Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quyền của người phụ nữ nông thôn trong các hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp dưới góc độ bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.6 KB, 14 trang )

Quyền của người phụ nữ nông thôn trong các hoạt động nông, lâm,
ngư nghiệp dưới góc độ bình đẳng giới

Bình đẳng giới được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát
triển của một xã hội, một đất nước. Nó vừa là mục tiêu của sự phát
triển vừa là yếu tố nâng cao khả năng tham gia đóng góp của phụ
nữ vào sự phát triển ổn định và bền vững của quốc gia. Thực tế
hiện nay cho thấy rằng, vai trò của người phụ nữ nói chung và phụ
nữ nông thôn nói riêng là hết sức quan trọng cho sự phát triển của
các hoạt động nông- lâm- ngư nghiệp ở nước ta. Họ là một nguồn
lực quan trọng đóng góp công sức lao động của mình cho sự phát
triển của đất nước nhưng dường như người phụ nữ nông thôn vẫn
đang gặp phải những khó khăn hơn so với nam giới nhất là trong
lĩnh vực nông nghiệp. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây em
được đi sâu làm sáng tỏ để bài: “Quyền của người phụ nữ nông
thôn trong các hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp dưới góc
độ bình đẳng giới”.
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm bình đẳng giới
Khoản 3 Điều 5 Luật bình đẳng giới quy định như sau: “Bình đẳng
giới là việc nam và nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của
sự phát triển đó”.


Quyền bình đẳng giới là một nội dung cơ bản của quyền con người,
thể hiện giá trị nhân văn cao cả đồng thời là những giá trị chính trị,
pháp quyền đáng trân trọng. Bình đẳng giới vừa là mục tiêu vừa là
thước đo tiến độ phát triển của một xã hội. Nam giới và phụ nữ
đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Sự bình đẳng


này được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nam và nữ đều có điều kiện bình đẳng để phát huy hết
khả năng và thực hiện các mong muốn của mình.
Thứ hai, họ có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ
hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển.
Thứ ba, nam và nữ được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình
đẳng
Thứ tư, nam và nữ được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh
vực của xã hội.
Như vậy, có thể nhận thấy, bình đẳng giới không chỉ đơn thuần là
số lượng nam giới và nữ giới tham gia trong tất cả các hoạt động là
như nhau mà bình đẳng giới ở đây được hiểu là cả phụ nữ và nam
giới đều được thừa nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã
hội. Từ đó, họ có điều kiện để phát huy hết những tiềm năng của
bản thân, tham gia và đóng góp công sức và hưởng lợi từ bình
đẳng từ công cuộc phát triển của quốc gia trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
2. Vị trí, vai trò của người phụ nữ nông thôn


Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ ở
nước ta hiện nay, khi mà đa số nam giới và phụ nữ trẻ, khỏe, có
trình độ học vấn đều đi tìm kiếm việc làm ở các thị trường lao động
ngoài nông thôn, thì ở nông thôn, mặc dù đội ngũ lao động cơ bản
là lao động nữ và với chất lượng không cao nhưng họ có vai trò và
vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội nông thôn.
* Điều này được thể hiện cụ thể ở những khía cạnh như sau:
• Phụ nữ nông thôn đang là lực lượng đông đảo nhất trong cơ cấu
dân cư và cơ cấu lao động nông thôn; lao động nữ có vị trí trung
tâm và đóng vai trò quyết định trong các hoạt động kinh tế, văn

hóa, xã hội, cộng đồng ở nhiều vùng nông thôn.
• Phụ nữ nông thôn là người đảm nhiệm hầu như toàn bộ công việc
nội trợ gia đình, nuôi con cái và chăm sóc người già, người ốm ở
các gia đình; là người quản lý thực tế các nguồn lực gia đình, có
vai trò quan trọng cùng với chồng quyết định các đầu tư, chi tiêu
lớn trong sản xuất, kinh doanh, trong xây dựng nhà cửa và mua
sắm các tiện nghi sinh hoạt đắt tiền của gia đình.
• Phụ nữ nông thôn là lực lượng chủ yếu trong các lĩnh vực hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa, tuyên truyền, lãnh đạo, quản lý cộng
đồng. Đồng thời, người phụ nữ nông thôn vừa đóng vai trò xây
dựng, đào tạo nguồn nhân lực mới vừa là nguồn nhân lực trực tiếp
tham gia vào quá trình biến đổi cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm,
cơ cấu ngành nghề và cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn.


Vì vậy, có thể khẳng định họ là một chủ thể quan trọng tích cực
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.
II. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG
CÁC HOẠT ĐỘNG NÔNG- LÂM- NGƯ NGHIỆP DƯỚI GÓC ĐỘ BÌNH
ĐẲNG GIỚI.
1. Thực trạng quyền của người phụ nữ nông thôn trong các hoạt
động nông- lâm- ngư nghiệp dưới góc độ bình đẳng giới
Xã hội nông thôn đang diễn ra quá trình biến đổi mạnh mẽ (cho
đến nay gần 72,56% dân số của cả nước ở nông thôn) và phụ nữ
nông thôn- chủ thể chính của nông thôn đang đứng trước những cơ
hội và thách thức mới. Họ hoạt động ở mọi ngành nghề kể cả
những ngành nghề nặng nhọc và đọc hại nhất. Theo thống kê, lao
động nữ nông thôn chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh
vực nông- lâm- ngư nghiệp, riêng nông nghiệp lao động nữ chiếm

56,29% và họ đang sản xuất ra hơn 60% sản phẩm nông nghiệp
phụ vụ cho nhu cầu tiêu dùng của cả nước. Phụ nữ nông thôn Việt
Nam là một trong hai chủ thể kinh tế quan trọng nhất mạng lại thu
nhập cho các hộ gia đình.
Thứ nhất, trong sản xuất nông nghiệp, người phụ nữ nông thôn
tham gia ngày càng nhiều hơn nam giới. Hiện nay, vai trò của
người phụ nữ ở nông thôn càng trở nên quan trọng hơn trong quá
trình chuyển đổi kinh tế với sự tham gia của lao động nữ vào lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong khi lao động nam
giảm dần. Thời kì 1993-1998, số nam giới tham gia hoạt động
nông nghiệp mỗi năm giảm 0.9%. Trong khi đó, số người mới gia


nhập lĩnh vực nông nghiệp là phụ nữ chiếm 92% vì nam giới
chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Vì tình chất của
công việc theo mùa vụ nên trong thời gian nông nhàn, nhiều phụ
nữ đã phải lên thành phố để kiếm việc làm và nguy cơ phải đối
mặt với rất nhiều trách thức: tệ nạn xã hội, bị bóc lột sức lao động,
trở thành nô lệ tình dục….Hơn thế nữa, lao động nữ ở nông thôn
thường phải làm việc với thời gian lao động kéo dài, cường độ lao
động cao, môi trường lao động nhiều ô nhiễm, môi trường văn hóa
thấp kém... nhưng nhìn chung thu nhập của họ thường thấp, không
ổn định, bị phân biệt đối xử, chịu nhiều áp lực và thường không
được bảo hiểm. Bên cạnh đó, trong điều kiện mở cửa và hội nhập,
do tính chất thường phải gắn liền với gia đình của lao động nữ
nông thôn nên họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và thời cơ để tìm kiếm việc
làm.
Thứ hai, phụ nữ cũng hạn chế hơn so với nam giới trong việc tiếp
cận nguồn lực, nguồn vốn và thị trường trong hoạt động nônglâm- ngư nghiệp ở nông thôn. Ở nước ta nhất là các vùng nông
thôn, điều kiện thuận lợi về khí hậu và đất đai thích hợp cho việc

trồng trọt, nuôi thủy sản; vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế
quốc gia luôn nhấn mạnh tới sự phát triển của khoa học kĩ thuật,
các buổi huấn luyện về kĩ thuật chăn nuôi trồng trọt, nuôi thủy hải
sản rất được nhiều người quan tâm. Sở dĩ như vậy là do việc tiếp
cận các nguồn lực thông tin kinh tế, kĩ thuật sẽ giúp cho công việc,
kế sinh nhai phát triển, tăng sản lượng, nâng cao đời sống của
người dân.
Thế nhưng, thực tế hiện nay nam giới lại là đối tượng chủ yếu
tham gia vào các lớp tập huấn kĩ thuật, trồng trọt, trồng cây lương
thực, thực phẩm, nuôi trồng thủy sản. Theo kết quả điều tra cho


thấy, có 70% nam giới tham gia vào các buổi tập huấn các khóa
học về kĩ thuật mới, trong khi chỉ có 18% người phụ nữ nông thôn
được tham gia vào buổi tập huấn đó. Phụ nữ chỉ chiếm 25% số
người tham gia tập huấn về chăn nuôi và 10% trong tập huấn về
trồng trọt. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này xuất phát từ
những định kiến giới tồn tậi rất lâu trong tiềm thức của con người
rằng: nam giới là chủ sự gia đình nên thường đưa ra những quyết
định về các vấn đề sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp, vì thế việc
tham gia các tổ chức, buổi tập huấn ở địa phương giúp họ không
chỉ hợp tác làm ăn mà còn nắm bắt thông tin, kĩ thuật và hiểu biết
về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với đó,
nam giới ở nông thôn vẫn mang nặng quan điểm gia trưởng trong
gia đình. Vì vậy, họ chủ yếu là chủ hộ gia đình có quyền hành hơn
trong việc sử dụng đất, sử dụng vốn vay ngân hàng, sử dụng và
định đoạt các tư liệu sản xuất và tiêu dùng. Trong khi đó, người
phụ nữ nông thôn phải gánh vác công việc gia đình, đồng áng,
chăm sóc và nuôi dạy con cái nên không có thời gian tham gia vào
các công việc kinh tế, các buổi tập huấn ở địa phương. Chính vì có

nền tảng vững chắc là người phụ nữ, nên người đàn ông có điều
kiện tiếp cận các nguồn lực kinh tế phát triển kinh tế gia đình.
Trong việc hưởng các chính sách phát triển kinh tế thì nhiều quy
định của Luật bình đẳng giới và văn bản hướng dẫn chủ yếu là
hướng tới bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ nông thôn, có những
biện pháp để người phụ nữ phát huy được những khả năng của
mình. Chẳng hạn như: “Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập
doanh nghiệp, tiến hành sản xuất, kinh doanh…” (khoản 1 Điều 12
Luật bình đẳng giới); hay “Lao động nữ ở nông thôn được hỗ trợ tín
dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của
pháp luật”(Điểm b khoản 2 Điều 12 Luật bình đẳng giới). Tuy


nhiên, những quy định này lại mang tính một chiều, thực chất là
hướng tới sự cào bằng chứ không nhằm mục đích là tạo ra những
cơ hội và điều kiện phù hợp để các bên phát huy được khả năng
của mỗi giới. Ví dụ: Pháp luật quy định lao động nữ được đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực hay như lao động nữ ở nông thôn
được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật…Những quy
định này bề ngoài thì cho thấy là đã tạo điều kiện cho lao động nữ
phát triển nhưng nó chưa phát huy được hết khả năng lao động
của người phụ nữ ở nông thôn bởi những công việc trong nông,
lâm, ngư nghiệp nhất là ngư nghiệp lao động thường là nam giới
tiến hành nên những chính sách đó chỉ hưởng tới nữ giới là chưa
hợp lý.
Thêm vào đó, người phụ nữ ở nông thôn vẫn phải chịu nhiều thiệt
thòi trong việc sử dụng và kiểm soát nguồn lực là đất đai. Trong
sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp đặc biệt là nông nghiệp thì đất đai
là mọt tư liệu sản xuất không thể thiếu để canh tác. Đây cũng là
tài sản duy nhất mà người nông dân có thể thế chấp để vay vốn

ngân hàng. Các văn bản luật như Luật đất đai, Luật Hôn nhân và
gia đình đã có những quy định tương đối phù hợp về quyền sử
dụng đất đối với những loại đất khác nhau với tư cách là tài sản
của vợ chồng, tài sản của hộ gia đình nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Nhưng trên thực tế, phụ nữ vẫn chịu
nhiều thiệt thòi trong việc sử dụng và kiển soát nguồn lực từ đất
đai.
Tóm lại, người phụ nữ ở nông thôn đang phải chịu nhiều thiệt thòi
hơn so với nam giới, họ thường phải làm việc nhiều giờ liền, không
có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội và học tập chuyên môn
nghiệp vụ. Hậu quả là khả năng tìm kiếm việc làm của họ trở nên


khó khăn hơn, nguy cơ nghèo khổ về thiếu việc làm tăng, thu nhập
thấp kém. Sự phụ thuộc của người phụ nữ ở nông thôn vào gia
đình và xã hội cũng vì vậy mà tăng lên.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên
Một là, người phụ nữ nông thôn có trình độ văn hóa thấp và sự
hiểu biết xã hội còn hạn chế.
Theo Tổng cục thống kê, mỗi năm nước ta có hơn 1 triệu người
tham gia lực lượng lao động, đa số lực lượng này là cư dân nông
thôn, không được đào tạo nghề cơ bản. Nguồn nhân lực làm việc
trong lĩnh vực nông-lâm-thủy sản ở các vùng nông thôn có trành
độ và được đào tạo nghề có tỷ lệ thấp. Đa phần lao động nữ trong
các hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp là các lao động phổ thông,
làm việc theo kinh nghiệm là chính. Đây là nguyên nhân căn bản
của việc năng suất lao động trong nông-lâm-thủy sản ở nước ta
vẫn còn thấp.
Do khoảng cách về giới nên phần lớn phụ nữ vẫn chưa có nhiều cơ
hội tham gia các chương trình huấn luyện về khuyến nông, khuyến

lâm, khuyến ngư. Hiện tượng “nam học, nữ làm” này đã khá phổ
biến ở các vùng nông thôn Việt Nam. Thực tế, đa phần người phụ
nữ ở nông thôn không được tiếp thu với trình độ khoa học kĩ thuật
hiện đại nên chủ yếu hoạt động sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp
bằng kinh nghiệm truyền thồng. Do đó, mặc dù phải làm việc với
tần suất lao động cao, vất vả nhưng năng suất cây trồng, vật nuôi,
thủy sản vẫn còn ở mức thấp, dễ gặp rủi ro.


Hai là, sức khỏe của lao động nữ ở nông thôn kém do cùng một lúc
một đóng nhiều vai trò, nhất là vai trò thay thế nam giới hầu như
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội nông thôn.
Sức khỏe của người phụ nữ nông thôn phải thường xuyên đối mặt
với những hóa chất độc hại trong sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp.
Theo số lượng thống kê của Cục an toàn lao động (Bộ lao động
thương binh và xã hội) thì cứ 100 ngàn lao động có 1710 người bị
ảnh hưởng sức khỏe do tiếp xúc với thuốc bảo vệ thực vật . Môi
trường sản xuất nông nghiệp ô nhiểm không chỉ do sử dụng nhiều
hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật mà còn tăng thêm bởi ô nhiễm do
các khu chế xuất, khu công nghiệp…đang đua nhau mọc lên như
nấm ở các vùng nông thôn.
Theo ước tính của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm
2007 có gần 4 triệu tấn phân bón các loại sử dụng lãng phí do cây
trồng không hấp thụ được cộng với việc lạm dụng sử dụng tới
75.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật mà không tuân thủ các quy trình
kĩ thuật gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm nghiêm trọng đất,
nguồn nước tại nhiều vùng nông thôn. Cùng với trồng trọt, chăn
nuôi cũng có khoảng 73 triệu tấn chất thải, trong đó 30-60% chất
thải được xử lý, còn lại xả thẳng ra môi trường. Môi trường ở nông
thôn bị ô nhiễm nặng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của

người phụ nữ nhiều hơn nam giới, vì họ là lực lượng lao động chính
trong các hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp.
Hơn thế nữa, người phụ nữ ở nông thôn bên cạnh việc phải làm
việc vất vả để gánh vác thêm kinh tế gia đình còn phải thực hiện
thiên chức làm mẹ, làm vợ, lo toan gánh vác quá nhiều công việc
trong gia đình khiến họ không có thời gian nghỉ ngơi để hồi phục


sức lao động đang ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe của họ. Mà
khi sức khỏe bị suy kiệt thì người phụ nữ ở nông thôn sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chức năng tái sản xuất sinh học của
chính họ.
Ba là, người phụ nữ cũng bị hạn chế hơn do với nam giới trong việc
tiếp cận, sử dụng và kiểm soát nguồn lực.
Xuất phát từ những quan điểm cổ hủ, lạc hậu và những định kiến
giới đã ăn sâu bán rễ trong tiềm thức của con người là phụ nữ
nông thôn bị coi là phái yếu, “ngu dốt” nên không được tham gia
vào việc quyết định những vấn đề quan trọng trong gia đình đặc
biệt là trong vấn đề tiếp cận sở hữu ruộng đất, vì vậy họ không có
cơ hội tiếp cận các nguồn lực cũng như phát huy khả năng lao
động của mình. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật việc bảo
đảm quyền lợi về ruộng đất là vấn đề hết sức quan trọng đối với
phụ nữ ở nông thôn, đặc biệt là phụ nữ làm nông nghiệp. Điều này
lại càng đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ ở các vùng sâu, vùng
xa hoặc phụ nữ là người dân tộc thiểu số vì họ ít được tiếp cận với
các nguồn lực khác nên đất đai có thể xem là phương tiện sinh
nhai duy nhất giúp họ duy trì cuộc sống và thoát nghèo. Mặc dù,
pháp luật hiện nay đều thừa nhận trên thực tế cả nam và nữ giới
đều được thừa kế đất đai nhưng người phụ nữ nông thôn thường
không được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bốn là, một số nguyên nhân khác:
Lao động nữ ở nông thôn có một số hạn chế: Nhìn chung vóc dáng,
sức mạnh, tốc độ sức chịu đựng áp lực kém; tính cơ động, sự thích
ứng của lao động nữ ở nông thôn không cao do đó khó cạnh tranh


trong điều kiện thị trường lao động nhiều biến động. Cùng với đó,
người phụ nữ nông thôn còn gắn liền với thiên chức mang thai,
sinh con, nuôi con nhỏ…nên thường khó khăn trong quá trình tìm
kiếm việc làm.
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
NÔNG THÔN TRONG HOẠT ĐỘNG NÔNG- LÂM- NGƯ NGHIỆP DƯỚI
GÓC ĐỘ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Để khắc phục những thách thức nêu trên là cả một quá trình nan
giải, lâu dài bởi những thách thức này về cơ bản xuất phát một
cách khách quan cùng với sự vận động và biến đổi sâu sắc của
nông thôn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
nhiên, trước mắt để hạn chế phần nào những khó khăn, cản trở đối
với người phụ nữ nông thôn và góp phần tạo ra những cơ hội phát
triển mới cho họ trong tương lai, cần thực hiện một số giải pháp
sau:
1. Có chính sách nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ văn
hóa, chuyên môn kĩ thuật và hiểu biết xã hội của người phụ nữ
nông thôn.
* Tăng cường mở các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho lao động
nữ và cả nam giới ở nông thôn, để họ có điều kiện hiểu biết hơn
những quyền và nghĩa vụ của họ đối với tài sản mà đặc biệt là
quyền sử dụng đất nông nghiệp và cơ hội ngày càng thực hiện tốt
hơn vai trò và chức năng quan trọng của mình trong đời sống xã
hội nông thôn, đồng thời có điều kiện chủ động và tích cực tham

gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn.


* Tăng cường chuyên môn và sự nhận thức về giới cho cán bộ
khuyến nông cũng như của phụ nữ nông thôn nhằm hiểu biết hơn
về vai trò của phụ nữ trong phát triển nông-lâm-ngư nghiệp; xác
định rõ tỷ lệ nam giới, nữ giới được tham gia vào các dịch vụ
khuyến nông; nội dung khuyến nông phải thích hợp với hoạt động
nông nghiệp ở từng địa phương.
* Có chính sách phù hợp hướng vào tạo điều kiện và cơ hội tốt
nhất cho người phụ nữ nông thôn thực hiện tốt các thiên chức của
họ. Đồng thời, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hệ
thống dịch vụ xã hội ở nông thôn vừa tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người phụ nữ vừa san sẻ bớt gánh nặng công việc nội trợ gia
đình. Qua đó, từng bước thay đổi quan niệm của xã hội về công
việc nội trợ gia đình, và xã hội cần phải thừa nhận lao động nội trợ
là một dạng lao động xã hội và mang giá trị xã hội như lao động
sản xuất, kinh doanh.
* Để người phụ nữ nông thôn ngày càng phát huy được tiềm năng
sáng tạo to lớn của mình, ngày càng trở thành chủ nhân đích thực
của xã hội nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vấn đề
mang ý nghĩa quyết định là những chính sách, những chương trình,
kế hoạch về phát triển nông nghiệp, nông thôn, về gia đình và
người phụ nữ nông thôn cần thấm nhuần quan điểm giới. Quan
điểm giới hơn lúc nào hết đó là chìa khóa cho sự tiến bộ và phát
triển thực sự của phụ nữ nông thôn trong giai đoạn hiện nay
2. Chăm lo sức khỏe và an sinh xã hội cho phụ nữ nông thôn



Hiện nay, phụ nữ nông thôn chịu nhiều thiệt thòi về sức khỏe. Do
đời sống gia đình còn nghèo, người phụ nữ nông thôn thường phải
lao động rất vất vả, các hoạt động nông-lâm-ngư nghiệpcùng với
việc chăm lo cho gia đình dường như đã vắt kiệt sức lao động của
họ làm cho người phụ nữ không có thời gian nghỉ ngơi để tái tạo lại
sức lao động của mình. Chính vì vậy, cần phải thực hiện các giải
pháp để nâng cao sức khỏe cho lao động nữ ở nông thôn như:
Thứ nhất, cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt ở nông thôn.
Trong các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn, quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cần chú trọng đến việc giữ gìn
và bảo vệ môi trường nông- lâm -ngư nghiệp. Có như thế thì phụ
nữ nông thôn mới duy trì được các nguồn thu nhập từ các hoạt
động nông- lâm-ngư nghiệp của mình.
Thứ hai, nam giới cũng cần phải san sẻ bớt các công việc gia đình
với người phụ nữ nông thôn để họ có thêm thời gian nghỉ ngơi, tái
tạo lại sức khỏe của mình. Khi tăng trưởng kinh tế có thể làm giảm
gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, họ có thời gian rỗi để tham gia thị
trường lao động như nam giới đồng thời nam giới cũng được giảm
nhẹ những công việc ngoài thị trường lao động và có thời gian để
thực hiện những công việc thuộc về gia đình.
2. Tạo điều kiện cho người phụ nữ nông thôn tiếp cận và kiểm soát
các nguồn lực
Các cơ quan hành chính Nhà nước cần phải cải cách thủ tục hành
chính nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đặc biệt là sau khi họ đã ly hôn, họ là phụ
nữ đơn thân…Bởi lẽ việc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử


dụng đất không chỉ cho phép phụ nữ tiếp cận với nguồn vốn mà
còn nâng cao sự an toàn cho chính họ trong trường hợp ly hôn

hoặc thừa kế.
Có chính sách ưu đãi giúp cho các gia đình nông thôn có điều kiện
phát triển kinh tế gia đình - phát triển kinh tế tại chỗ. Đó là chính
sách hỗ trợ vốn, thành lập tổ sản xuất hoặc công ty, phát triển
trang trại, ngành nghề và sử dụng tốt nhất các nguồn lực địa
phương, như lao động, đất đai, mặt nước, rừng, khoáng sản..
Phát triển các khu công nghiệp phù hợp với tính chất và chất lượng
lao động nông thôn, nhất là lao động nữ, tạo ra việc làm tại chỗ có
thu nhập phù hợp, từng bước điều chỉnh và hạn chế xu hướng lao
động nông thôn di cư tự do tìm kiếm việc ở các đô thị, các khu
công nghiệp.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trên đây là một số vấn đề về quyền của người phụ nữ ở
nông thôn trong các hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp dưới góc độ
bình đẳng giới. Từ những thực trạng và một số giải pháp hoàn
thiện nêu trên chúng ta có thể hy vọng về một tương lai không xa
quyền của người phụ nữ ở nông thôn trong cá hoạt động nônglâm-ngư - nghiệp được đảm bảo và hướng đến một xã hội bình
đẳng thực chất.



×