pháp và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Mà
chỉ có thể phân tích, đánh giá dựa trên những quy định pháp luật hiện hành, cụ thể là
trên hai văn bản chủ đạo là Hiến pháp 2013 và Luật TCTAND 2014.

2.

Địa điểm và phương pháp nghiên cứu

2.1. Địa điểm nghiên cứu
Do tính chất và phạm vi nghiên cứu nên đề tài được thực hiện tại Hà Nội trên
cơ sở thu thập tài liệu trong nước và nước ngoài ở thư viện, trên sách báo và trên

trang điện tử.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn.

5


3.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Tư pháp và độc lập tư pháp
Chương 2: Mối quan hệ giữa độc lập tư pháp và quyền con người
Chương 3: Độc lập tư pháp và việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện
nay

6


CHƯƠNG 1 - TƯ PHÁP VÀ ĐỘC LẬP TƯ PHÁP
1.1. Tư pháp
1.1.1. Khái niệm tư pháp
Trong từ điển Black Law, tái bản lần thứ 6, tư pháp được định nghĩa là “một

nhánh của chính quyền được trao quyền tư pháp; hệ thống Tòa án trong một quốc
gia; các Thẩm phán. Tư pháp là một nhánh quyền lực của nhà nước nhằm giải thích
và áp dụng pháp luật” [53].
Theo thuyết tam quyền phân lập, tư pháp là một trong ba quyền của quyền lực
nhà nước: lập pháp (làm pháp luật, ban hành pháp luật); hành pháp (thi hành pháp
luật) và tư pháp (giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật).
Theo quan điểm của phương Tây, tư pháp được hiểu là xét xử - đồng nghĩa với
hoạt động của Tòa án để tìm ra công lý, công bằng cho tất cả mọi người.
Bên cạnh đó cũng có quan niệm tư pháp không chỉ là hoạt động xét xử của Tòa
án, mà còn bao gồm các hoạt động công tố và kiểm sát, hoạt động điều tra của các cơ
quan điều tra, hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp và hoạt động thi hành án.
Có thể khẳng định dù tiếp cận dưới góc độ nào thì tư pháp cũng đều chỉ hoạt
động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ công lý, công bằng cho tất cả mọi người.
Trong phạm vi luận văn này, tư pháp được hiểu là một nhánh quyền lực của nhà
nước, là hoạt động xét xử của Tòa án, có chức năng xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật, giải quyết các tranh chấp trong xã hội nhằm mục đích bảo đảm quyền
con người và bảo vệ pháp luật.
1.1.2. Hoạt động tư pháp
Nếu quan niệm tư pháp không chỉ bao gồm chủ thể của quyền tư pháp (Tòa án),
mà còn bao gồm các chủ thể tham gia thực hiện quyền tư pháp (Viện kiểm sát/cơ
quan công tố, các cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án), thì hoạt động tư pháp
bao gồm một hệ thống các hoạt động: (i) hoạt động xét xử của Tòa án; (ii) hoạt
động công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát/cơ quan công tố;
(iii) hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra; (iv) hoạt động của các thiết chế bổ
trợ tư pháp; (v) hoạt động thi hành án.

7


Nếu quan niệm tư pháp là hoạt động xét xử thì hoạt động tư pháp cũng chính là

hoạt động xét xử.
Mục đích của hoạt động tư pháp nhằm phục hồi các quan hệ xã hội bị xâm
phạm, bảo đảm ổn định trật tự xã hội, trật tự pháp luật trên tất cả các phương diện
của đời sống xã hội, phục vụ sự tiến bộ xã hội. Một điều quan trọng hơn mà hoạt
động tư pháp hướng đến chính là bảo đảm, bảo vệ quyền con người, bảo đảm công
lý được thực thi và một xã hội dân chủ, ổn định, phát triển.
Như đã đề cập ở trên, trong phạm vi luận văn này, tư pháp được hiểu là một
nhánh quyền lực của nhà nước, là hoạt động xét xử của Tòa án. Theo đó, hoạt động
tư pháp cũng được hiểu là hoạt động xét xử của Tòa án.
Hoạt động tư pháp có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp có chức năng bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Hoạt
động tư pháp được tiến hành trên cơ sở pháp luật, không thể vượt quá giới hạn,
phạm vi luật định. Do đó, thông qua hoạt động tư pháp, mục đích của quy phạm
pháp luật được bảo đảm thực hiện. Khi có hành vi vi phạm pháp luật, hoạt động tư
pháp sẽ khôi phục giá trị của các quy định pháp luật đó.
Thứ hai, hoạt động tư pháp là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước và
công lý để đưa ra phán quyết. Do đó, phán quyết của các cơ quan tư pháp được bảo
đảm thi hành bởi sự cưỡng chế của cơ quan nhà nước. Phán quyết của cơ quan tư
pháp có hiệu lực bắt buộc, mọi chủ thể liên quan phải tôn trọng và tuân thủ phán
quyết một cách nghiêm túc. Không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền
xét lại hoặc sửa phán quyết của cơ quan tư pháp.
Thứ ba, hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử do Tòa án thực hiện và phải tuân
theo quy định của pháp luật tố tụng. Theo đó, Tòa án chỉ tiến hành xét xử khi có yêu
cầu hoặc khởi kiện. Điều đó có nghĩa rằng, Tòa án chỉ thẩm định luật do Quốc
hội/Nghị viện ban hành có hợp hiến hay không, các văn bản pháp quy của các cơ
quan hành pháp có phù hợp với Hiến pháp và pháp luật hay không khi có yêu cầu
hoặc có khởi kiện đến Tòa án. Tòa án chỉ giải quyết các tranh chấp giữa các cơ quan
nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước và nhân viên của các cơ quan này

8



với công dân, giữa các công dân với nhau, khi tranh chấp đó được khởi kiện đến
Tòa án. Tòa án cũng chỉ quyết định rằng việc bắt, tạm giam một người là đúng hay
không đúng pháp luật khi người đó khiếu nại đến Tòa án. Tóm lại, Tòa án chỉ thực
hiện quyền lực tư pháp khi được yêu cầu. Tòa án không bao giờ tự mình thẩm tra
tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản luật và dưới luật; Tòa án không tự mình
kiểm tra rồi phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của hành vi và quyết định của
các cơ quan công quyền [3, tr.360].
Thứ tư, hoạt động tư pháp là hoạt động giải thích pháp luật trong phạm vi giải
quyết vụ án cụ thể chứ không vượt quá giới hạn này. Các quy phạm pháp luật có
tính khái quát cao nên không phải lúc nào cũng có tính rõ ràng, do vậy trong từng
vụ án cụ thể mà người đưa ra phán quyết có trách nhiệm giải thích điều luật áp
dụng. Ngoài ra, quy định pháp luật không thể bao trùm hết tất cả lĩnh vực trong xã
hội khi có sự kiện phát sinh. Khi đó, những người tiến hành hoạt động tư pháp
không thể từ chối xét xử vì lý do không có quy định pháp luật, mà phải tìm ra, viện
dẫn, giải thích pháp luật dựa trên đạo luật mang tính pháp lý cao nhất, tập quán,
hoặc trên nguyên tắc tổng quát nhất của pháp luật.
1.2. Độc lập tư pháp
1.2.1. Khái niệm độc lập tư pháp
Tương tự như trong nhận thức về tư pháp, tuỳ theo phương pháp tiếp cận mà
độc lập tư pháp cũng được hiểu và trình bày khác nhau.
Với quan điểm tư pháp là một nhánh quyền lực nhà nước, độc lập tư pháp chính
là sự độc lập của nhánh quyền lực tư pháp với các nhánh quyền lực lập pháp và
hành pháp. Theo đó, tư pháp không chịu sự tác động của bất kỳ nhánh quyền lực
nào khác, hoặc từ một cá nhân, hay từ các nhóm lợi ích chính trị của những người
cầm quyền.
Nếu xét từ góc độ tư pháp chỉ hoạt động xét xử của Tòa án, độc lập tư pháp
chính là sự độc lập trong xét xử, cụ thể mọi phán quyết hay quyết định của Tòa án
không chịu sự ràng buộc, can thiệp hay uy hiếp từ bất kỳ một chủ thể nào thuộc cơ

quan quyền lực nhà nước cũng như trong xã hội.

9


Nếu xét từ góc độ tư pháp là hoạt động của Tòa án, các cơ quan điều tra, kiểm sát,
truy tố, xét xử và thi hành án, độc lập tư pháp phải là sự độc lập của các cơ quan này.
Cũng tương tự như quan điểm về tư pháp, trong luận văn này, độc lập tư pháp
chính là độc lập của Tòa án hay độc lập xét xử của Tòa án, có nghĩa là Tòa án phải
độc lập về mặt thể chể và Thẩm phán.
1.2.2. Các tiêu chí về độc lập tư pháp
1.1.2.1. Theo pháp luật quốc tế
a) Một số văn kiện quốc tế về độc lập tư pháp
Độc lập tư pháp được ghi nhận tại rất nhiều văn kiện quốc tế trong phạm vi khu
vực cũng như toàn thế giới, có thể kể tên một số văn kiện quan trọng sau:
- Văn kiện pháp lý toàn cầu:
(i) Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền [64] (sau đây gọi là “UDHR”);
(ii) Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự (sau đây gọi là “ICCPR”)
[59], Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966);
(iii) Bộ luật Tiêu chuẩn Tối thiểu về Độc lập Tư pháp của Hiệp hội Luật sư Thế
giới năm 1982 [57] (sau đây gọi là “Bộ luật Tiêu chuẩn IBA”);
(iv) Tuyên bố Quốc tế Montreal về Độc lập Tư pháp (1983) [58] (sau đây gọi là
“Tuyên bố Montreal”);
(v) Quan điểm về tính độc lập của Tòa án của Uỷ ban quyền con người được
thể hiện qua một trong số các Khuyến nghị chung của HRC về việc áp dụng Tuyên
bố toàn cầu về quyền con người - Khuyến nghị chung số 13 ban hành ngày 13 tháng
4 năm 1984 về quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng và
công khai bởi một Tòa án độc lập được thành lập theo pháp luật;
(vi) Các Nguyên tắc Cơ bản của Liên hợp quốc về độc lập tư pháp 1985 [60]
(sau đây gọi là “Các nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp 1985”);

(vii) Điều lệ chung về Thẩm phán của Hiệp hội Thẩm phán Quốc tế (1999);
(viii) Bộ nguyên tắc Bangalore về Đạo đức tư pháp [63] (sau đây gọi là “Bộ
nguyên tắc Bangalore”)
- Văn kiện pháp lý trong phạm vi khu vực:

10


(i) Công ước quyền con người Châu Âu 1950 [56] (sau đây gọi là “ECHR”);
(ii) Công ước quyền con người Châu Mỹ 1969 [61] (sau đây gọi là “ACHR”);
(iii) Hiến chương quyền con người và nhân dân Châu Phi 1981 [52] (sau đây
gọi là “ACHPR 1981”);
(iv) Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập Tư pháp (1995) [41] (sau đây
gọi là “Tuyên bố Bắc Kinh”); và
(v) Kiến nghị số R(94) 12 của Hội nghị Bộ trưởng các quốc gia thành viên của
Uỷ ban Châu Âu về tính độc lập, hiệu quả và vai trò của Thẩm phán.
b) Tiêu chí về độc lập tư pháp theo quy định của pháp luật quốc tế
Tất cả các văn kiện quốc tế và khu vực về quyền con người đều nhằm mục đích
đảm bảo rằng thủ tục tố tụng dân sự và hình sự được tiến hành một cách bình đẳng
trước một Tòa án hay cơ quan xét xử độc lập và công bằng. Mục đích của phần này
là chỉ ra những yếu tố tạo nên sự “độc lập” của Tòa án dưới góc nhìn của các tổ
chức quốc tế. Mặc dù các văn kiện quốc tế này không giải quyết được tất cả vấn đề
liên quan đến việc hiểu thế nào là độc lập tư pháp, nhưng nó phần nào giúp làm
sáng tỏ được những yếu tố cốt lõi cấu thành nên nguyên tắc độc lập tư pháp. Và hầu
hết những văn kiện pháp luật quốc tế đều đưa ra các tiêu chí về tính độc lập tư pháp
cụ thể như sau:
Thứ nhất là độc lập về mặt thể chế, nghĩa là độc lập về hành chính, tài chính,
quá trình ra quyết định, thẩm quyền xét xử, bảo đảm thủ tục tố tụng công bằng và
đưa ra phán quyết có căn cứ.
Thứ hai là độc lập của Thẩm phán gồm các vấn đề: bổ nhiệm, đảm bảo về

nhiệm kỳ, đảm bảo về mặt tài chính, cơ hội thăng tiến, tính tự chịu trách nhiệm, đào
tạo và bồi dưỡng, quyền và nghĩa vụ tiến hành phiên toà một cách công bằng và ra
bản án có lập luận.
b.1) Độc lập về thể chế: có nghĩa là hệ thống Tòa án phải độc lập với các nhánh
quyền lực khác như cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. Nguồn: Tuyên bố
Montreal, Bộ luật tiêu chuẩn IBA, Các nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp. Để hệ
thống Tòa án không chịu sự chi phối, ràng buộc và độc lập với các cơ quan quyền

11


lực nhà nước, thì sự độc lập của tư pháp phải được quốc gia bảo đảm và ghi nhận
trong Hiến pháp hoặc thông qua các quy định khác của pháp luật [60, Điều 1]..
Các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập của thể chế bao gồm: (i) độc lập về hành
chính; (ii) độc lập về tài chính; (iii) độc lập về quá trình ra phán quyết; (iv) độc lập
trong việc xác định thẩm quyền; (v) bảo đảm thủ tục tố tụng công bằng và ban hành
quyết định có căn cứ.
(i) Độc lập về hành chính: Tòa án phải được tự mình giải quyết mọi vấn đề
quản lý và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của cơ quan này, hay nói cách
khác Tòa án phải có quyền quyết định những vấn đề mang tính nội bộ trong quản lý
tư pháp, ví dụ như đào tạo tư pháp, tuyển dụng nhân sự cho Tòa án, kỷ luật cán bộ
và nhân viên Tòa án, v.v... mà không chịu sự tác động sai trái, trực tiếp hay gián
tiếp của bất kỳ cá nhân, tổ chức, hay cơ quan nào. Tiêu chí này đều được ghi nhận
tại Điều 32 Bộ luật Tiêu chuẩn IBA, Điều 2.05 Tuyên bố Montreal, Điều 2 Các
nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp, Tuyên bố Bắc Kinh.
(ii) Độc lập về tài chính: hệ thống Tòa án phải được bảo đảm có đầy đủ ngân
sách để thực hiện chức năng của mình. Nếu ngân sách không đủ, hệ thống Tòa án sẽ
không những không thể thực hiện chức năng của mình một cách có hiệu quả mà còn
có thể dễ dàng bị ảnh hưởng, tác động hoặc chi phối bởi những áp lực từ bên ngoài và
nạn tham nhũng. Do đó, Tòa án phải đóng vai trò chính trong công tác xác định nhu

cầu ngân sách cho các Toà, mà không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào
khác. Nguồn: Điều 7 Các nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp, Tuyên bố Bắc Kinh.
(iii) Độc lập về quá trình ra phán quyết: Nguyên tắc này đòi hỏi không một chủ
thể nào được can thiệp vào quá trình xét xử, cũng như được xét lại các phán quyết
của Tòa án. Quan trọng hơn, điều này nghĩa là cơ quan hành pháp, lập pháp, cũng
như các cơ quan khác như cảnh sát, trại giam, các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải
tôn trọng và tuân theo bản án và quyết định của Tòa án ngay cả khi họ không đồng
ý với bản án, quyết định đó. Chỉ có các Tòa án cấp trên mới có quyền xét lại các
phán quyết của Tòa án cấp dưới theo trình tự tố tụng được quy định trong pháp luật.
Tiêu chí này được ghi nhận tại rất nhiều văn kiện như: Điều 1.c, Điều 47, Điều 19,

12


Điều 18.a Bộ luật Tiêu chuẩn IBA; Tuyên bố Montreal; Điều 4 Các nguyên tắc cơ
bản về độc lập tư pháp; Tuyên bố Bắc Kinh.
(iv) Độc lập về thẩm quyền: Có nghĩa là Tòa án phải có quyền tài phán với mọi
vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử và có quyền quyết định các vụ việc được đưa ra tại
Tòa án có thuộc phạm vi, chức năng của Tòa theo như quy định của pháp luật.
Nguồn: Bộ luật Tiêu chuẩn IBA, Tuyên bố Montreal, Điều 3 Các nguyên tắc cơ bản
về độc lập tư pháp, Điều 33Tuyên bố Bắc Kinh.
(v) Tòa án phải bảo đảm thủ tục tố tụng công bằng, đưa ra phán quyết có căn
cứ và quyền của các bên được tôn trọng: Điều này liên quan đến phương thức tiến
hành tố tụng mà theo đó, để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, tố tụng tại Tòa phải là
tố tụng tranh tụng chứ không phải tố tụng buộc tội. Tòa án chỉ đóng vai trò là trọng
tài xem xét và phán quyết dựa trên việc đánh giá quan điểm của các bên buộc tội và
gỡ tội chứ không tham gia vào bất cứ bên nào. Đồng thời quyền của các bên tham
gia tố tụng phải được tôn trọng và bảo đảm, bất kể là bên buộc tội hay gỡ tội.
b.2) Độc lập về Thẩm phán:
Bên cạnh những nguyên tắc và yêu cầu về sự độc lập của thể chế, các văn kiện

pháp luật quốc tế còn đưa ra những quy định để đảm bảo cho Thẩm phán độc lập:
Thứ nhất, tiêu chí lựa chọn, bổ nhiệm Thẩm phán phải là những cá nhân liêm
chính và có năng lực, được đào tạo chuyên môn về luật. Việc bổ nhiệm Thẩm phán
không được thực hiện vì những động cơ không đúng đắn và không được mang tính
chất phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ yếu tố nào (sắc tộc, mầu da, giới tính, tôn giáo,
quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc quốc tịch hoặc xã hội, tài
sản, nơi sinh hoặc địa vị), trừ một yêu cầu Thẩm phán phải là công dân của quốc gia
nơi bổ nhiệm Thẩm phán. Nguồn: Bộ luật Tiêu chuẩn IBA, Tuyên bố Montreal, Các
nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp, Bộ nguyên tắc Bangalore, Tuyên bố Bắc Kinh.
Thứ hai,bảo đảm về điều kiện và nhiệm kỳ làm việc của Thẩm phán. Thẩm phán
dù được bổ nhiệm theo bất kỳ hình thức nào đều phải được bảo đảm thời gian làm
việc cho đến tuổi về hưu hay hết nhiệm kỳ. Thẩm phán cũng phải được bảo đảm về
tính độc lập, an ninh, được trả thù lao thích đáng, và được hưởng các chế độ bảo

13


hiểm, bảo trợ xã hội. Việc thăng chức cho Thẩm phán phải dựa vào yếu tố khách
quan về năng lực, sự liêm khiết và kinh nghiệm. Việc phân công Thẩm phán xét xử
các vụ việc phải là vấn đề nội bộ trong quản lý của các Tòa án. Với việc bảo đảm
Thẩm phán được trả thù lao thích đáng và nhiệm kỳ, Thẩm phán sẽ không phải lo
“kinh tế” để trang trải cuộc sống, điều này sẽ hạn chế việc “mua chuộc” Thẩm phán
và tình trạng nhận hối lộ. Ngoài ra, sự bảo đảm an ninh cho Thẩm phán sẽ giúp
Thẩm phán an tâm xét xử, không sợ bị trả thù hay đe dọa tính mạng, tài sản. Những
quy định về điều kiện và nhiệm kỳ làm việc như vậy sẽ giúp nâng cao tính độc lập
của Thẩm phán. Nguồn: Điều 1.b, Điều 20.a, Điều 20.b, Điều 22 Bộ luật Tiêu chuẩn
IBA; Tuyên bố Montreal; từ Điều 11 đến Điều 14 Các nguyên tắc cơ bản về độc lập
tư pháp; Tuyên bố Bắc Kinh.
Thứ ba, liên quan đến bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ. Tòa án phải thực
hiện các quy định về bí mật nghề nghiệp liên quan đến quan điểm của Thẩm phán

và những thông tin mà Thẩm phán thu thập trong quá trình thực thi nhiệm vụ, ngoài
quá trình xét xử công khai. Thẩm phán không bị bắt buộc phải khai báo về những
quan điểm và thông tin đó. Ngoài ra, Thẩm phán còn được hưởng quyền miễn trừ
trong các vụ kiện dân sự vì những thiệt hại gây ra bởi những sơ suất hoặc hành vi
không đúng trong xét xử.
Thứ tư, liên quan đến kỷ luật, đình chỉ, cách chức. Những cáo buộc hay khiếu
nại chống lại Thẩm phán liên quan đến việc xét xử của họ phải được xử lý nhanh
chóng và công bằng theo thủ tục pháp lý thích hợp. Thẩm phán cũng có quyền được
xét xử công bằng. Thẩm phán có thể bị kỷ luật, đình chỉ hay cách chức do thiếu
năng lực hay vì có những hành vi không phù hợp với việc thực hiện nghĩa vụ của
họ, tuy nhiên, việc kỷ luật, đình chỉ hay cách chức như vậy phải được quyết định
dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức Thẩm phán mà đã được quy định và phải được xem
xét lại một cách độc lập.
Thứ năm, liên quan đến tự do ngôn luận và lập hội. Thẩm phán cũng là công
dân, do đó, cũng như các công dân khác, Thẩm phán có các quyền về dân sự, chính
trị và những quyền con người cơ bản khác, trong đó bao gồm quyền được thành lập

14


và tham gia hiệp hội của Thẩm phán hay các tổ chức khác đại diện cho quyền lợi
của họ. Tuy nhiên, trong khi thực hiện các quyền này, Thẩm phán phải luôn hành
động và xử sự theo cách thức bảo đảm duy trì danh tiếng của công chức cũng như
sự vô tư và tính độc lập của Tòa án.
Nhìn chung, các văn kiện pháp luật quốc tế chủ yếu đưa ra những tiêu chí cốt
lõi để đảm bảo cho tư pháp được độc lập, chứ không quy định cụ thể các tiêu chí đó
phải được thực hiện thế nào. Điểm chung của những văn kiện này đều nhấn mạnh
việc đảm bảo tư pháp phải độc lập so với hành pháp và lập pháp. Một yếu tố quan
trọng khác mà văn kiện nào cũng đề cập đến là sự độc lập trong việc đưa ra phán
quyết của Thẩm phán hay nói cách khác là tính độc lập của Thẩm phán.

Tóm lại, những quy định về độc lập tư pháp mà những văn kiện xây dựng chủ
yếu nhằm tạo ra cho mỗi quốc gia cách nhìn tổng thể nhất về tiêu chí bảo đảm cho
nguyên tắc độc lập tư pháp và trên cơ sở đó mỗi quốc gia sẽ cụ thể hóa trong pháp
luật cho phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia đó.
1.1.2.2. Tiêu chí bảo đảm độc lập tư pháp theo pháp luật Đức
Nhằm bảo đảm cho sự độc lập tư pháp được thực thi một cách hiệu quả, những
nhà lập pháp Đức đã quy định một cách đầy đủ các yếu tố bảo đảm cho vấn đề này
thông qua đạo Luật Cơ bản và những đạo luật khác.
a) Sự bảo đảm nguyên tắc độc lập tư pháp trong Luật Cơ bản
Ở CHLB Đức, nguyên tắc độc lập tư pháp được quy định rõ ràng tại khoản 2 và
3 Điều 20 trong Luật Cơ bản (Grundgesetz) thay vì Hiến pháp (Verfassung). Luật
Cơ bản CHLB Đức chính là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất hay được coi là đạo
luật gốc của CHLB Đức [55].
Nguyên tắc độc lập tư pháp là nguyên tắc hiến định, quyền tư pháp chỉ bị ràng
buộc bởi các Đạo luật và các văn bản pháp luật, không chịu sự ràng buộc bởi các cơ
quan quyền lực nhà nước khác.
Ngoài ra, nguyên tắc độc lập tư pháp cũng được cụ thể hoá trong các đạo luật
Đức, những đạo luật này đề cập đến không chỉ địa vị pháp lý của Thẩm phán, cơ
cấu tổ chức của các Tòa án Đức mà cả những thủ tục tố tụng trong hoạt động của

15


các Tòa án đó nữa. Có thể kể đến những đạo luật quan trọng nhất là “Đạo luật Thẩm
phán Đức, Đạo luật về tổ chức Tòa án, Đạo luật Tòa án Hành chính, Đạo luật Sở
hữu công nghiệp, Đạo luật về Tòa án Hiến pháp liên bang (sau đây gọi tắt là
“ĐLTAHPLB”), Các quy tắc tố tụng của Tòa án Hiến pháp liên bang (sau đây gọi
tắt là “TAHPLB”)” [14, tr.183]. Trong BLTTDS, BLTTHS, nguyên tắc độc lập tư
pháp không được quy định một cách trực tiếp nhưng tất cả quá trình tố tụng đều thể
hiện yêu cầu phải có các Thẩm phán độc lập và khách quan khi xét xử các vụ án.

b) Sự độc lập về thể chế
b.1) Đối với TAHP
Theo Luật Cơ bản CHLB Đức, TAHPLB độc lập với các thiết chế khác (không
phải là cơ quan của Quốc hội, không chịu sự giám sát của Quốc hội, không thuộc
Chính phủ hay Tòa án tối cao liên bang), có vị trí cao nhất trong các Tòa án ở
CHLB Đức và được trao thẩm quyền tối cao trong việc bảo vệ Luật Cơ bản (được
quy định cụ thể ở các Điều 93, 100, 21.(2), 41.(2), 61, 93.(1).4b [44]), các quyền cơ
bản của cá nhân khi bị cơ quan công quyền xâm phạm (quy định từ Điều 11 đến
Điều 19 Luật Cơ bản [44]).
Sự độc lập của TAHPLB còn thể hiện rõ qua quy định tại Điều 94.(1).3 Luật Cơ
bản và Điều 3.3 Đạo luật tổ chức TAHPLB, TAHPLB “không có giám sát công vụ,
không có sự chỉ đạo công tác xét xử từ bên ngoài, không phụ thuộc vào các cơ quan
hành chính trong việc trả lương, có ngân sách riêng độc lập về việc trả lương Thẩm
phán” [44].
Ngoài ra, liên quan đến thẩm quyền, TAHPLB được chia thành 02 Toà và hoạt
động xét xử như một Tòa án độc lập, có thẩm quyền riêng và về nguyên tắc Thẩm
phán của Toà này không được điều động, luân chuyển sang Toà kia, trừ trường hợp
khẩn cấp. Phạm vi thẩm quyền của TAHPLB được xác định trên nguyên tắc liệt kê
tại Luật Cơ bản hoặc các đạo luật.
Bên cạnh đó, mọi quyết định của TAHPLB “có hiệu lực ràng buộc đối với các
thiết chế hiến định của liên bang, các tiểu bang cũng như tất cả các Tòa án và cơ
quan hành chính (Điều 31.(1) LTAHPLB)” [44]. Điều này có nghĩa là các quyết

16


×