Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM- TRIẾT LÝ VÀ TÌNH THƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.9 KB, 10 trang )

Kho tàng triết lý của loài người nằm trong các tác phẩm văn học nhiều hơn trong
những cuốn sách triết. Nhưng triết trong tiểu thuyết không có hệ thống, không
khẳng định, nó bàng bạc giữa có và không, và nó tùy thuộc rất nhiều vào người đọc.
Triết trong văn học là những đám mây trên trời, người đọc ngước nhìn và tự tả cho
mình: đám mây này hình con thỏ, kia là ông khổng lồ, còn đây là ông câu cá, có cả
chiếc thuyền con của ông ấy. Nếu người đọc nhìn mây không thấy ông khổng lồ và
ông câu cá thì cũng chẳng sao, mây vẫn là mây, vẫn đẹp và nhất là nhẹ nhàng.
Người viết sách triết tìm cách hoàn tất một hệ thống tư tưởng chặt chẽ. Trong cuốn
sách triết nào, phần kết luận cũng là phần quan trọng nhất. Còn người viết tiểu
thuyết chỉ kể một câu chuyện, lang thang giữa vùng sáng và vùng tối của trái tim
con người, đôi lúc phân vân không biết viết bao nhiêu thì đủ, bao nhiêu thì thừa.
Cái khó trong một bức tranh là những nét không vẽ chứ không phải những nét được
vẽ xuống khung vải. Sự khẳng định làm chết nghệ thuật. Những câu nào người viết
còn được viết ra không khó bằng những câu phải để trống để cho nó tự thành hình
trong đầu hay trong tim người đọc. Một cuốn tiểu thuyết hay, giống như cuộc đời,
không bao giờ hoàn tất.
Tiểu thuyết, trong khi không mang mục đích thông tin, chuyên chở kiến thức, lại
làm cho ta hiểu về con người, về lòng tin, nơi họ sống, lịch sử, thời tiết, mùa
màng… sâu hơn những sách chuyên đề. Cơ quan nhi đồng của Liên hiệp quốc có
thể thống kê về số trẻ con được sinh ra trong một năm nào đó ở một nơi nào đó ở
Phi châu, số trẻ con đau yếu, được chữa bệnh hoặc không được chữa, chế độ dinh
dưỡng của chúng, được đến trường, học nghề hay đi cuốc đất. Đọc những bài viết tỉ
mỉ đó, bạn không biết một đứa trẻ khi làm vỡ một cái bát nó có bị đòn hay không;
miếng thịt hiếm hoi trong bữa cơm gia đình vào miệng người cha hay đứa con ốm
yếu nhất; khi buồn khổ đứa nhỏ úp đầu vào lòng mẹ hay đến ngồi bên một gốc cây;
nó mơ những gì và kể giấc mơ của nó cho một cái tượng gỗ, đứa em gái hay là
những ngôi sao? Nhà xã hội học có thể cung cấp cho bạn trăm nghìn con số tiêu
biểu cho trẻ con ở Phi châu, nhưng qua những con số đó bạn không nhìn thấy một
gương mặt, một kiếp sống, một hy vọng nào. Bức tranh càng tiêu biểu, thì cây cỏ
trong đó càng mờ nhạt. Nhà văn, trái lại, không biết những con số. Anh ta có một
1




câu chuyện về một đứa bé và một nỗi buồn không đếm được bằng số. Anh ta thức
đêm đốt đèn để viết câu chuyện ấy ra, không biết để làm gì.
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

TÌNH YÊU THƯƠNG VÀ TRIẾT LÝ SỐNG CỦA CON
NGƯỜI VIỆT NAM QUA TRUYỆN CỔ TÍCH
A. NỘI DUNG KIẾN THỨC.
I. Sơ lược về truyện cổ tích.
1. Khái niệm:
Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện
tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi , nhân vật
dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình
dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các
con vật nói năng và hoạt động như con người.
2. Phân loại:
- Truyện cổ tích về loài vật: Giải thích các hiện tượng của thể giới loài vật theo
cách dân gian
- Truyện cổ tich thần kỳ: Có sự xuất hiện đậm nét các yếu tố thần kỳ và thường kết
thúc theo mong muốn , chủ yếu tập trung phản ánh ước mơ, nguyện vọng, lý tưởng xã hội
của nhân dân.
- Truyện cổ tích sinh hoạt phản ánh cuộc sống đời thường, chân thực, gần gũi đề
cao đạo đức, lí trí, tinh thần thực tế. Yếu tố kì ảo nhạt hơn chủ yếu để tô đậm hiện thực
hơn là trình bày mơ ước.
3. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của truyện cổ tích:
Truyện cổ tích là một thể loại thuộc hệ thống truyện dân gian ra đời từ thời cổ đại
co mầm mống manh nha từ thể loại thần thoại đi qua truyền thuyết và nở rộ trong thời kỳ
hình thành và phát triển của xã hội phong kiến, thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy cùng với sự xuất hiện mô hình gia đình riêng rẽ và sự phân chia giai cấp đầu tiên

trong xã hội. Truyện đã đi vào phản ánh và lý giải những vấn đề mới nảy sinh nhưng đã
có tính phổ biến, nhất là những xung đột gay gắt giữa người và người trong gia đình và
ngoài xã hội trên cơ sở một trình độ nhân thức tiến bộ hơn so với các thời đại trước.
4. Giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện cổ tích:
Dù giữa các tiểu loại vẫn có nét khu biệt nhưng nhìn chung TCT vẫn là một sự
phản ánh toàn diện đời sống xã hội, phản ánh bằng quy luật thẩm mỹ sức sống của tâm
hồn, tình cảm cũng như của tư tưởng dân tộc Việt Nam.
TCT trước hết là hình ảnh chân thực về hương đất nước về lối sống, những phong
tục tập quán, những nét đẹp văn hóa trong đời sống của người Việt. Từ những cảnh đẹp,
2


những danh thắng nổi tiếng đến không gian làng xóm thân thuộc, những cây cỏ, giống vật
gần gũi...tất cả đã đi vào truyện cổ tích một cách hài hòa tự nhiên, đem lại cho truyện một
không khí êm dịu rất đỗi thân quen. Và như thế, tính xác thực của truyện cổ tích đã tạo ra
một sức hấp dẫn lớn đúng như nguyện vọng của người nghệ sĩ dân gian. Truyện cổ tích
Việt Nam vẫn là những ống kính vạn hoa đặc sắc, giúp ta nhìn vào bề sâu lịch sử cộng
đồng dân tộc Việt, tìm kiếm lại bóng dáng sự sống nhiều vẻ và đầy hoạt động của các
hình thức xã hội cổ truyền. Truyện cổ tích Việt-nam thường gắn bó chặt chẽ với đất nước
và con người Việt-nam trên rất nhiều chặng đường lịch sử, nó tô điểm cho đất nước và
con người thêm ý nhị, truyền vào cho đất nước và con người sức sống của nhiều thế hệ
quá khứ kết tinh lại.
Song điểm cốt yếu nhất của nội dung truyện cổ tích là quá trình phản ánh chân
thực mà sâu sắc tất cả những vấn đề bức thiết nhất của đời sống xã hội thời phong
kiến.Bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, truyện cổ tích đã trình bày những vấn
đề mới nảy sinh của của xã hội có giai cấp và thể hiện rõ quan điểm của nhân dân về
công lý xã hội, về đạo đức, nhân sinh. Truyện cổ tích phản ánh đời sống nhân dân, đồng
thời phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của người lao động. Nó phản ánh hiện thực
và khát vọng cải tạo hiện thực, nó tố cáo những bất công trong xã hội và cổ vũ nhân dân
đấu tranh xây dựng cuộc sống mới công bằng hơn, nhân đạo hơn. Mặt khác, thông qua

quy luật thẩm mỹ, đây cũng là những tia hồi quang soi rõ vẻ đẹp và sức sống của tâm
hồn, tình cảm, trí tuệ dân gian Việt Nam. Truyện cổ tích đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của trí
tuệ và tâm hồn dân gian tràn đầy tinh thần lạc quan và chủ nghĩa nhân đạo.
Song điều kì diệu đặc biệt làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích là là những nội
dung triết lý sấu sắc và thẫm đẫm tình người ấy lại được thể hiện bởi những hình thức có
tính nghệ thuật cao với những hình tượng sinh động, kết cấu hài hòa có tầm khái quát
lớn. Nhất là với sự xuất hiện của yếu tố thần kỳ, những nỗi đau của cá nhân trong xã hội
có giai cấp đã không chuyển hẳn thành bi kịch mà trái lại đã trở thành những ước mơ
lành mạnh, lạc quan đầy sức sống. Và chính nét huyền hoặc kỳ thú đó đã làm nên sức hấp
dẫn kỳ diệu nhất của truyện cổ tích từ muôn đời nay.
II. TÌNH YÊU THƯƠNG VÀ TRIẾT LÝ SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
QUA TRUYỆN CỔ TÍCH
1. Thế giới tình yêu thương trong truyện cổ tích.
Tác phẩm văn chương trong khi không nhằm chuyển tải thông tin, chuyên chở kiến
thức lại làm cho ta hiểu về con người, về lòng tin, về phong tục, thổ ngơi, lịch sử, thời
tiết, mùa màng… còn sâu hơn cả những sách chuyên đề.Nghĩa là cái nó mang đến cho ta
không phải là những hình dung, những sự khái quát, tổng hợp thô cứng về đời sống mà
chính là những thấu hiểu, những ám ảnh, những lay động tâm hồn và nhân cách về những
bức tranh đời sông có hình săc, có chiều sâu. Cơ quan nhi đồng của Liên hiệp quốc có
thể thống kê về số trẻ con được sinh ra trong một năm nào đó ở một nơi nào đó ở Phi
châu, số trẻ con đau yếu, được chữa bệnh hoặc không được chữa, chế độ dinh dưỡng của
3


chúng, được đến trường, học nghề hay đi cuốc đất. Đọc những bài viết tỉ mỉ đó, bạn
không biết một đứa trẻ khi làm vỡ một cái bát nó có bị đòn hay không; miếng thịt hiếm
hoi trong bữa cơm gia đình vào miệng người cha hay đứa con ốm yếu nhất; khi buồn khổ
đứa nhỏ úp đầu vào lòng mẹ hay đến ngồi bên một gốc cây; nó mơ những gì và kể giấc
mơ của nó cho một cái tượng gỗ, đứa em gái hay là những ngôi sao? Nhà xã hội học có
thể cung cấp cho bạn trăm nghìn con số tiêu biểu cho trẻ con ở Phi châu, nhưng qua

những con số đó bạn không nhìn thấy một gương mặt, một kiếp sống, một hy vọng nào.
Bức tranh càng tiêu biểu, thì cây cỏ trong đó càng mờ nhạt. Nhà văn, trái lại, không biết
những con số. Anh ta có một câu chuyện về một đứa bé và một nỗi buồn không đếm
được bằng số. Anh ta thức đêm đốt đèn để viết câu chuyện ấy ra, không biết để làm gì,
nhưng đã kí thác vào đó bao nỗi niền trắc ẩn thẳm sâu như thể không đành.
Như thế, tác phẩm văn học là sự thể hiện những nhận thức và rung cảm của nhà văn
về cuộc sống, mà tâm điểm chính là tấm lòng yêu thương trân trọng yêu thương sâu sắc
mà tác giả dành cho con người. Nhất là ở truyện cổ tích, ở những câu chuyện đã đồng
hành, san sẻ cùng người lao động những bi kịch đầu tiên của xã hội có sự phân chia giai
cấp, của những bất bình đẳng trong xã hội phong kiến, tiếng nói yêu thương, cảm thông
thực sự đã làm nên mạch nguồn nhân văn bất tận trong văn học dân gian.
Truyện cổ tích là truyện của người dân lao động, hướng về nhân dân và là người trọng
tài thiên vị của nhân dân nên đối tượng đầu tiên và chủ yếu mà tác giả cổ tích hết sức đề
cao, bênh vực là những con người nghèo khổ bất hạnh, những con người dưới đáy xã hội:
những em bé mồ côi, những anh chàng nghèo khổ… và người phụ nữ bị hất khỏi địa vị
độc tôn của chế độ mẫu quyền thời nguyên thủy xuống hàng thứ yếu trong xã hội mẫu
quyền thời phong kiến. Các truyện đã mô tả đến mức triệt để những gì nhân vật phải chịu
đựng và chỉ ra bằng hình tượng nghệ thuật những thủ đoạn ức hiếp của các lực lượng tàn
ác, những nguyên nhân xã hội làm cho các nhân vật phải chịu nhiều đau khổ oan trái.
Đây là bản cáo trạng xã hội đầu tiên chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc đánh thức sự
đồng cảm và tình giai cấp tự nhiên biểu hiện giá trị hiện thực sâu sắc của truyện cổ tích.
Thế nhưng bất chấp địa vị thấp bé và số phận tủi cực của những người nghèo khổ,
trong truyện cổ tích, những cuộc đời bé nhỏ ấy là niềm tin, là niềm thương mến của nhân
dân, họ mang trong mình những phẩm chất cao quý là hiện thân cao đẹp của đạo đức
nhân dân. Không chỉ thế, họ còn là nơi tiểm ẩn những sức mạnh, những vẻ đẹp kỳ diệu và
bất ngờ của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí bất khuất… Biết bao yêu thương và hy
vọng của nhân dân cháy lên từ cuộc sống bất công thực tại đã gửi vào những nhân vật
yêu thương ấy như niêm tin mãnh liệt vào sức sống của điều thiện, của chính nghĩa.Tình
thương yêu và trân trọng giá trị con người trong truyện cổ tích qua đó cũng thấm đẫm
tinh thần dân chủ rất sâu sắc và tích cực.

Cũng chính vì lẽ đó nên với một thái độ ủng hộ ngấm ngầm nhưng quyết liệt, các tác
giả dân gian đã thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hôi phong kiến theo quan điểm
của mình là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Để có được hạnh phúc, những con
người nghèo khổ nhưng rất thông minh và giùa lòng nhân hậu ấy phải đấu tranh kiên
4


cường chống lại các thế lực bạo tàn mà đại biểu là bọn người giàu có, xảo quyệt. Cuộc
đấu tranh ấy trải qua nhiều cam go, thử thách nhưng cuối cùng dưới sức manh chính
nghĩa, những con người đại diện cho cái thiện cũng luôn luôn chiến thắng. Sự tham gia
trợ giúp của yếu tố kỳ diệu như là sự đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi cuối cùng của điều
thiện. Ta hiểu rằng, đằng sau luỹ tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì
diệu của người nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và nuôi nó sống
động trong những câu chuyện kể.
Nhân dân lao động khi để cho những con người nghèo khổ, dưới đáy xã hội vươn lên
giành chiến thắng trước các thế lực tàn ác đã thể hiện một niềm tin bất diệt vào sức mạnh
của con người, vào chính nghĩa của dân gian. Bao nhiêu khổ đau vùi dập là bấy nhiêu mơ
ước, khát vọng hướng về một cuộc sống công bằng hơn tốt đẹp hơn. Đặc biệt,tác giả dân
gian luôn tin vào bản chất tốt đẹp của con người, luôn đề cao các mối quan hệ cao quý
đậm chất nhân văn giữa con người: tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu đôi lứa son sắt, tình
bạn bè keo sơn, sự hy sinh cao cả vì đồng loại. Nhất là ở nhóm truyện về đề tài tình yêu
đôi lứa. Hầu hết những câu chuyện là tiếng nói mạnh mẽ, dũng cảm của những đôi trai
gái đấu tranh cho tự do yêu đương . Người đọc cảm thấy ở đó giá trị nhân bản sâu sắc bởi
tất cả đều xuất phát từ tình yêu, lòng trân trọng con người.
Ở văn hóa dân gian, tinh thần nhân ái là lẽ sống rất tha thiết gắn bó bền chặt tình cảm,
đượm tình người. Những câu chuyện thấm đẫm tình người ấy như đã dệt nên chất thơ hồn
nhiên tươi mới bồi đắp tâm hồn dân tộc. Chính từ ngục tù u tối của những đè nén, vùi
dập, con người đã không ngừng lớn mạnh, tỏa sáng với những vẻ đẹp được nuôi dưỡng
bởi tinh thần nhân văn cao cả của người lao động.
Cũng như truyện cổ tích của bất cứ dân tộc nào trên thế giới, truyện cổ tích Việt-nam

sản sinh trong sinh hoạt của dân tộc, nhất là trong những môi trường gần gũi với cuộc
sống thực tiễn, ở đó phẩm cách của dân tộc được bộc lộ một cách trọn vẹn qua hoạt động
sáng tạo của lớp người đông đảo nhất và cũng giàu sức sống nhất. Thấm nhuần lòng yêu
thiên nhiên xứ sở và tinh thần nhân đạo, nội dung truyện cổ tích hướng con người đến lý
tưởng đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đâycũng là niềm mơ ước chung của nhân
loại từ bao nhiêu đời nay. Bởi lẽ “Truyện cổ tích là truyện của lòng thương người, là nơi
lắng đọng tinh thần nhân văn muôn thuở… Trong đau khổ và nước mắt, tác giả cổ tích
vẫn mỉm cười dìu dắt nhân loại vượt qua trăm ngàn gian khổ, đến với ánh sáng lạc quan.
Từ trong chết chóc, tác giả dân gian cầm tay dắt loài người đến với sự sống, đến với cái
thiện… Cổ tích là tiếng thét căm giận trước bất công và là tiếng hô hào yêu thương trong
bình đẳng” (Eleazar Moisevich Meletinski).
2. Chất triết lý trong truyện cổ tích:
Ở bất kỳ dân tộc nào, khi chưa có sự xuất hiện của triết học với tư cách là những học
thuyết về các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới thì văn học dân gian là
phương tiện hiệu quả nhất chuyên chở những quan niệm, triết lý nguyên sơ nhất của con
người thưở xa xưa. Triết lý nhân sinh là tầng nghĩa sâu sắc nhất của tác phẩm văn học thể
5


hiện một cách cô gọn những khám phá, nhận thức biểu hiện thành quan niệm khái quát
của nhà văn về các vấn đề nhân sinh và xã hội. Chất triết lý trong tác phẩm là sự in dấu
của một trí tuệ vô cùng nhạy bén và sắc sảo của nhà văn về những vấn đề thiết thân, phổ
quát của con người trong cõi nhân gian làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm. Song
điều cần nói là kho tàng triết lý của loài người nằm trong các tác phẩm văn học nhiều hơn
trong những cuốn sách triết. Nhưng triết trong văn học lại không có tính hệ thống, không
khẳng định, nó bàng bạc giữa có và không, và nó tùy thuộc rất nhiều vào người đọc và
cũng bởi thế nên ở đây triết học và nghệ thuật đã nâng cánh cho nhau cùng bay lên trong
niềm hân hoan cảm thụ của muôn người.
Tiếp thu tinh hoa của trí tuệ dân gian qua các thời kỳ trước kết hợp với những nhận
thức về thực tiễn đời sống xã hội thời phong kiến, triết lý trong truyện cổ tích xoay quanh

những vấn đề như sự tồn tại của con người và nhân bản, về các mối quan hệ giữa người
với người trong đời sống. Trong sự vận động và giao lưu văn hóa, tư tưởng của người
bình dân trong truyện cổ tích không thể không có những ảnh hưởng nhất định từ các tôn
giáo khác ngoài tín ngưỡng dân gian nhưng điều đáng nói là tất cả nhứng sự ảnh hưởng
đó đều đã thẩm thấu qua trí tuệ và tâm lý dân gian nên vẫn rất tự nhiên, gần gũi và mang
đậm tinh thần Việt. Và qua đó, ta thấy được giá trị chân lý, giá trị nhân văn của tư tưởng
triết lý dân gian.
a/ Triết lý về tự nhiên vũ trụ
Truyện cổ tích được thừa hưởng một vũ trụ quan phong phú do người nguyên thủy
để lại trong các thần thoại. Đó là thế giới vạn vật hữu linh, người - trời tương thông, mọi
vật tuần hoàn theo vòng quay luân hồi và luôn luôn tồn tại một thế giới vĩnh hằng bất tử
vượt thoát ra ngoài mọi lẽ thường tình của nhân gian. Xác thịt con người cũng như cỏ cây
động vật là chỗ trú ngụ của linh hồn. Nhưng khác với vẻ hồn nhiên của thần thoại, người
ta đem tôn ti trật tự mới có của xã hội loài người áp dụng vào xã hội vốn tự do bình đẳng
của thần. Người ta sắp đặt thứ bậc ma quỷ thần thánh, phân tuyến cho họ theo những
chuẩn mực đạo đức của con người. Ngoài cõi trần, chủ yếu còn ba cõi nữa là cõi trời, cõi
nước và cõi âm. Mỗi cõi đều có vua quan, có dân chúng, có kẻ giàu sang, có người nghèo
hèn. Cõi trần không phải là chỗ ở riêng của người và vật mà còn là nơi trú ngụ hoặc chỗ
đi về của thần tiên, ma quỷ.Thần tiên, ma quỷ, v.v... cũng có phân biệt thiện và ác: có
hạng đáng thương, có hạng đáng ghét, có hạng đáng tôn thờ, có hạng đáng sợ. Phần nhiều
họ cũng chung cảnh vinh nhục sướng khổ như người. Cái nhìn của người bình dân về
sức mạnh thần linh cũng đã thay đổi. Các bậc siêu nhiên luôn thấu hiểu, soi tỏ mọi việc
của cõi trần và có thể dùng sức mạnh thần tiên để thay đổi mọi việc nhưng điều đó cũng
không còn là vạn năng trong truyện cổ tích. Vũ trụ quan tự phát của nhân dân kết hợp vơi
những biến chuyển mới trong nhận thức và tư duy người xưa đã chuyển hóa thành một
vũ trụ quan mới trong tưởng tượng của dân chúng.
lý sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là sự đề cao hết mức giá
trị và vị thế của con người trong trời đất.Nếu cách đánh giá con người của giai cấp thống
trị xuất phát từ âm mưu bóc lột người lao động, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình thì
6



với nhân dân, con người cần được tôn trọng với những giá trị như chính nó vốn có. Con
người là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao quý nhất, hoàn mỹ nhất của tự
nhiên. Nó vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ. Vẻ đẹp tâm hồn
nhân cách tỏa sáng tôn lên vẻ đẹp về hình thức, là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá con
người. Đó không chỉ là thiên nhiên tự nó, mà còn là thiên nhiên cho nó. Con người chẳng
những có khả năng nhận thức thiên nhiên, mà còn có khả năng cải tạo thiên nhiên. Nó là
chúa tể của muôn loài vì nó có trí khôn nó là con nhưng cũng là người. Con người có
những nhu cầu bản năng. Người bình dân chống lại thói đạo đức giả, phủ nhận và che
giấu cái phần sinh vật đó. Nhưng con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa những
nhu cầu ấy thành người.
Con người rất ham sống, luôn gắn bó với những niềm hạnh phúc thiết thực bình dị
nơi trần thế. Với người bình dân, hạnh phúc đích thực chính là ở cuộc đời này lam lũ, cơ
cực nhưng đầm ấm, thanh thản. Truyện cổ tich đã sự dùng hình thức biến hóa thần kỳ
mang dấu ấn thuyết luân hồi của đạo Phật để nhân vật của mình được gắn bó với cõi thế,
với tình người thiết tha song đó cũng là sự biểu hiện mạnh mẽ của một tinh thần đấu
tranh không khoan nhượng đấu tranh vì quyền được sống, quyền được hạnh phúc của con
người. Đó là lòng lạc quan, yêu đời và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo
truyện cổ tích.
Nhưng con người cũng nhận thức rằng không nhất thiết phải sống bằng mọi giá. Họ
hiểu sống phải có vật chất nhưng còn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó
là tinh thần, là tình thương và danh dự. Họ rất coi trọng những giá trị tinh thần, coi đó
như là thước đo đích thực định giá nhân cách con người. Những quan niệm ấy nhiều khi
đã vượt ra ngoài giáo lý phong kiến chính thống nâng đỡ, bênh vực, yêu thương con
người. Tình nghĩa, nhân nghĩa - những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp vẫn luôn là
mẫu số chung của mọi mối quan hệ của người Việt Nam.
Vì cùng là sản phẩm của tự nhiên nên con người phải được bình đẳng. Mọi sự đối xử
bất bình đẳng đều phải bị lên án, bị trừng trị đích đáng. Các quan hệ xã hội phải dựa trên
tinh thần yêu thương hòa hợp, tôn trọng con người.Con người phải hành động hợp với tự

nhiên, loại bỏ những gì là trái tự nhiên. Tình yêu là điều kỳ diệu nhất mà tự nhiên ban
cho con người nên cần vun vén cho những tình yêu đích thực, lên án đấu tranh chống lại
những rào cản bất công trong tình yêu. Tự do trong tình yêu và hôn nhân là một trong
những ước mơ cháy bỏng nhất của con người cháy lên từ cuộc đời ngang trái và thăng
hoa thành những câu chuyện tình đẹp nhất trên thế gian trong những câu chuyện cổ tích.
Chuyện đời và những giấc mơ đã hoà quyện vào nhau tạo nên một thế giới mà ở đó tính
dân chủ được đề cao.Đấy là tinh thần nhân văn cao đẹp trong triết lý dân gian.
Trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, người bình dân luôn đề cao triết lý “Ở
hiền sẽ gặp lành”, coi trọng những ứng xử tuân theo luật nhân quả. Tư tưởng này không
chỉ là lời răn của triết lý nhà Phật, mà còn là lời tâm niệm chân thành của người Việt được
họ chiêm nghiệm và lý giải trong văn học dân gian. Song điều thú vị là, trong luật nhân
7


quả ấy, mối quan hệ giữa nguyên nhân- kết quả trong đời sống con người và xã hội không
được nhìn nhận từ tính chất thần bí của tôn giáo mà cái quyết định vẫn là con người, tư
duy của người bình dân xưa vẫn căn bản là tư duy duy vật và biện chứng. Giá trị đích thực
của lòng nhân, của cái thiện dứt khoát sẽ được đền đáp xứng đáng.Truyện cổ tích không
bao giờ có ngẫu nhiên cho những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc nhất
mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may mắn của số phận.
Triết lý đó đã thể hiện đậm nét nhất tinh thần lạc quan trong triết lý sống của người
Việt trong truyện cổ tích. Nó truyền cho bao thế hệ những niềm tin vào bản tính thiên
lương trong sáng, vào sức sống mạnh mẽ, bất diệt của điều thiện giữa bao trầm luân của
cuộc đời. Những kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần này, nhưng không phải
là biểu hiện duy nhất.Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan. Nhân vật chính
chết hoặc ra đi biệt tích. Nhưng cái chết hoặc ra đi của nó để lại niềm tin vào phẩm giá con
người, niềm tin vào cuộc đời.
Triết lý về con người trong văn học dân gian Việt Nam nói chung và truyện cổ tích
nói riêng là hiện hữu, nó có giá trị nhân văn cao thể hiện ở niềm tin và tình thương yêu
mãnh liệt dành cho con người. Tư tưởng triết lý ấy là điểm sáng nhân văn, là hơi ấm nhân

tình tô điểm làm đẹp thêm chiều sâu trí tuệ trầm tích theo thời gian ẩn hiện trong từng
loại hình văn hóa dân gian. Đó là tiếng vọng của tâm hồn dân tộc mà nếu biết lắng nghe,
những câu chuyện dân gia ấy sẽ nói với chúng ta nhiều điều về quá khứ bởi lẽ nó đã
mang trong mình vóc dáng của quá khứ, của đời sống con người từ ngàn xưa. Những âm
vang huyền diệu ấy đã và sẽ mãi là nguồn cảm hứng vô tận nối dài sức sống của tâm hồn
dân tộc trong văn học sau này.
B.

LUYỆN TẬP:
1/ Về thế giới tình thương yêu trong truyện cổ tích Việt Nam qua một số truyện tiêu
biểu.
2/ Sức sống của trí tuệ và tâm hồn nhân dân trong truyện cổ tích.
3/Có ý kiến cho rằng: “Văn học không chỉ viết về cái đã có, đang có mà còn cả những
điều sẽ có, nên có và đáng lẽ phải có” . Bằng những hiểu biết về truyện cổ tích, hãy trình
bày quan điểm của bản thân về ý kiến trên.
4/ Những khát vọng dân chủ mạnh mẽ và táo bạo của nhân dân trong truyện cổ tích qua
“Tấm Cám” và “Tiên Dung- Chử Đồng Tử”.
5/ Vẻ đẹp của yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích.
6/ Có ý kiến cho rằng: “Xét cho cùng, truyện cổ tích hấp dẫn người đọc là ở chỗ nó đã
chiếu rọi ánh sáng lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống” . Bằng những hiểu biết về truyện
cổ tích, hãy làm sáng rõ ý kiến trên.
7/ Có nhận định cho rằng: “Vẻ đẹp và sức sống của thế giới cổ tích đã trở thành nguồn
mạch vô tận trong văn học dân tộc”. Hãy phân tích một số tác phẩm văn học trung đại và
hiện đại để làm sáng tỏ điều đó.

8


C. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP.
1/ HS đọc kỹ mục 1 của phần II rút ra những biểu hiện cơ bản của thế giới tình thương

yêu trong truyện cổ tích và phân tích một số truyện tiêu biểu như Tấm Cám, Chử Đồng
Tử, Sọ Dừa, Nàng Có…để làm rõ những biểu hiện đó. Chú ý vận dụng kiến thức về hoàn
cảnh ra đời để lý giải nguyên nhân và qua đó, cần khẳng định vị trí của nội dung tình yêu
thương đối với giá trị của kho tàng truyện cổ tích.
2/ HS cần nắm vững kiến thức được nêu ra ở mục 2 của phần II để xác định rõ vẻ đẹp của
trí tuệ và tâm hồn nhân dân trong truyện cổ tích thể hiện ở chất triết lý sâu sắc của mỗi
câu chuyện. Đó là sự nhạy bén và sắc sảo của tác giả dân gian trước những vấn đề thiết
thân, phổ quát của con người trong cõi nhân gian. Trong truyện cổ tích, nhân dân ta đã
gửi gắm những thông điệp rất tích cực về các vấn đề như sự tồn tại của con người và
nhân bản, về các mối quan hệ giữa người với người trong đời sống… Những tư tưởng ấy
thể hiện giá trị chân lý, giá trị nhân văn của triết lý dân gian.
3/ Đề số 3 và đề số 6 khá gần nhau về yêu cầu nội dung kiến thức, đều đề cập đến vai trò
quan trọng của sự thể hiện những ước mơ khát vọng của con người trong đời sông của tác
phẩm văn học nói chung và truyện cổ tích nói riêng bên cạnh chức năng phản ánh hiện
thực đời sống. Trong truyện cổ tích, xuất phát từ hiện thực đời sống, nhân dân ta đã gửi
gắm những ước mơ cháy bỏng về những vấn đề thiết thân của đời sống, cả về vật chất
lẫn tinh thần. Đây chính là nội dung chủ yếu làm nên giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tinh
thần lạc quan trong truyện cổ tích. Cần chú ý vận dụng hợp lý kiến thức lý luận văn học
và kiến thức về thể loại, kết hợp các thao tác giải thích, phận tích, lập luận chứng minh.
Chú ý xác định rõ quan điểm của bản thân về vấn đề khi giải quyết đề số 3.
4/ Cần chú ý nêu bật những khát vọng mạnh mẽ của nhân dân trong hai truyện Tấm Cám
và Chử Đồng Tử trên tinh thần đối sánh. Đó là những mơ ước cháy bỏng về một cuộc
sống ấm no, phồn thịnh, con người được sống tự do, được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nơi
cuộc đời trần thế. Trong truyện Tấm Cám, ước mơ ấy ẩn hiện trong niềm tin vào cuộc
đấu tranh và chiến thắng cái ác của những con người bé nhỏ đại diện cho điều thiện. Còn
trong Chử Đồng Tử, đó là khát vọng được giải phóng, được phá tung những xiềng xích
ràng buộc để mỗi con người được sống trọn ven trong ước mơ hạnh phúc của mình. Cần
chú ý làm rõ tính chất mạnh mẽ và táo bạo của những ước mơ hạnh phúc khi soi chiếu
vào hiện thực đời sống và hệ tư tưởng phong kiến.
5/ Yếu tố thần kỳ là nét huyền hoặc kỳ thú đã làm nên sức hấp dẫn kỳ diệu nhất của

những câu chuyện cổ tích. Vẻ đẹp của yếu tố thần kỳ thể hiện ở cả phương diện nội dung
lẫn hình thức. Về nội dung, nó vừa tô đậm hiện thực, vừa gợi ra ước mơ. Nó biểu hiện rõ
nét tinh thần nhân đạo và lạc quan của truyện. Về hình thức nghệ thuật, dù yếu tố thần kỳ
không còn có được tính vạn năng tuyệt đối như các thể loại truyện trước, nhưng nó vẫn
tạo ra sức hấp dẫn lớn bởi sự kỳ diệu của một thế giới kỳ ảo chỉ có trong tưởng tượng mà
9


nó tạo ra. Tất cả đã khơi dậy một niềm rung cảm mạnh mẽ ở người đọc người nghe.
6/ HS có thể chọn và phân tích để làm rõ một vài yếu tố nổi bật nhất của thế giới cổ tích
đã trở thành những tinh hoa nghệ thuật đặc sắc hấp dẫn sự sáng tạo của các tác giả văn
học viết ở những chặng đường sau như : xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật, kết thúc
có hậu, yếu tố thần kỳ…để làm sáng tỏ hơn nữa sức sống của truyện cổ tích cùng sự tiếp
biến nghệ thuật đầy sáng tạo của các tác giả.

10



×