Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất tại Thị xã Sơn Tây – Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.25 KB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt
tình của các Thầy, Cô giáo ngành Quản lý đất đai của trường đại học tài nguyên và
môi trường Hà Nội, các thầy, cô đã tạo điều kiện để em hoàn thành đề tài tốt nghiệp
này.
Trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
Cô giáo Trần Thị Thu Hoài đã giúp đỡ tận tình và trực tiếp hướng dẫn em trong
suốt thời gian em thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ, chỉ bảo ân cần của các Thầy, Cô giáo
ngành Quản Lý Đất Đai - Trường đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội trong
suốt thời gian học tập.
Em xin chân thành cảm ơn Phòng Tài nguyên và Môi trường Thị xã Sơn Tây,
đơn vị đã trực tiếp giúp đỡ em trong thời gian thực tập đề tài tại địa bàn.
Tự đáy lòng mình, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Em xin kính chúc các Thầy, Cô giáo luôn mạnh khoẻ - hạnh phúc.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2015
Sinh viên

Đặng Trần Quân


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất đai là tài sản vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình y tế, văn hóa, xã hội, an
ninh quốc phòng, và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu phát triển của
xã hội. Đối với nước ta, Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và
thống nhất quản lý về đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối
với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong những năm trở lại đây ngoài sự phát triển mạnh mẽ của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa bên cạnh đó còn có sự gia tăng dân số, quá trình
đô thị hóa ngày một tăng cao làm nhu cầu sủ dụng đất tăng lên trong khi tài
nguyên và đất đai là hữu hạn. Chính vì vậy việc sử dụng đất một cách tiết
kiệm, hiệu quả và bền vững là câu hỏi lớn đang được đặt ra hiện nay, đòi hỏi
Đảng và nhà nước phải có các chính sách và biện pháp nhằm đạt hiệu quả
trong quá trình quản lý và sử dụng đất.
Tại thời điểm hiện nay đất đai là một vấn đề hết sức nóng bỏng, luôn
được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Tất cả mọi hoạt động của con
người đều tác động đến quá trình sử dụng đất làm cho nhu cầu sử dụng đất
ngày càng đa dạng. Các vấn đề trong lĩnh vực đất đai trở nên rất phức tạp và
vô cùng nhạy cảm. Do vậy cần có những biện pháp hợp lý để bảo vệ chính
đáng lợi ích của các đối tượng trong quan hệ đất đai, nên công tác quản lý đất
đai có vai trò rất quan trọng.
Thị xã Sơn Tây nằm ở phía Tây và cách trung tâm Thủ đô Hà Nội
khoảng 40 km theo Quốc lộ 32 và đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, là trung tâm
kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh khu vực phía Tây Thủ đô Hà
Nội, trong tương lai, Thị xã Sơn Tây là một trong những đô thị vệ tinh quan
trọng của Hà Nội, với chức năng chính là đô thị văn hóa và du lịch. Đây là đô
thị có lịch sử văn hóa lâu đời, là vùng đất “địa linh - nhân kiệt” với nhiều di tích
lịch sử, văn hóa được Nhà nước xếp hạng như Thành cổ Sơn Tây, làng cổ

Đường Lâm, đền Phùng Hưng, lăng Ngô Quyền, đền Và, chùa Mía..., là nơi
có nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng đẹp như các khu du lịch sinh thái hồ Đồng
Mô, hồ Xuân Khanh, khu nghỉ dưỡng ASEAN, sân gôn Thung Lũng Vua, làng
văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam..., là nơi hội tụ của nền văn hóa “Xứ
Đoài” nổi tiếng.
5


Trong những năm gần đây thị xã đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện
công tác quản lý và sử dụng đất tại địa phương. Tuy đã đạt được nhiều thành
công đáng kể nhưng bên cạnh đó vẫn còn gặp phải những khó khăn, vướng
mắc nhất định vì vậy việc đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất trở thành
vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan và nhu cầu sử dụng đất, em xin tiến
hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất tại Thị
xã Sơn Tây – Thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu và yêu cầu của đề tài:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn.
- Đánh giá việc thực hiện công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn.
- Tìm hiểu nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về
đất đai và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử
dụng đất.
- Biết được tình hình sử dụng đất tại địa phương từ đó có các kế hoạch,
chính sách sử dụng đất nhằm giải quyết, khắc phục những bất hợp lý trong
việc sử dụng đất.
2.2. Yêu cầu của đề tài:
- Nắm được tình hình sử dụng đất trên địa bàn.
- Thu thập đầy đủ, chính xác các số liệu, tài liệu trên địa bàn có liên
quan đến công tác quản lý và sử dụng đất.

- Số liệu đưa ra phải phản ánh đúng thực trạng quản lý và sử dụng đất
tại địa phương.
- Đề xuất những giải pháp khả thi, biện pháp tăng cường hiệu quả công
tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn.

6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học về vấn đề quản lý và sử dụng đất:
1.1.1. Khái niệm:
- Khái niệm đất đai:
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 tại chương III, điều 53,
54 đã quy định: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan
trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật” và một lần nữa khẳng
định "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý”.
Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên do cấu tạo độc lập lâu
đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá mẹ, động thực vật, khí hậu,
địa hình, thời gian. Giá trị tài nguyên đất được đánh giá bằng số lượng diện
tích (ha, km2 ) và độ phì nhiêu, màu mỡ.
Đất đai được nhìn nhận là một nhân tố sinh thái, với khái niệm này đất
đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có
ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất. Đất theo nghĩa
đất đai bao gồm: yếu tố khí hậu, địa hình, địa mạo, tính chất thổ nhưỡng, thủy
văn, thảm thực vật tự nhiên, động vật và những biến đổi của đất do các hoạt
động của con người.
Về mặt đời sống - xã hội, đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng
quý giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được của ngành sản xuất nông –

lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa và an ninh quốc
phòng. Nhưng đất đai là tài nguyên thiên nhiên có hạn về diện tích, có vị trí cố
định trong không gian.
- Quản lý đất đai:
Quản lý đất đai (Land administration - địa chính): Theo định nghĩa của
LHQ: Là quá trình lưu giữ và cập nhật những thông tin về sở hữu, giá trị, sử

7


dụng đất và những thông tin khác liên quan đến đất. (Land administration
guidelines-1996)- chỉ dẫn về quản lý hành chính đất đai.
Là quá trình đảm bảo theo luật pháp cho việc sử dụng, phát triển quỹ
đất, khai thác lợi nhuận thu được từ đất (thông qua thuế, cho thuê, bán) và
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai. Đối tượng quản lý đất đai liên
quan đến cả 2 đối tượng đất công và đất tư bao gồm các công việc: đo đạc
đất đai, đăng ký đất đai, định giá đất đai, giám sát sử dụng, lưu giữ và cập
nhật các thông tin đất đai, cung cấp các thông tin đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai.
Quản lý đất đai (Land management): là quản lý tài nguyên đất, được
xem xét trên cả phương diện môi trường và kinh tế.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất
đai và các nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai bao gồm pháp luật đất đai
và pháp luật liên quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, Nhà nước
xác định một số nội dung chủ yếu: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước;
tập trung và phân cấp quản lý; vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; vai trò của
lĩnh vực công và tư nhân; quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các tổ chức
địa chính; quản lý nguồn nhân lực; nghiên cứu; giáo dục và đào tạo; trợ giúp
về chuyên gia tư vấn và kỹ thuật; hợp tác quốc tế.

- Sử dụng đất đai:
Sử dụng đất liên quan đến chức năng hoặc mục đích của loại đất được
sử dụng. Việc sử dụng đất có thể được định nghĩa là: “những hoạt động của
con người có liên quan trực tiếp tới đất, sử dụng nguồn tài nguyên đất hoặc
có tác động lên chúng”.
Số liệu về quá trình và hình thái các hoạt động đầu tư (lao động, vốn,
nước, phân hóa học …), kết quả sản lượng (loại nông sản, thời gian, chu kỳ
mùa vụ …) cho phép đánh giá chính xác việc sử dụng đất, phân tích tác động
môi trường và kinh tế, lập mô hình những ảnh hưởng của việc biến đổi sử
dụng đất hoặc việc chuyển đổi việc sử dụng đất này sang mục đích sử dụng
đất khác.
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị
chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế
bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy có thể
khái quát một số điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất.

8


Điều kiện tự nhiên: khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian như
diện tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng…, cần chú ý đến việc thích ứng với
điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố
bao quanh mặt đất như: yếu tố khí hậu, yếu tố địa hình, yếu tố thổ nhưỡng.
Điều kiện kinh tế - xã hội: bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân
số, lao động, thông tin, các chính sách quản lý về môi trường, chính sách đất
đai, yêu cầu về quốc phòng, sức sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất
cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Yếu tố không gian: đây là một tính chất “đặc biệt” khi sử dụng đất do đất

đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con người.
Đất đai hạn chế về số lượng, có vị trí cố định và là tư liệu sản xuất không thể
thay thế được khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội.
1.1.2. Sơ lược lịch sử về ngành Địa chính Việt Nam và công tác Quản lý
Nhà nước về đất đai qua các thời kỳ:
Công tác địa chính ở nước ta đã có từ rất lâu đời. Khi xã hội loài người
hình thành và phát triển ngày một văn minh, của cải làm ra ngày một nhiều và
dư thừa. Trong xã hội xuất hiện một lớp người tìm cách chiếm đoạt của cải dư
thừa đó để làm của riêng. Trong đó đất đai cũng bị họ chiếm dụng để phục vụ
lợi ích riêng cho mình. Những người bị mất đất canh tác phải làm thuê làm
mướn cho những người có ruộng đất. Họ được hưởng một phần lợi ích từ
những sản phẩm của đất, ngược lại họ cũng phải nộp thuế đầy đủ cho chủ
đất. Do vậy, để đánh thuế công bằng và hợp lý, họ phải nắm được phần diện
tích và chủ sử dụng đất, như vậy, công tác địa chính ra đời.
Khi nhà nước xuất hiện với tư cách là một tổ chức chính trị, Nhà nước
cũng chiếm giữ một phần diện tích đất đai nhất định để phục vụ cho lợi ích
kinh tế - chính trị - xã hội, công tác địa chính ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội và được điều chỉnh bởi pháp luật của Nhà nước.
Ở các giai đoạn lịch sử khác nhau thì công tác địa chính có những biểu
hiện khác nhau. Điều này bị chi phối bởi các quan hệ đất đai, ở Việt Nam đã
tồn tại các hình thức sở hữu đất đai như: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân. Hiện nay tồn tại một hình thức sở hữu duy nhất đó là sở hữu
toàn dân về đất đai do nhà nước ta là: “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”
nên hình thức sở hữu Nhà nước cũng là sở hữu toàn dân.

9


Các mối quan hệ đất đai này đã ảnh hưởng và tác động trực tiếp tới
công tác quản lý đất đai qua các giai đoạn lịch sử.

1.1.2.1. Công tác quản lý đất đai ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 –
1945:
* Thời kỳ đầu lập nước: Thời kỳ này quan hệ đất đai có nhiều hình thức
sở hữu khác nhau quyền sở hữu tối cao thuộc về nhà vua và các quan lại, một
phần thuộc công xã nông thôn.
* Thời kỳ Bắc thuộc: hình thức sở hữu của công xã nông thôn vẫn tồn
tại và phát triển vững chắc. Hình thức này được duy trì suốt 1000 năm Bắc
thuộc. Mặc dù dưới sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, hình thức này
không còn nguyên vẹn như trước.

10


* Thời kỳ phong kiến:
- Nhà Đinh – Lê: Quyền sở hữu tối cao thuộc về nhà vua và các quan
lại, chế độ công xã vẫn được bảo tồn.
- Nhà Lý – Trần: Ruộng đất vẫn thuộc sở hữu của Nhà vua là chủ yếu,
sở hữu tư nhân được công nhận và dần phát triển. Ngoài ra còn có hình thức
sở hữu tập thể.
- Thời nhà Hồ và Hậu Lê: Vào thế kỷ XV chế độ sở hữu nhà nước về
đất đai được xác định đầy đủ. Trong thời kỳ này, nhà nước can thiệp nhiều
vào quan hệ đất đai nhằm tạo ra sự quản lý tập trung thống nhất vào tay Nhà
nước.
Dưới thời nhà Hồ với chính sách “hạn điền” được ban bố nhằm củng cố
chế độ sở hữu nhà nước và hạn chế biến ruộng đất công thành ruộng tư.
Dưới thời nhà Lê nhà vua đã ban hành chính sách “lộc điền” và “quân
điền”, đồng thời tiến hành thống kê đất đai, lập sổ địa bạ nhằm phân phối lại
ruộng đất công cho nhân dân. Đặc biệt trong giai đoạn này, Bộ luật đầu tiên ở
nước ta được ban hành là “Luật Hồng Đức” (1481). Trong đó có 60 điều nói
về Luật đất đai. Tinh thần chính của Luật là điều chỉnh quan hệ đất đai và triệt

để bảo vệ đất công, tuyên bố đất đai là tài sản của Nhà nước. Mặc dù vậy,
quá trình tư hữu về ruộng đất vẫn diễn ra trong xã hội và dần chiếm ưu thế.
- Nhà Nguyễn:
+ Thời kỳ nhà Nguyễn Tây Sơn (1789-1802): Sau khi lên ngôi, vua
Quang Trung ban hành chiếu khuyến nông, giảm nhẹ tô thuế cho nhân dân,
chiêu hồi dân phiêu tán.
+ Thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1884): Thời kỳ này Gia Long nhà Nguyễn
(1806) đã hoàn thành công tác đo đạc lập sổ địa bạ còn dở từ thời nhà Lê cho
18000 xã từ Mục Nam Quan tới mũi Cà Mau. Nguyễn Ánh còn cho ban hành
Luật Gia Long, có 14 điều nói về Luật đất đai. Trong đó xác định quyền sở
hữu tối thượng của nhà vua đối với ruộng đất và chia ra ruộng đất công quản,
đất tư quản. Thuế đất được xác định cụ thể được thu triệt để cho ngân sách
quốc gia. Đến thời Minh Mạng thực hiện chế độ hạn điền lần thứ hai, thành
công trong chính sách khai khẩn đất hoang nhà Nguyễn đã đặt hệ thống chính
quyền sở hữu từ Trung ương tới địa phương, ra sức bảo vệ chế độ sở hữu
ruộng đất công.

11


Đến 1844, Nhà nước đã chấp nhận quyền cầm cố đất công một cách có
thời hạn của các làng xã. Sau này Nhà vua đã ban hành nhiều quy định củng
cố quyền tư hữu ruộng đất và đảm bảo quyền thu thuế ruộng đất.
* Thời kỳ Pháp thuộc: Pháp hoàn thành cuộc xâm lược ở nước ta,
chúng tự ý điều chỉnh quan hệ đất đai theo ý chúng. Thực dân Pháp còn thực
hiện chia cắt nước ta thành 3 kỳ để dễ bề cai trị là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Ở mỗi kỳ chúng áp dụng một chế độ chính trị và sử dụng chế độ quản lý đất
đai khác nhau. Cùng với bọn thực dân và tư bản Pháp, giai cấp địa chủ phong
kiến cũng ra sức bóc lột nhân dân, ruộng đất được tích tụ cao vào tay chúng.
Quyền sở hữu của bọn thực dân phong kiến được pháp luật của chính quyền

bảo hộ bảo vệ.
Tóm lại, trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám 1945 với hình thức sở hữu
Nhà nước về đất đai đóng vai trò chủ đạo, xuyên suốt qua các giai đoạn lịch
sử. Tuy nhiên cùng song song với chế độ sở hữu Nhà nước còn có chế độ sở
hữu công đã tồn tại dai dẳng qua các thời đại, ngoài ra còn tồn tại chế độ sở
hữu tư nhân về đất đai.
1.1.2.2. Công tác Quản lý đất đai ở Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 –
1945 đến nay:
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, ngành Địa chính được duy trì.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đã phải
trải qua một thời kỳ lịch sử phức tạp, nền kinh tế bị sa sút, lạc hậu, cụ thể là
nạn đói năm 1945. Để khắc phục tình trạng đó Đảng và Chính phủ đã có chủ
trương “Khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp”. Để cứu đói cho dân các chính
sách đất đai lúc này nhằm chấn hưng nông nghiệp. Hàng loạt các Thông tư,
Chỉ thị, Nghị định của Nhà nước được ban hành nhằm tăng cường hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, Chính phủ đã có nhiều
chính sách sử dụng đất hoang, đất vắng chủ, đất tịch thu từ bọn thực dân việt
gian phản động. Từ năm 1950, người cày được giảm tô khi canh tác trên đất
vắng chủ.
Ngày 14/02/1953, Quốc hội thông qua luật cải cách ruộng đất, đánh đổ
hoàn toàn chế độ phong kiến thực dân. Triệt để thực hiện khẩu hiệu: “Người
cày có ruộng”.

12


Ngày 03/07/1958 cơ quan Quản lý đất đai được thành lập, đó là Sở địa
chính thuộc Bộ tài chính với chức năng chủ yếu là quản lý ruộng đất để thu

thuế nông nghiệp.
Từ 1959, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng hình thức kinh tế
tập thể. Hiến pháp năm 1959 ra đời quy định 3 hình thức sở hữu ruộng đất là:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Ngày 14/12/1995 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 404/TTg cho
phép thành lập Cục đo đạc và bản đồ trực thuộc Thủ tướng để nắm chắc địa
hình và tài nguyên đất.
Ngày 09/12/1960 Chính phủ ban hành NĐ 70/NĐ – CP về việc chuyển
ngành Địa chính từ Bộ tài chính sang Bộ nông nghiệp và đổi tên thành Quản
lý ruộng đất.
* Giai đoạn 1980-1991: Hiến pháp 1980 quy định toàn bộ đất đai và tài
nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý
bằng pháp luật và quy hoạch. Thời kỳ này chúng ta chưa có một hệ thống tổ
chức quản lý đất đai đủ mạnh, chưa có quy hoạch sử dụng đất toàn quốc.
Nhà nước mới chỉ quan tâm chủ yếu tới đất nông nghiệp nên việc giao đất
diễn ra tùy tiện. Để khắc phục tình trạng đó, hàng loạt văn bản pháp luật của
Nhà nước về đất đai được ra đời nhằm tăng cường công tác về quản lý và sử
dụng đất.
+ Quyết định 201/CP ngày 01/07/1981 của Chính phủ về công tác quản
lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trên cả nước.
+ Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về công
tác đo đạc bản đồ giải thửa nhằm nắm chắc quỹ đất trong cả nước để làm cơ
sở lập hồ sơ địa chính.
+ Chỉ thị 100/CT – TW ngày 13/04/1981 của Ban bí thư TW Đảng về
việc khoán sản phẩm đến nhóm người lao động và người lao động trong
nhóm HTX nông nghiệp.
Ngày 08/01/1988 Nhà nước ban hành Bộ luật đất đai đầu tiên. Tiếp đó
là dấu mốc quan trọng trong phát triển nông nghiệp là Nghị quyết 10/NQ – TW
ngày 05/04/1988 của Bộ chính trị về việc giao đất cho hộ gia đình cá nhân sử
dụng đất ổn định lâu dài. Đây là việc làm cụ thể khẳng định việc chuyển biến

từ một nền nông nghiệp sản xuất tự cung tự cấp sang hướng sản xuất hàng
hóa.

13


* Giai đoạn 1992 đến nay: Hiến pháp 1992 ra đời quy định “Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức cá nhân sử dụng ổn định lâu dài…”
Năm 1993, Luật đất đai được ban hành lấy Hiến pháp năm 1992 làm
nền tảng. Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế. Ngoài
ra Nhà nước còn có một loạt các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật
đất đai. Đây là cơ sở pháp lý giúp người dân thực sự yên tâm đầu tư phát
triển sản xuất trên mảnh đất được giao. Điều 13 Luật đất đai 1993 còn nêu ra
7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Tiếp theo Luật đất đai 1993 là Luật
sửa đổi và bổ sung một số điều Luật đất đai năm 1998 và năm 2001 để hoàn
thiện chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất.
Trong giai đoạn hiện nay, gắn với quá trình đổi mới đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã xây dựng và ngày càng củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai, đảm bảo việc quản lý, sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững. Điều này được thể hiện qua Luật đất đai 2003 ra đời ngày
26/11/2003 và có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2004, Luật sửa đổi năm 2009
và đến nay đã có dự thảo luật đất đai cùng với đó là một loạt các văn bản
dưới luật hướng dẫn việc thi hành Luật đất đai năm 2003 như: Nghị định
181/2004/NĐ – CP ngày 29/10/2004, Thông tư 08/2007/TT – BTN&MT ngày
02/08/2007, Nghị định 105/2009 NĐ – CP ngày 11/11/2009, Nghị định
120/2010 NĐ - CP ngày 30/12/2010…
Ngày 29 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Quốc
hội đã biểu quyết thông qua Luật Đất đai năm 2013. Đây là sự kiện quan trọng

đánh dấu những đổi mới về chính sách đất đai nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế và bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 7 chương và
66 điều so với Luật Đất đai năm 2003. Đây là Dự án Luật được chuẩn bị công
phu, nghiêm túc trên cơ sở kết quả tổng kết đánh giá thực tiễn quá trình thi
hành Luật Đất đai năm 2003, nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế phù hợp;
đồng thời đã thể chế hóa đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai theo tình thần Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI); thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đa số
tầng lớp nhân dân.
14


1.2. Căn cứ pháp lý của công tác Quản lý nhà nước về đất đai:
Từ ngày dựng nước đến nay, nước ta đã có nhiều bước tiến quan trọng
trong việc quản lý đất đai qua từng thời kỳ. Các bộ luật, luật, nghị định, thông
tư, chỉ thỉ được ban hành và chỉnh sửa để phù hợp với tình hình thực tiễn của
đất nước qua từng giai đoạn.
1.2.1. Giai đoạn trước khi Luật đất đai 2013 ra đời:
- Luật Đất đai 2003 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/07/2004.
Luật Đất đai 2003 đã nhanh chóng đi vào đời sống và góp phần giải quyết
những khó khăn vướng mắc mà Luật Đất đai giai đoạn trước chưa giải quyết
được.
- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992.
- Luật Đất đai 2003, sửa đổi bổ sung năm 2009.
- Chỉ thị số 299/1980/TTg-CP ngày 10/11/1980 của Chính phủ về công
tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất.
- Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993, quy định về giao đất cho các hộ gia

đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp.
- Nghị định 02/CP ngày 5/01/1994 của Chính phủ quy định về giao đất
lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào
mục đích sản xuất lâm nghiệp.
- Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính Phủ về việc mua bán
kinh doanh nhà thuộc sở hữu Nhà nước.
- Nghị định 88/CP ngày 7/8/1994 của Chính phủ quy định về quản lý sử
dụng đất đô thị.
- Chỉ thị số 10/1998/TTg-CP ngày 20/2/1998 của Chính phủ về việc đẩy
mạnh và hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ quy định về
thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử
dụng đất và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
- Chỉ thị số 05/2004/TTg-CP ngày 9/2/2004 của Chính phủ về việc triển
khai thi hành Luật đất đai 2003, trong đó có chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh
để hoàn thành cơ bản việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong
năm 2005.
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật đất đai.
- Thông tư số 29/2004/TT-BTN&MT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc hướng dẫn, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.

15


- Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
- Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền
sử dụng đất.

- Thông tư số 95/2005/TT-BTC ngày 26/10/2005 của Bộ Tài chính
hướng dẫn sửa đổi bổ sung Thông tư số 117/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử
dụng đất.
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ
phần.
- Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành quy định về Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
- Thông tư số 08/2007/TT-BTNMT ngày 8/02/2007 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây
dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 8/02/2007 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc hướng dẫn, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
- Nghị định 84/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung
về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 2/7/2007 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/NĐ-CP.
- Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư.
- Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất.
- Thông tư 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Nghị định 105/2009/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.

16


- Thông tư số 20/2010/TT-BTNMT ngày 22/10/2010 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định bổ sung về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Nghị định 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
- Thông tư 16/2011/TT-BTNMT ngày 20/5/2011 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường Quy định sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thủ tục
hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai.
1.2.2. Giai đoạn từ khi Luật đất đai 2013 ra đời cho đến nay:
- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013.
- Ngày 29/11/2013, Luật Đất đai 2013 được ban hành và có hiệu lực từ
ngày 01/07/2014.
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai.
- Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định về giá đất.
- Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định về thu tiền sử dụng đất.
- Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
- Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

- Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về Hồ sơ địa chính.
- Thông tư số 28/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về thống kê đất đai và lập bản đồ hiện
trạng sử dụng đất.
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất.
- Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá
17


đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định
giá đất.
- Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài Chính Hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐCP ngày 15 tháng 5 năm 2014.
1.3. Tình hình quản lý, sử dụng đất đai của một số nước trên thế giới và
Việt Nam:
1.3.1. Tình hình quản lý, sử dụng đất đai của một số nước trên thế giới:
* Thụy Điển:

Ở Thụy Điển, phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng việc quản lý
và sử dụng đất đai là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, toàn bộ
pháp luật và chính sách đất đai luôn đặt ra vấn đề hàng đầu là có sự cân bằng
giữa lợi ích riêng của chủ sử dụng đất và lợi ích chung của Nhà nước.
Bộ Luật đất đai của Thụy Điển là một văn bản pháp luật được xếp vào
loại hoàn chỉnh nhất, nó tập hợp và giải quyết các mối quan hệ đất đai và hoạt
động của toàn xã hội với 36 đạo luật khác nhau.
Các hoạt động cụ thể về quản lý sử dụng đất như quy hoạch sử dụng
đất, đăng ký đất đai, bất động sản và thông tin địa chính đều được quản lý bởi
ngân hàng dữ liệu đất đai và đều được luật hóa. Pháp luật và chính sách đất
đai ở Thụy Điển về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về đất đai và kinh
tế thị trường, có sự giám sát chung của xã hội.
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thụy Điển từ năm 1970 trở lại đây
gắn liền với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật bất động sản tư
nhân. Quy định các vật cố định gắn liền với bất động sản, quy định việc mua
bán đất đai, việc thế chấp, quy định về hoa lợi và các hoạt động khác như vấn
đề bồi thường, quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, đăng ký quyền sở hữu đất
đai và hệ thống đăng ký…
* Trung Quốc:
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đang thi hành chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về đất đai, đó là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập
thể của quần chúng lao động. Mọi đơn vị, cá nhân không được xâm chiếm,
mua bán hoặc chuyển nhượng phi pháp đất đai. Vì lợi ích công cộng, Nhà
18


nước có thể tiến hành trưng dụng theo pháp luật đối với đất đai thuộc sở hữu
tập thể và thực hiện chế độ quản chế mục đích sử dụng đất.
Tiết kiệm đất, sử dụng đất đai hợp lý, bảo vệ thiết thực đất canh tác là
quốc sách cơ bản của Trung Quốc.

Đất đai ở Trung Quốc được phân thành 3 loại:
- Đất dùng cho nông nghiệp là đất trực tiếp sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp bao gồm đất canh tác, đất rừng, đồng cỏ, đất dùng cho các công trình
thủy lợi và đất mặt nước nuôi trồng.
- Đất xây dựng gồm đất xây dựng nhà ở đô thị và nông thôn, đất dùng
cho mục đích công cộng, đất dùng cho khu công nghiệp, công nghệ, khoáng
sản và đất dùng cho công trình quốc phòng.
- Đất chưa sử dụng là đất không thuộc 2 loại đất trên.
Ở Trung Quốc hiện có 250 triệu hộ nông dân sử dụng trên 100 triệu ha
đất canh tác, bình quân khoảng 0,4ha/hộ gia đình. Vì vậy Nhà nước có chế độ
bảo hộ đặc biệt đất canh tác.
Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường đối với đất bị trưng dụng theo
mục đích sử dụng đất trưng dụng. Tiền bồi thường đối với đất canh tác bằng 6
đến 10 lần sản lượng bình quân hàng năm của 3 năm liên tiếp trước đó khi bị
trưng dụng. Tiêu chuẩn hỗ trợ định cư cho mỗi nhân khẩu nông nghiệp bằng
từ 4 đến 6 lần giá trị sản lượng bình quân của đất canh tác/đầu người thuộc
đất bị trưng dụng 3 năm trước đó. Đồng thời nghiêm cấm tuyệt đối việc xâm
phạm, lạm dụng tiền đền bù đất trưng dụng và các loại tiền khác liên quan đến
đất bị trưng dụng để sử dụng vào mục đích khác.
* Pháp:
Các chính sách quản lý đất đai ở Cộng hòa Pháp được xây dựng trên
một số nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch không gian, bao gồm cả chỉ đạo quản lý
sử dụng đất đai và hình thành các công cụ quản lý đất đai.
Nguyên tắc đầu tiên là phân biệt rõ ràng không gian công cộng và
không gian tư nhân. Không gian công cộng gồm đất đai, tài sản trên đất thuộc
sở hữu Nhà nước và tập thể địa phương. Tài sản công cộng được đảm bảo
lợi ích công cộng có đặc điểm là không thể chuyển nhượng, tức là không mua,
bán được. Không gian công cộng gồm các công sở, trường học, bệnh viện,
nhà văn hóa, bảo tang…


19


Không gian tư nhân song song tồn tại với không gian công cộng và đảm
bảo lợi ích song hành. Quyền sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng
liêng, không ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của
mình. Chỉ có lợi ích công cộng mới có thể yêu cầu lợi ích tư nhân nhường chỗ
và trong trường hợp đó, lợi ích công cộng phải thực hiện bồi thường một cách
công bằng và tiên quyết với lợi ích tư nhân.
Ở Pháp, chính sách quản lý sử dụng đất canh tác rất chặt chẽ để đảm
bảo sản xuất nông nghiệp bền vững và tuân thủ việc phân vùng sản xuất. Sử
dụng đất nông nghiệp, luật pháp quy định một số điểm cơ bản sau:
Việc chuyển đất canh tác sang mục đích khác, kể cả việc làm nhà ở
cũng phải xin phép chính quyền cấp xã quyết định. Nghiêm cấm việc xây
dựng nhà trên đất canh tác để bán cho người khác.
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế, được hưởng quy chế ưu tiên đối
với một số đất đai chuyên dùng để gieo hạt, đất đã trồng hoặc trồng lại rừng,
đất mới dành cho ươm cây trồng.
Khuyến khích việc tích tụ đất nông nghiệp bằng cách tạo điều kiện
thuận lợi để các chủ đất có nhiều mảnh đất ở các vùng khác nhau có thể đàm
phán với nhau nhằm tiến hành chuyển đổi ruộng đất, tạo điều kiện tập trung
các thửa đất nhỏ thành các thửa đất lớn.
Việc mua bán đất đai không thể tự thực hiện giữa người bán và người
mua, muốn bán đất phải xin phép cơ quan giám sát việc mua bán. Việc bán
đất nông nghiệp phải nộp thuế đất và thuế trước bạ. Đất này được ưu tiên bán
cho những người láng giềng để tạo ra các thửa đất có diện tích lớn hơn.
Ở Pháp có cơ quan giám sát việc mua bán đất để kiểm soát hoạt động
mua bán, chuyển nhượng đất đai. Cơ quan giám sát đồng thời làm nhiệm vụ
môi giới và trực tiếp tham gia quá trình mua bán đất. Văn tự chuyển đổi chủ
sở hữu đất đai có Tòa án Hành chính xác nhận trước và sau khi chuyển đổi.

Đối với đất đô thị mới, khi chia cho người dân thì phải nộp 30% chi phí
cho các công trình xây dựng hạ tầng, phần còn lại là 70% do kinh phí địa
phương chi trả.
Ngày nay, đất đai ở Pháp ngày càng có nhiều luật chi phối theo các quy
định của các cơ quan hữu quan như quản lý đất đai, môi trường, quản lý đô
thị, quy hoạch vùng lãnh thổ và đầu tư phát triển.
* Australia:

20


Australia có lịch sử hình thành từ thuộc địa của Anh, nhờ vậy Australia
có được cơ sở và hệ thống pháp luật quản lý xã hội nói chung và quản lý đất
đai nói riêng từ rất sớm. Trong suốt quá trình lịch sử từ lúc là thuộc địa đến khi
trở thành quốc gia độc lập, pháp luật và chính sách đất đai của Australia mang
tính kế thừa và phát triển một cách liên tục, không có sự thay đổi và gián đoạn
do sự thay đổi về chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi làm cho pháp luật và
chính sách đất đai phát triển nhất quán và ngày càng hoàn thiện, được xếp
vào loại hàng đầu của thế giới, vì pháp luật đất đai của Australia đã tập hợp và
vận dụng được hàng chục luật khác nhau của đất nước.
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia là đất thuộc sở
hữu nhà nước và đất thuộc sở hữu tư nhân. Australia công nhận Nhà nước và
tư nhân có quyền sở hữu đất đai và bất động sản trên mặt đất. Phạm vi sở
hữu đất đai theo luật định là tính từ tâm Trái đất trở lên, nhưng thông thường
Nhà nước có quyền bảo tồn đất ở từng độ sâu nhất định, nơi có những mỏ
khoáng sản quý như vàng, bạc, thiếc, than, dầu mỏ…(theo sắc luật về đất đai
khoáng sản năm 1993).
Luật đất đai Australia bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở
hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa
kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích lũy đất đai. Tuy

nhiên, luật cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử
dụng vào mục đích công cộng, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và việc trưng
thu đó gắn liền với việc Nhà nước phải thực hiện bồi thường thỏa đáng.
1.3.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam trong những năm
qua:
Năm 2014 và năm 2015 là những năm trọng tâm triển khai tổ chức thi
hành Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua và là năm bản lề
thực hiện thành công kế hoạch 05 năm 2011 - 2015. Với sự chỉ đạo quyết liệt
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi
trường; sự đoàn kết, nhất trí cao của tập thể Lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất
đai và sự nỗ lực của các cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành quản
lý đất đai; sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ tích cực của các Bộ, ngành, cơ quan
liên quan ở Trung ương và các địa phương trên cả nước, ngành quản lý đất
đai đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ
giao, góp phần quan trọng vào việc giữ ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế của đất nước. Toàn ngành đã nghiêm túc triển khai thực
hiện Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 22/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về triển
21


khai thi hành Luật Đất đai; triển khai thực hiện Chương trình công tác năm
2014, năm 2015 của Chính phủ, của Bộ Tài nguyên và Môi trường và đã đạt
được quan trọng sau đây:
a. Về việc chuẩn bị các điều kiện để tổ chức thi hành Luật Đất đai:
* Về công tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai:
Bộ đã chỉ đạo các địa phương chủ động rà soát các Điều, Khoản được
giao trong Luật, Nghị định để quy định chi tiết thi hành. Đến nay, đã có 63/63
tỉnh ban hành được hơn 360 văn bản quy định chi tiết thi hành Luật và các
Nghị định quy định chi tiết thi hành. Trong đó, các văn bản do địa phương ban
hành tập trung vào các lĩnh vực giá đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quy

định về hạn mức sử dụng đất, điện tích tối thiểu được phép tách thửa.
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai:
Tại địa phương, 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã triển khai công
tác phổ biến Luật Đất đai và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật đến
các tổ chức, cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhiều địa phương đã
triển khai cụ thể đến cả các đối tượng là cán bộ cấp huyện, cấp xã.
* Chỉ đạo, đôn đốc các địa phương và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong thi hành Luật Đất đai:
- Để việc triển khai thi hành Luật đảm bảo đồng bộ, kịp thời khi Luật có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban
hành văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tập trung chỉ đạo và thống nhất áp dụng pháp luật, đồng thời hướng dẫn
việc xử lý đối với một số vấn đề phát sinh trong quá trình chuyển tiếp giữa
Luật cũ và Luật mới.
- Về giải quyết một số khó khăn, vướng mắc trong triển khai thi hành
Luật tại các địa phương: Sau khi Luật Đất đai có có hiệu lực thi hành, Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ tập trung xử lý các văn
bản của địa phương phản ánh các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ
chức thi hành Luật Đất đai của các địa phương.
b. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
* Về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2011-2015):
- Đối với cấp tỉnh: Bộ đã trình Chính phủ xét duyệt quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) cho
22


63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Đối với cấp huyện: có 352 đơn vị hành chính cấp huyện được Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm

49,93%); có 330 đơn vị hành chính cấp huyện đang triển khai lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất (chiếm 46,81%); còn lại 23 đơn vị hành chính cấp
huyện chưa triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 3,26%).
- Đối với cấp xã: có 6.516 đơn vị hành chính cấp xã được cấp có thẩm
quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 58,41%); có 2.907
đơn vị hành chính cấp xã đang triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
(chiếm 26,06%); còn lại 1.733 đơn vị hành chính cấp xã chưa triển khai lập
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 15,53%).
* Về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và lập kế hoạch
sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020):
Trong 6 tháng đầu năm, Bộ đã tập trung triển khai việc điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và lập kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ
cuối (2016-2020) cấp quốc gia theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ
thị số 08/CT-TTg ngày 20/5/2015. Đến hết tháng 6 năm 2015 đã có 06 Bộ,
ngành và 52 tỉnh gửi Báo cáo kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất và đăng ký nhu cầu sử dụng đất giai đoạn 2016-2020 và còn một số tỉnh,
thành phố chưa gửi báo cáo. Bộ cũng đã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực
hiện việc kiểm tra các địa phương trong việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) các cấp.
c. Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất:
Trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015, đặc biệt là sau khi Luật Đất
đai có hiệu lực thi hành, Bộ TN&MT đã tích cực, chủ động chỉ đạo, hướng dẫn
các địa phương thực hiện công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, bảo
đảm theo đúng các quy định của pháp luật về đất đai. Bộ đã có Công văn số
1622/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 06/5/2014 và Công văn số 3398/BTNMTTCQLĐĐ ngày 14/8/2014 gửi UBND các tỉnh, thành phố về việc chuyển mục
đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực
hiện các công trình, dự án của các địa phương. Bộ cũng đã thực hiện việc rà
soát hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để trình Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định.

d. Về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
23


Theo số liệu tổng hợp của 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi
báo cáo về Bộ Tài nguyên và Môi trường trong năm 2014, các địa phương đã
triển khai thực hiện 2.194 công trình, dự án (địa phương triển khai nhiều công
trình, dự án là: Quảng Nam (294 dự án), Lào Cai (211 dự án), Bắc Giang (162
dự án), Phú Yên (146 dự án), với tổng diện tích đất đã thực hiện bồi thường,
giải phóng mặt bằng là 7.882 ha (đất nông nghiệp 6.810 ha; đất ở 165 ha; đất
khác 930 ha); số tổ chức, hộ gia đình cá nhân có đất thu hồi là 80.893 trường
hợp (tổ chức 1.155 trường hợp; hộ gia đình, cá nhân 79.738 trường hợp).
e. Về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính:
Đến nay cả nước đã cấp được 41.757.000 Giấy chứng nhận với diện
tích 22.963.000 ha, đạt 94,9% diện tích cần cấp các loại đất chính. Tất cả các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều cơ bản hoàn thành mục tiêu cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 của
Quốc hội.
Thực hiện mục tiêu xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai,
trong thời gian qua, Bộ đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc tổ
chức thực hiện xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính trong trên phạm vi cả nước.
Đến nay, đã có 121/709 đơn vị cấp huyện đang vận hành cơ sở dữ liệu đất đai
(59 đơn vị cấp huyện thuộc 9 tỉnh, thành phố thực hiện dự án VLAP, 62 đơn vị
cấp huyện thuộc Dự án tổng thể), trong đó có 59 đơn vị cấp huyện thuộc Dự
án VLAP đã vận hành và quản lý cơ sở dữ liệu đất đai liên thông ở cả 3 cấp:
Xã - Huyện - Tỉnh, điển hình là Vĩnh Long đã hoàn chỉnh mô hình xây dựng và
vận hành cơ sở dữ liệu đất đai toàn tỉnh. Đối với Dự án xây dựng cơ sở dữ
liệu đất lúa, đến nay, đã hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất lúa cho
9027 đơn vị cấp xã. Một số các tỉnh đã cơ bản hoàn thành công tác xây dựng
cơ sở dữ liệu địa chính nhưng vẫn chưa vận hành cơ sở dữ liệu đất đai như:

thành phố Yên Bái - Yên Bái, huyện Tân Lạc - Hoà Bình, huyện Lộc Bình Lạng Sơn, thành phố Nam Định - Nam Định, thị xã Ba Đồn - Quảng Bình, thị
xã Buôn Hồ - Đắk Lắk, thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu.
f. Về công tác thống kê, kiểm kê đất đai:
Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, hiện đã có:
- 10840 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành việc điều tra khoanh vẽ
các chỉ tiêu kiểm kê ngoài thực địa (chiếm 97,09% tổng số xã).
- 8.662 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ
kết quả điều tra điều tra kiểm kê (chiếm 77,58% số xã).
24


- 5.875 đơn vị hành chính cấp xã hoàn thành tổng hợp số bộ số liệu cấp
xã (chiếm 52,61% tổng số xã).
- 3.492 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành xây dựng bản đồ hiện
trạng sử dụng đất (chiếm 31,27% tổng số xã).
- 2.924 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành xây dựng báo cáo kết
quả thực hiện kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất cấp xã năm
2014 (chiếm 26,29% tổng số xã).
g. Về công tác định giá đất:
* Tại Trung ương:
Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ đã chủ trì xây dựng trình Chính
phủ ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá
đất; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về khung giá
đất. Bộ đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy
định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất,
định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; Thông tư số 20/2015/TTBTNMT ngày 20/4/2015 ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán
ngân sách nhà nước phục vụ công tác định giá đất.
* Tại địa phương:
Về xây dựng bảng giá đất:
- Căn cứ quy định của pháp luật và chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tài

nguyên và Môi trường, từ đầu tháng 7/2014, các địa phương trong cả nước đã
triển khai công tác điều tra giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên
thị trường; khảo sát mức chi phí, thu nhập từ đất phục vụ việc xây dựng bảng
giá đất của địa phương; 63/63 tỉnh đã triển khai xây dựng Bảng giá đất ban
hành và công bố công khai vào ngày 01/01/2015 theo đúng quy định của pháp
luật về đất đai. Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Báo cáo số
21/BC-BTNMT ngày 27/4/2015 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình và
kết quả xây dựng bảng giá đất năm 2015 của UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
Về định giá đất cụ thể:
- Trên cơ sở quy định của pháp luật về định giá đất cụ thể, Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tổ chức thực hiện việc xác
định giá đất cụ thể tại địa phương. Việc xác định giá đất cụ thể để tính thu tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê không thông qua hình
25


×