Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.22 KB, 68 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS.Trần Thị Giang Hương
Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đồ án này là trung thực và chưa công
bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau và có chú thích rõ nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung đồ án của mình.
Hà Nội, tháng 6 năm 2016
Sinh viên

Trần Đăng Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành đồ án thực tập tốt nghiệp với lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong khoa
Quản lý đất đai - Trường Đại Học Tài Nguyên Môi Trường Hà Nội đã truyền đạt
cho em những kiến thức cơ bản về nghề nghiệp, tạo điều kiện cho em hoàn thành đề
tài, sử dụng phát huy trong cuộc sống cũng như sự nghiệp sau này.
Em xin bày tỏ lòng biết sơn sâu sắc tới cô giáo TS. Trần Thị Giang Hương
người đã trực tiếp tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới phòng Tài Nguyên và Môi Trường
quận Cầu Giấy đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm hạn chế của một sinh
viên nên không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự đóng góp và chỉ bảo của
các thầy cô giáo đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 9 tháng 6 năm 2016


Sinh viên

Trần Đăng Tuấn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ, cụm từ viết tắt
UBND
BTHT&TĐC
BTHT
CNH - HĐH
CT - TTg
GPMB

Chú giải
Ủy ban nhân dân
Bồi thường hỗ trợ và tái đinh cư
Bồi thường, hỗ trợ
Công nghiệp hóa hiện đại hóa
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
Giải phóng mặt bằng


GCN

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền



HĐND

sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất
Nghị định
Quyết định
Hội đồng nhân dân
DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nguồn lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố của khu dân cư xây dựng các cơ sở y
tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không
gian, không thể thay thế và di chuyển được theo ý muốn chủ quan của con người.
Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng tài nguyên quý giá này một cách hợp lý
không những có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà

còn đảm bảo cho mục tiêu chính trị và phát triển xã hội. Đất đai luôn là yếu tố
không thể thiếu được đối với bất cứ quốc gia nào. Ngay từ khi loài người biết đến
chăn nuôi, trồng trọt, thì vấn đề sử dụng đất đai không còn đơn giản nữa bởi nó phát
triển song song với những tiến bộ của nền khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính
trị... Khi xã hội càng phát triển thì giá đất (giá Quyền sử dụng đất) ngày càng cao và
luôn giữ được vị trí quan trọng. Do đó, việc quản lý đất đai luôn là mục tiêu quốc
gia nhằm nắm chắc và quản lý chặt quỹ đất đai đảm bảo việc sử dụng đất đai tiết
kiệm và có hiệu quả. Xuất phát từ vai trò của đất đai đối với sự sống, sự phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước về
nắm chắc, quản chặt tới từng thửa đất. Vì vậy cần phải có sự quản lý chặt chẽ của
Nhà nước về đất đai. Ngoài ra trong điều kiện hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, những yếu tố thị trường trong đó có sự hình thành và phát triển của thị
trường bất động sản thì đất đai và nhà ở là nhu cầu vật chất thiết yếu của con người,
tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đất đai được bắt nguồn
từ nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, đáp ứng nhu
cầu đời sống xã hội.
Hơn nữa, quá trình phát triển kinh tế, quá trình đô thị hoá ở làm cho mật độ
dân cư ngày càng tăng. Chính sự gia tăng dân số, sự phát triển đô thị và quá trình
công nghiệp hoá làm cho nhu cầu về nhà ở cũng như đất xây dựng các công trình

6


công cộng, khu công nghiệp trong cả nước vốn đã “bức xúc” nay càng trở nên
“nhức nhối” hơn. Đây là vấn đề nan giải không chỉ với nước ta mà còn với các nước
đang phát triển và phát triển trên thế giới. Để giải quyết vấn đề này, mỗi quốc gia
đều xây dựng cho mình những chương trình, kế hoạch, chiến lược riêng phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện của mình để sử dụng đất đai được hợp lý, hiệu quả, tiết
kiệm. Đặc biệt là đối với nước ta - một đất nước mà quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp cả nước.[4]

Từ năm 1945 khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho đến
nay, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Nhà nước ta luôn quan tâm thích đáng đến vấn
đề đất đai và đã ban hành, đổi mới Luật đất đai: Luật đất đai 1988, Luật đất đai năm
1993; Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật đất đai 1993 năm 1998, năm
2001; Đặc biệt, Luật đất đai năm 2013 chính thức có hiệu lực ngày 01/7/2014 đã
từng bước đưa pháp luật đất đai phù hợp với thực tế quản lý và sử dụng đất. Các
văn bản, Thông tư, Nghị định…đi kèm đã giúp rất nhiều cho việc nắm chắc, quản lý
chặt chẽ quỹ đất đai của quốc gia cũng như phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Công tác quản lý Nhà nước về đất đai với 15 nội dung được ghi nhận tại
Luật đất đai năm 2013, đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước nắm chắc, quản lý chặt
chẽ nguồn tài nguyên của quốc gia cũng như để người sử dụng đất yên tâm sử dụng
và khai thác tiềm năng từ đất mang lại.[18]
Quận Cầu Giấy là một quận quan trọng hợp thành của thủ đô Hà Nội. Nằm ở
cửa ngõ phía Tây, một trong những khu phát triển chính của thành phố Hà Nội. Việc
đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất tại quận là một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ thực tế cũng như nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề, thực hiện
đề tài: “Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận Cầu
Giấy” là cần thiết.
2. Mục đích yêu cầu của đề tài
2.1 Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận.
- Đánh giá đúng thực trạng việc quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận.
- Đề xuất các ý kiến và giải pháp thích hợp.

7


2.2 Yêu cầu của đề tài
- Nắm được tình hình quản lý nhà nước về sử dụng đất trên địa bàn quận.

- Nắm được tình hình sử dụng đất trên địa bàn quận.
- Thu thập đầy đủ và chính xác các số liệu liên quan đến tình hình quản lý và
sử dụng đất trên địa bàn quận.
- Đề xuất biện pháp tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng đất trên địa bàn
quận phù hợp.

8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Cơ sở lý luận chung
1.1.1 Khái niệm đất
Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời,
hình thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá mẹ, động thực vật, khí hậu, địa hình, thời
gian. Giá trị tài nguyên đất được đánh giá bằng số lượng diện tích (ha, km 2) và độ
phì nhiêu, màu mỡ.
Đất đai được nhìn nhận là một nhân tố sinh thái, với khái niệm này đất đai
bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng
nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất. Đất theo nghĩa đất đai bao gồm:
yếu tố khí hậu, địa hình, địa mạo, tính chất thổ nhưỡng, thuỷ văn, thảm thực vật tự
nhiên, động vật và những biến đổi của đất do các hoạt động của con người.
Về mặt đời sống - xã hội, đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được của ngành sản xuất nông - lâm
nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá và an ninh quốc phòng. Nhưng đất đai
là tài nguyên thiên nhiên có hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không gian. [4]
- Vấn đề sử dụng đất
Sử dụng đất liên quan đến chức năng hoặc mục đích của loại đất được sử

dụng. Việc sử dụng đất có thể được định nghĩa là: “ những hoạt động của con người
có liên quan trực tiếp tới đất, sử dụng nguồn tài nguyên đất hoặc có tác động lên
chúng”. [2]
Số liệu về quá trình và hình thái các hoạt động đầu tư (lao động, vốn, nước,
phân hoá học ...), kết quả sản lượng (loại nông sản, thời gian, chu kỳ mùa vụ ...) cho
phép đánh giá chính xác việc sử dụng đất, phân tích tác động môi trường và kinh tế,
lập mô hình những ảnh hưởng của việc biến đổi sử dụng đất hoặc việc chuyển đổi
việc sử dụng đất này sang mục đích sử dụng đất khác.
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị chi phối
bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế bởi các điều
kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy có thể khái quát một số

9


điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất.
Điều kiện tự nhiên: khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian như diện
tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng..., cần chú ý đến việc thích ứng với điều kiện tự
nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất
như: yếu tố khí hậu, yếu tố địa hình, yếu tố thổ nhưỡng.
Điều kiện kinh tế - xã hội: bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân số, lao
động, thông tin, các chính sách quản lý về môi trường, chính sách đất đai, yêu cầu
về quốc phòng, sức sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử
dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn
nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Yếu tố không gian: đây là một tính chất “đặc biệt” khi sử dụng đất do đất đai
là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con người. Đất đai
hạn chế về số lượng, có vị trí cố định và là tư liệu sản xuất không thể thay thế được
khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội. [1]

1.1.2

Vấn đề quản lý đất đai
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến việc xác
lập và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển đất đai cùng với
những lợi nhuận thu được từ đất (thông qua việc bán, cho thuê hoặc thu thuế) và
giải quyết những tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất.
Quản lý đất đai là quá trình điều tra mô tả những tài liệu chi tiết về thửa đất,
xác định hoặc điều chỉnh các quyền và các thuộc tính khác của đất, lưu giữ, cập
nhật và cung cấp những thông tin liên quan về sở hữu, giá trị, sử dụng đất và các
nguồn thông tin khác liên quan đến thị trường bất động sản. Quản lý đất đai liên
quan đến cả hai đối tượng đất công và đất tư bao gồm các hoạt động đo đạc, đăng
ký đất đai, định giá đất, giám sát và quản lý sử dụng đất đai, cơ sở hạ tầng cho công
tác quản lý.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất đai và
các nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai bao gồm pháp Luật đất đai và pháp luật
liên quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, Nhà nước xác định một số
nội dung chủ yếu: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước; tập trung và phân cấp

10


quản lý; vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; vai trò của lĩnh vực công và tư nhân;
quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các tổ chức địa chính, quản lý nguồn nhân
lực; nghiên cứu; giáo dục và đào tạo; trợ giúp về chuyên gia tư vấn và kỹ thuật; hợp
tác quốc tế.
Do đất đai là có hạn trong khi dân số ngày càng tăng nên vai trò của đất đai
ngày càng trở nên quan trọng đối với xã hội loài người. Vì vậy, trong sử dụng đất
đai phải tiết kiệm và có hiệu quả.
1.1.3 Cơ sở pháp lý

- Luật đất đai 2013 số: 45/2013/QH13 thông qua ngày 29/11/2013 tại kỳ họp
Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2014.
- Luật đất đai số 45/2013/QH13 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013, quy định về chế độ sở hữu đất đia, quyền
hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống
nhất quản lý về đất đia, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật
đất đai (Có hiệu lực từ 01/07/2014).
- Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất (Có hiệu lực từ 01/07/2014).
- Nghị định 45/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền sử dụng đất (Có hiệu lực từ
01/07/2014).
- Nghị định 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước
(Có hiệu lực từ 01/07/2014).
- Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất (Có hiệu lực từ 01/07/2014).
- Nghị định số 84/2013/NĐ-CP ngày 25/07/2013 của Chính phủ quy định về
phát triển và quản lý nhà ở tái định cư.
- Thông tư 76/2014/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 45 về thu tiền sử dụng
đất(Có hiệu lực từ 01/08/2014).
- Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính;

11


- Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

- Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về bản đồ địa chính;
- Thông tư số 26/2014/TT-BTNMT ngày 28 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành quy trình và định mức kinh tế - kỹ thuật xây dựng
cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường;
- Thông tư số 28/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện
trạng sử dụng đất;
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất;
- Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất, thu hồi đất;
- Thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài chính
hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất;
- Thông tư số 77/2014/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài chính
hướng dẫn một số điều của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
- Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều
chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
- Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐCP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ.
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
1.2 Tình hình quản lý sử dụng đất đai ở một số nước trên thế giới

12



1.2.1 Nước Thụy Điển
Ở Thuỵ Điển, phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng việc quản lý và
sử dụng đất đai là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, toàn bộ pháp luật và
chính sách đất đai luôn đặt ra vấn đề hàng đầu là có sự cân bằng giữa lợi ích riêng
của chủ sử dụng đất và lợi ích chung của Nhà nước.
Bộ Luật đất đai của Thụy Điển là một văn bản pháp luật được xếp vào loại
hoàn chỉnh nhất, nó tập hợp và giải quyết các mối quan hệ dất đai và hoạt động của
toàn xã hội với 36 đạo luật khác nhau.
Các hoạt động cụ thể về quản lý sử dụng đất như quy hoạch sử dụng đất,
đăng ký dất đai, bất động sản và thông tin địa chính đều được quản lý bởi ngân
hàng dữ liệu đất đai và đều được luật hoá. Pháp luật và chính sách đất đai ở Thuỵ
Điển về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và kinh tế thị trường, có
sự giám sát chung của xã hội
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thuỵ Điển từ năm 1970 trở lại đây gắn liền
với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật bất động sản tư nhân. Quy định
các vật cố định gắn liền với bất động sản, quy định việc mua bán đất đai, việc thế
chấp, quy định về hoa lợi và các hoạt động khác như vấn đề bồi thường, quy hoạch sử
dụng đất, thu hồi đất, đăng ký quyền sở hữu đất đai và hệ thống đăng ký… [13]
1.2.2 Nước Trung Quốc
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đang thi hành chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa về đất đai, đó là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của
quần chúng lao động. Mọi đơn vị, cá nhân không được xâm chiếm, mua bán hoặc
chuyển nhượng phi pháp đất đai. Vì lợi ích công cộng, Nhà nước có thể tiến hành
trưng dụng theo pháp luật đối với đất đai thuộc sở hữu tập thể và thực hiện chế độ
quản chế mục đích sử dụng đất.
Tiết kiệm đất, sử dụng đất đai hợp lý, bảo vệ thiết thực đất canh tác là quốc
sách cơ bản của Trung Quốc.
Đất đai ở Trung Quốc được phân thành 3 loại
- Đất dùng cho nông nghiệp là đất trực tiếp sử dụng vào sản xuất nông

nghiệp bao gồm đất canh tác, đất rừng, đồng cỏ, đất dùng cho các công trình thuỷ
lợi và đất mặt nước nuôi trồng.

13


- Đất xây dựng gồm đất xây dựng nhà ở đô thị và nông thôn, đất dùng cho
mục đích công cộng, đất dùng cho khu công nghiệp, công nghệ, khoáng sản và đất
dùng cho công trình quốc phòng.
- Đất chưa sử dụng là đất không thuộc hai loại đất trên
Ở Trung Quốc hiện có 250 triệu hộ nông dân sử dụng trên 100 triệu ha đất
canh tác, bình quân khoảng 0,4ha/hộ gia đình. Vì vậy Nhà nước có chế độ bảo hộ
đặc biệt đất canh tác.
Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường đối với đất bị trưng dụng theo mục đích
sử dụng đất trưng dụng. Tiền bồi thường đối với đất canh tác bằng 6 đến 10 lần sản
lượng bình quân hàng năm của 3 năm liên tiếp trước đó khi bị trưng dụng. Tiêu chuẩn
hỗ trợ định cư cho mỗi nhân khẩu nông nghiệp bằng từ 4 đến 6 lần giá trị sản lượng
bình quân của đất canh tác/đầu người thuộc đất bị trưng dụng, cao nhất không vượt
quá 15 lần sản lượng bình quân của đất bị trưng dụng 3 năm trước đó. Đồng thời
nghiêm cấm tuyệt đối việc xâm phạm, lạm dụng tiền đề bù đất trưng dụng và các loại
tiền khác liên quan đến đất bị trưng dụng để sử dụng vào mục đích khác.[13]
1.2.3 Nước Pháp
Các chính sách quản lý đất đai ở Cộng hoà Pháp được xây dựng trên một số
nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch không gian, bao gồm cả chỉ đạo quản lý sử dụng đất
đai và hình thành các công cụ quản lý đất đai.
Nguyên tắc đầu tiên là phân biệt rõ ràng không gian công cộng và không
gian tư nhân. Không gian công cộng gồm đất đai, tài sản trên đất thuộc sở hữu Nhà
nước và tập thể địa phương. Tài sản công cộng được đảm bảo lợi ích công cộng có
đặc điểm là không thể chuyển nhượng, tức là không mua, bán được. Không gian
công cộng gồm các công sở, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, bảo tàng ...

Không gian tư nhân song song tồn tại với không gian công cộng và đảm bảo
lợi ích song hành. Quyền sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng liêng, không
ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình. Chỉ có lợi ích
công cộng mới có thể yêu cầu lợi ích tư nhân nhường chỗ và trong trường hợp đó,
lợi ích công cộng phải thực hiện bồi thường một cách công bằng và tiên quyết với
lợi ích tư nhân.
Ở Pháp, chính sách quản lý sử dụng đất canh tác rất chặt chẽ để đảm bảo sản

14


xuất nông nghiệp bền vững và tuân thủ việc phân vùng sản xuất. Sử dụng đất nông
nghiệp, luật pháp quy định một số điểm cơ bản sau:
Việc chuyển đất canh tác sang mục đích khác, kể cả việc làm nhà ở cũng
phải xin phép chính quyền cấp xã quyết định. Nghiêm cấm việc xây dựng nhà trên
đất canh tác để bán cho người khác.
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế, được hưởng quy chế ưu tiên đối với
một số đất đai chuyên dùng để gieo hạt, đất đã trồng hoặc trồng lại rừng, đất mới
dành cho ươm cây trồng.
Khuyến khích việc tích tụ đất nông nghiệp bằng cách tạo điều kiện thuận lợi
để các chủ đất có nhiều mảnh đất ở các vùng khác nhau có thể đàm phán với nhau
nhằm tiến hành chuyển đổi ruộng đất, tạo điều kiện tập trung các thửa đất nhỏ thành
các thửa đất lớn.
Việc mua bán đất đai không thể tự thực hiện giữa người bán và người mua,
muốn bán đất phải xin phép cơ quan giám sát việc mua bán. Việc bán đất nông
nghiệp phải nộp thuế đất và thuế trước bạ. Đất này được ưu tiên bán cho những
người láng giềng để tạo ra các thửa đất có diện tích lớn hơn.
Ở Pháp có cơ quan giám sát việc mua bán đất để kiểm soát hoạt động mua
bán, chuyển nhượng đất đai. Cơ quan giám sát đồng thời làm nhiệm vụ môi giới và
trực tiếp tham gia quá trình mua bán đất. Văn tự chuyển đổi chủ sở hữu đất đai có

Toà án Hành chính xác nhận trước và sau khi chuyển đổi.
Đối với đất đô thị mới, khi chia cho người dân thì phải nộp 30% chi phí cho
các công trình xây dựng hạ tầng, phần còn lại là 70% do kinh phí địa phương chi
trả.
Ngày nay, đất đai ở Pháp ngày càng có nhiều luật chi phối theo các quy định
của các cơ quan hữu quan như quản lý đất đai, môi trường, quản lý đô thị, quy
hoạch vùng lãnh thổ và đầu tư phát triển. [13]
1.2.4 Nước Australia
Australia có lịch sử hình thành từ thuộc địa của Anh, nhờ vậy Australia có
được cơ sở và hệ thống pháp luật quản lý xã hội nói chung và quản lý đất đai nói
riêng từ rất sớm. Trong suốt quá trình lịch sử từ lúc là thuộc địa đến khi trở thành
quốc gia độc lập, pháp luật và chính sách đất đai của Australia mang tính kế thừa và

15


phát triển một cách liên tục, không có sự thay đổi và gián đoạn do sự thay đổi về
chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi làm cho pháp luật và chính sách đất đai phát
triển nhất quán và ngày càng hoàn thiện, được xếp vào loại hàng đầu của thế giới, vì
pháp Luật đất đai của Australia đã tập hợp và vận dụng được hàng chục luật khác
nhau của đất nước.
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia là đất thuộc sở hữu
Nhà nước và đất thuộc sở hữu tư nhân. Australia công nhận Nhà nước và tư nhân có
quyền sở hữu đất đai và bất động sản trên mặt đất. Phạm vi sở hữu đất đai theo luật
định là tính từ tâm trái đất trở lên, nhưng thông thường Nhà nước có quyền bảo tồn
đất ở từng độ sâu nhất định, nơi có những mỏ khoáng sản quý như vàng, bạc, thiếc,
than, dầu mỏ …( theo sắc luật về đất đai khoáng sản năm 1993).
Luật đất đai Australia bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu
đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế theo di
chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai. Tuy nhiên, luật cũng

quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử dụng vào mục đích công
cộng, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và việc trưng thu dó gắn liền với việc Nhà
nước phải thực hiện bồi thường thoả đáng. [13]
1.3 Công tác quản lý sử dụng đất đai ở Việt Nam trong thời kì đầu
1.3.1 Cở sở pháp lý về quản lý sử dụng đất đai thời kì đầu
Ở Việt Nam, công tác quản lý tài nguyên đất đã được quan tâm từ rất sớm.
Những năm đầu của thập kỷ 80, Nhà nước đã xây dựng một hệ thống chính sách về
đất đai phù hợp với tình hình đất nước thể hiện ở chính sách thống nhất quản lý
ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước, đồng thời thực
hiện công tác đo đạc phân hạng đất và đăng ký thống kê đất đai trong cả nước. Đặc
biệt ngày 18/12/1980 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Hiến pháp sửa đổi quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên
thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa… đều thuộc sở hữu toàn dân
và Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung”. Đây là cơ sở pháp
lý vô cùng quan trọng để thực thi công tác quản lý đất đai trên phạm vi cả nước.
[18]
Nội dung quản lý đất nông nghiệp có những chuyển biến tích cực khi thực

16


hiện Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/01/1981 về việc
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị
100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng được coi là tiền đề cho những chính
sách mang tính cải cách sâu rộng sau này.
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khoá VIII chính thức thông qua Luật đất đai
1988 và nó chính thức có hiệu lực từ ngày 08/01/1988. Nghị quyết 10/NQ-TW ngày
05/04/1988 của Bộ Chính trị về giao đất cho hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài là
dấu mốc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của công tác quản lý sử
dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng đổi mới đất nước.

Cùng với những bước phát triển của cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện
chính sách hội nhập với thế giới, Hiến pháp năm 1992 ra đời đánh dấu điểm khởi
đầu của công cuộc đổi mới chính trị. Tại điều 17 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật”.
Đồng thời Luật đất đai 1988 không còn phù hợp và bộc lộ nhiều điểm bất
cập, chính vì vậy ngày 01/07/1993 Luật đất đai 1993 được thông qua, chính thức có
hiệu lực từ ngày 15/10/1993. Tiếp đó là Luật đất đai bổ sung một số điều của Luật
đất đai 1993, 2001.
Hệ thống pháp luật về đất đai thời kỳ này đã đánh dấu một mốc quan trọng
về sự đổi mới chính sách đất đai của Nhà nước ta với những thay đổi quan trọng
như: Đất đai được khẳng định là có giá trị; ruộng đất nông lâm nghiệp được giao ổn
định lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân; người sử dụng đất được hưởng các quyền:
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất….và
quy định 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Nghị định 64/CP ngày
27/09/1993 quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 02/CP ngày
15/01/1994 của Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp.[18]
Ngày 26/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật đất
đai năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004. Luật đất đai 2003 và hệ
thống pháp luật về đất đai sau này đã vận dụng cũng như kế thừa những chính sách
mang tính đổi mới, tiến bộ của hệ thống pháp Luật đất đai trước đây đồng thời tiếp
thu, đón đầu những chính sách pháp Luật đất đai tiên tiến, hiện đại, phù hợp với

17


tình hình kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước.
Tại điều 6 Luật đất đai 2003 quy định 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất
đai. Bao gồm:
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và

tổ chức thực hiện các văn bản đó;
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập
bản đồ hành chính;
3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ
hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng
đất;
6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
7. Thống kê, kiểm kê đất đai;
8. Quản lý tài chính về đất đai;
9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản;
10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất;
11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai
và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
12. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai;
Cùng với Luật đất đai năm 2013, Nhà nước đã ban hành các Nghị định,
Thông tư, Chỉ thị … đã tạo ra một hành lang pháp lý cho công tác quản lý đất đai.
Hệ thống văn bản pháp Luật đất đai được đánh giá là tương đối hoàn chỉnh với
những nội dung quy định cụ thể: về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai; về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về thu tiền sử dụng đất; về cấp giấy

18



chứng nhận quyền sử dụng đất; hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và
xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa
chính; hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
1.3.2 Nghiên cứu công tác quản lý sử dụng đất đai ở Việt Nam thời kì đầu
Bất kỳ một quốc gia nào, nhà nước nào cũng có một quỹ đất nhất định được
giới hạn bởi biên giới quốc gia mà thiên nhiên ban tặng.Bất kỳ một nhà nước nào ,
chế độ chính trị nào ở thời kỳ lịch sử nào cũng cần có đất. Đất đai là vấn đề sống
còn của mỗi quốc gia vì vậy nhà nước muốn tồn tại và phát triển thì phải quản chặt
nắm chắc tài nguyên đất đai đó. Mỗi thời kỳ lịch sử với giai cấp khác nhau, chế độ
chính trị khác nhau đều có chính sách quản lý đất đất đai đặc trưng cho thời kỳ lịch
sử đó.
Ở chế độ nô lệ thì ở nước ta triều đại Hùng Vương kéo dài hàng nghìn năm,
xã hội Việt Nam đang ở thời kỳ công xã nguyên thuỷ tan rã.Vì vậy ruộng đất đang
chuyển từ tay tập thể công xã sang giai cấp chủ nô. Các chủ nô nắm quyền quản lý
đất đai và cả nô lệ.
Sang thời kỳ phong kiến thì đất đai chủ yếu tập trung vào tay của tầng lớp
thống trị và bọn địa chủ. Nhân dân không có ruộng đất, phải làm thuê hoặc mướn
ruộng đất để sản xuất.
Đối với chế độ thực dân phong kiến thì từ khi tới xâm lược nước ta thực dân
pháp đã điều chỉnh mối quan hệ đất đai theo luật pháp của nước Pháp. Công nhận
quyền sở hữu tư nhân tuyệt đối về đất đai.Khác với luật lệ nhà Nguyễn.Thực
dân pháp đánh thuế thổ canh (đất nông nghiệp) rất cao nhưng thuế đất thổ cư
(đất ở) không đáng kể. Ngay sau khi tới Việt Nam, Pháp đã cho lập bản đồ địa
chính theo toạ độ và lập sổ địa bạ mới nhằm mục đích thu thuế nông nghiệp
triệt để.Công trình lập bản đồ địa chính két thúc năm 1898 tại Nam Bộ, năm
1925 tại Bắc Bộ và đến năm 1945 chưa hoàn thành ở Trung Bộ.
Cách mạng tháng Tám thành công nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời. Với mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, năm 1946 hiến pháp đầu
tiên ra đời đã thể hiện ý chí và quyền lực của nhà nước trong việc quản lý và sử

dụng đất đai. Tháng 11/1953 hội nghị lần thứ V của ban chấp hành trung ương Đảng
thông qua cương lĩnh ruộng đất và quyết định cải cách ruộng đất, tịch thu, trưng

19


mua, trưng thu ruộng đất của địa chủ để chia cho dân nghèo, đến khoảng 1956 đã
hoàn thành cải cách ruộng đất. Như vậy với chính sách đó đã đem lại ruộng đất cho
nông dân, xoá bỏ giai cấp địa chủ đã có hàng nghìn năm. Tuy nhiên công tác này
gặp phải những sai lầm nhất định và hậu quả để lại của nó là nạn đói hoành hành,
đất đai bị hoang hoá.
Để ổn định tình trạng sử dụng đất ở nông thôn chính phủ đã ban hành chỉ thị
354/TTg trong đó có việc hợp thức hoá nông nghiệp, người dân làm ăn theo công
điểm. Nhưng hiệu quả không cao, nông sản làm ra không đủ ăn, đời sống của nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết tình trạng trên Nhà nước đã ban hành nghị
quyết khoán mười (nghị quyết 10-NQ/TW). Sau khi nghị quyết này ra đời đã kích
thích tính chủ động sáng tạo của người dân, người dân hăng hái tham gia sản xuất.
Hiến pháp năm 1960 đã xác lập quyền sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân về đất đai.
Hiến pháp năm 1980 ra đời, quy định: Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ đất
đai, nhà nước thống nhất quản lý.
Năm 1987 luật đất đai đầu tiên ra đời mở ra bước ngoặc mới cho công tác
quản lý và sử dụng đất nước ta. Tiếp theo đó là các thông tư nghị định của các bộ
ban hành nhằm điều chỉnh, hướng dẫn những chính sách đất đai của Nhà nước:
Thông tư liên bộ số 05-TT/LB ngày 18/12/1991 của bộ thuỷ sản và tổng cục quản lý
ruộng đất hướng dẫn giao những ao nhỏ, mương rạch nằm gọn trong đất thổ cư cho
hộ gia đình và ao lớn, hồ lớn thì giao cho một nhóm hộ gia đình sử dụng; quyết định
số 327/CT của hội đồng bộ trưởng ngày 15/7/1992 về thực hiện chính sách giao
ruộng đất, đồi núi trọc, ruộng bãi bồi, ven biển và mặt nước cho hộ gia đình sử
dụng.

Đến năm 1992 luật đất đai tiếp tục bổ sung, sửa đổi nhằm đáp ứng nhu cầu
sử dụng đất trong thời kỳ đổi mới.
Để phù hợp với những yêu cầu kinh tế trong giai đoạn mới, kỳ họp quốc hội
khoá IX ngày 14/7/1993 luật đất đai, luật thuế sử dụng đất nông nghiệp được thông
qua. Sau đó liên tục các văn bản của chính phủ và các bộ ngành ra đời nhằm triển
khai luật này: Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 về đất nông nghiệp, nghị định

20


88/CP ngày 17/8/1994 về đất đô thị, nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 về đất lâm
nghiệp.
Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành vào ngày 15/10/1993 đã tiếp tục
khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” thể
hiện đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong công tác quản lý đất đai.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm phát sinh nhiều vấn đề mà luật
đất đai năm 1993 khó giải quyết. Vì thế nó liên tục được sửa đổi bổ sung như luật
sửa đổi bổ sung được ban hành ngày 2/12/1998, luật sửa đổi bổ sung một số điều
ban hành 1/10/2001 nhằm quy định khung giá đất.
Ngày 26/11/2003 luật đất đai ra đời và có hiệu lực ngày 1/7/2004 tiếp tục sửa
đổi cho phù hợp với nền kinh tế thị trường trong thời đại mới, hàng loạt các văn bản
hướng dẫn thi hành luật kèm theo đã thực sự đưa công tác quản lý và sử dụng đất đi
vào nề nếp, ổn định. [18]
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý nhà nước về đất đai của quận
Cầu Giấy. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội liên quan đến quá trình sử dụng đất
trên địa bàn quận
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trong giai

2.2 Nội dung nghiên cứu.
- Đánh giá các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của quận Cầu Giấy.
- Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai của quận Cầu Giấy.
- Đánh giá tình hình sử dụng đất của quận Cầu Giấy.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý và sử dụng đất.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu.
- Tìm hiểu các tài liệu văn bản pháp luật do Quốc Hội, Chính phủ, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền; các văn bản pháp luật do Thành phố Hà Nội và
quận Cầu Giấy ban hành về quản lý và sử dụng đất đai.

21


- Điều tra thu thập các tài liệu, số liệu, các thông tin cần thiết về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội, về tình hình quản lý, sử dụng đất trên địa bàn quận Cầu Giấy.
2.3.2. Phương pháp kế thừa, chon lọc.
- Phương pháp này sử dụng và thừa hưởng những tài liệu, dữ liệu đã có về
vấn đề nghiên cứu, dựa trên những thông tin sẵn có để xây dựng và phát triển thành
cơ sở dữ liệu cần thiết của luận văn.
- Phương pháp này áp dụng đối với phần tổng quan khi nghiên cứu các vấn
đề về tình hình quản lý, sử dụng đất trên thế giới và ở Việt Nam; cơ sở pháp lý của
quản lý Nhà nước về đất đai.
2.3.3. Phương pháp phân tích , tổng hợp xử lý số liệu.
- Quá trình thống kê, phân tích nhằm phân loại tài liệu đã thu thập, liệt kê
các tài liệu, số liệu có nội dung đáng tin cậy, từ đó tổng hợp xây dựng nội dung của
luận văn.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội quận Cầu Giấy
3.1.1 Điều kiện tự nhiên quận Cầu Giấy

a. Vị trí địa lý
Quận Cầu Giấy là một bộ phận hợp thành của Thủ đô Hà Nội. Đây là quận
mới thành lập từ ngày 01/09/1997 bao gồm 4 thị trấn Nghĩa Tân, Nghĩa Đô, Mai
Dịch, Cầu Giấy và 3 xã Trung Hòa, Yên Hòa và Dịch Vọng. Dân số của quận năm
2015 là 208.080
Về địa giới, phía Nam giáp Quận Thanh Xuân, phía Bắc giáp quận Tây Hồ,
phía Đông giáp quận Ba Đình, phía Tây giáp quận nam và bắc Từ Liêm.
Quận nằm ở cửa ngõ phía Tây nhưng liền kề với quận trung tâm, một trong
những khu phát triển chính của thành phó Hà Nội, cách trung tâm thành phố chừng
6 km. Trong quận có sông Tô Lịch chạy dọc theo chiều phía Đông của quận, có trục
đường giao thông vành đai nối thủ đô Hà Nội với sân bay quốc tế Nội Bài và trục
đường chính nối trung tâm Hà Nội với chuỗi đô thi vệ tinh Hòa Lạc – Sơn Tây –
Xuân Mai (đường Trần Duy Hưng, Đường Cầu Giấy - Xuân Thủy – 32). Có thể nói
quận có vị trí rất quan trọng ở phía Tây – Tây Bắc thủ đô Hà Nội, lại là nơi đang có

22


tốc độ đô thi hóa nhanh với nhiều dự án lớn trên các lĩnh vực kinh tế xã hội.
b. Cảnh quan thiên nhiên
Quận Cầu Giấy được hình thành trong vùng ven nội thành trước đây. Vì vậy.
chỉ có một số khu vực được. Đô thi hóa rõ nét như đường Cầu Giấy – Xuân Thủy –
đường 32 (phường Quan Hoa, Mai Dịch), đường Hoàng Quốc Việt, đường Nguyễn
Phong Sắc (phường Nghĩa Đô, Nghĩa Tân). Còn lại phần lớn đất đai là các điểm dân
cư làng xóm và ruộng canh tác thông thoáng. Tuy quận Cầu Giấy đang được Đô thị
mạnh nhưng các làng xóm vẫn giữ được những nét cổ truyền: nhà thấp tầng có
vườn, mật độ xây dựng thấp, đan xen với nhà ở trong làng có nhiều công trình di
tích đền chùa đình. Trong quận có hồ Nghĩa Đô ( chưa được khai thác triệt để), sông
Tô Lịch chạy dọc phía Đông quận, là ranh giới tự nhiên của quận Cầu Giấy với
quận Ba Đình và quận Đống Đa. Hiện tại sông Tô Lịch là tuyến thoát nước mưa,

nước thải chính, được cải tạo từ năm 1975 nay đang được chỉnh trang thành trục
cảnh quan nghỉ ngơi và cải thiện môi trường của khu vực. Tương lai nếu được đầu
tư thích đáng làm sạch dòng chảy , xây kè và làm đường hai bên, trồng cây xanh tạo
thành công viên bờ sông thì sông Tô Lịch sẽ là một không gian đẹp, thoáng mát của
khu vực (hiện nay dự án xây kè mở rộng dòng chảy bước đầu đang được triển khai).
Trong quận đã có một số khách sạn lớn đẹp (Khách sạn Cầu Giấy, Pan Hozizon,…),
Bảo tàng dân tộc học, các Viện nghiên cứu khoa học, Trưởng đại học và 51 công
trình di tích lịch sử văn hóa (đình, chùa, miếu, nhà thờ họ,…)
c. Địa hình và địa chất công trình
Địa hình tương đối bằng phẳng, cao độ thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông
sang Tây. Phần đất phía Bắc của quận và khu dân cư hữu ngạn sông Tô Lịch có độ
cao từ 6,4 - 7,2m. Phía Tây và Nam quận phần lớn là đất canh tác cao độ từ 4,8 –
5,4m.
Nhìn chung địa chất công trình quận Cầu Giấy thuận lợi cho việc xây dựng
nhà cao tầng. Vị trí của Quận đã đem lại một lợi thế to lớn cho Quận trong phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức trong việc sử dụng
những lợi thế của mình.
d. Thời tiết khí hậu
Nhìn chung thời tiết, khí hậu của Quận mang những đặc trưng của vùng

23


đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đây là một điều kiện thuận lợi cho đời sống và sản
xuất. Cụ thể các chỉ số về thời tiết và khí hậu của Quận như sau:
+ Về nhiệt độ: nhiệt độ trung bình hang năm của Quận vào khoảng 23,9 oC .
Trong đó, nhiệt độ cao nhất là vào tháng 6, trung bình là 29,4 oC, và thấp nhất là vào
tháng 1, trung bình là 16,9oC. Độ ẩm trung bình hằng năm 84,5%, số giờ nắng trung
bình 1620 giờ, bức xạ mặt trời 102 kcal/cm²/năm.
+ Về lượng mưa: lượng mưa trung bình hàng năm của Quận là 1577,3 mm.

Lượng mưa này chỉ thuộc mức trung bình của vùng đồng bằng sông Bắc Bộ, nhưng
phân bố không đều trong năm. Lượng mưa thường cao nhất là vào tháng 7 và tháng
8(tháng 8 có lượng mưa là 338,7 mm) tháng có lượng mưa ít nhất là tháng 12,
khoảng 13.29 mm. Sự chênh lệch lớn này có tác động rất lớn tới sản xuất nông
nghiệp.
e. Các nguồn tài nguyên
* Tài nguyên đất
Quận Cầu Giấy có diện tích đứng thứ 3 trong số 7 quận nội thành. Điểm nổi
bật của quận Cầu Giấy là đất chưa xây dựng còn 407ha chiếm 33,8% diện tích đất
của cả quận. Đây là một thuận lời cho việc phát triển theo quy hoạch mà quận đề ra.
Một phần chất lượng đất đai của quận Cầu Giấy tương đối tốt, sở dĩ như vậy
là do nguồn gốc hình thành của đất đai. Đất của quận Cầu Giấy hình thành chủ yếu
do sự bồi đắp của phù sa sông Hồng và sông Tô Lịch, tuy vậy do tốc độ phát triển
nhanh nên gần đây đất đang suy giảm chất lượng nghiêm trọng do bị khai thác quá
tải và do rác thải trong sinh hoạt và sản xuất.
Phần lớn chất lượng đất ở đây không thuận lợi đối với việc sản xuất nông
nghiệp bởi vì đất có hàm lượng sét cao, dung trọng lớn, độ rỗng nhỏ làm cho nồng
độ oxy trong đất ít, ảnh hưởng đến sự phân hủy độc tộ và cung cấp oxy làm cho cây
trồng kém phát triển. Hàm lượng các chất dinh dưỡng thấp, hàm lượng cất hữu cơ
(mùn) từ 3,08 đến 4,06% thể hiện đất ở đây thuộc dạng mùn trung bình. Ngoài các
yếu tố trên ra, đất ở đây còn chứa một số kim loại nặng (Cr, Cu), vi khuẩn cũng gây
ảnh hưởng đến chất lượng đất và sức khỏe con người.
Với chất lượng đất thấp, thành phần dinh dưỡng nghèo như vậy, việc sản
xuất nông nghiệp không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, việc chuyển đổi cơ

24


cấu sử dụng đất từ sản xuất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp là hoàn toàn hợp
lý, khai thác được khả năng sử dụng đất một cách hiệu quả hơn, góp phần nâng cao

đời sống cộng đồng.
*Tài nguyên nước
Đặc điểm sông ngòi: Rìa phía Đông khu vực là sông Tô Lịch chảy dài suốt
chiều dài địa giới phía Đông quận, đóng vai trò địa giới hành chính với quận Tây
Hồ, quận Ba Đình và quận Đống Đa, đóng vai trò quan trọng trong tiêu thoát nước
của khu vực.
Sông Tô Lịch chạy dọc phía Đông của quận là ranh giới tự nhiên giữa quận
Cầu Giấy và quận Đống Đa. Hiện tại sông Tô Lịch là tuyến thoát nước mưa, thoát
nước bẩn chính, đang được cải tạo, chỉnh trang làm sạch dòng chảy, xây kè, làm
đường hai bên, trồng cây xanh tạo thành công viên. Trong tương lai hai bên bờ sông
Tô Lịch sẽ là một không gian, thoáng mát, môi trường trong sạch.
Kết quả thăm dò khu vực Cầu Giấy – Từ Liêm có nguồn nước ngầm lớn, trữ
lượng được phê chuẩn 106,663m/ngày (cấp A) và 56,845m/ngày (cấp B)
Trong quận có hồ Nghĩa Đô hiện đã xây kè, chỉnh trang. Đây là điểm nghỉ
ngơi vui chơi giải trí của quận.
*Tài nguyên nhân văn
Nơi đây cũng là cái nôi văn hiến và nghề cổ truyển: làng Giấy (Thượng Yên
Quyết) từng có 9 tiến sĩ, làng Cót (Hạ Yên Quyết) cũng có 9 tiến sĩ, làng Nghĩa Đô
(làng Nghè) 3 tiến sĩ, cử nhân tú tài thì lên đến hàng trăm người. Vùng Bưởi có
nghề dệt lụa, gấm, làm giấy. Làng Vòng (Dịch Vọng Hậu) làm cốm, Cốm Vòng nổi
tiếng tới bây giờ. Làng Giấy làm giấy phất quạt, gói hàng. Làng Giàn có nghề làm
hương. Trên địa bàn quận ngày nay có nhiều đình dền khá tôn nghiêm như: đền Lê
(thờ hai chị em họ Lê đã giúp Lê Đại Hành phá quân Tống), chùa Hoa Lăng (thờ mẹ
của sư Từ Lộ), chùa Hà, chùa Thánh Chúa. Làng Nghĩa Đô cũng là quê ngoại của
nhà văn Tô Hoài.
2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
Cơ cấu kinh tế của Quận đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các ngành
công nghiệp (62,24%) và thương mại dịch vụ (35,37%), ngành nông nghiệp chiếm
tỷ trọng nhỏ (2,39%) trong tổng giá trị các ngành kinh tế trong toàn Quận. Đây là sự


25


×