Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.83 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển và đứng vững trên thị trường
đòi hỏi hoạt động kinh doanh phải có lãi, phải mang lại lợi nhuận. Chính sách
mở cửa đã tạo ra những cơ hội mới cũng như những khó khăn mới cho các
doanh nghiệp nội địa khi vừa cạnh tranh với nhau lại vừa phải cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm năng tài chính to lớn, trang thiết bị hiện
đại và bề dày kinh nghiệm. Chính vì vậy, hiệu quả kinh tế trở thành vấn đề
quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, lợi nhuận còn là nguồn tài
chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng kinh doanh và nâng cao đời sống
người lao động trong doanh nghiệp.
Mọi ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đều chứa đựng tiềm năng đem lại
lợi nhuận cho nền kinh tế quốc dân trong đó ngành công nghiệp bán lẻ. Hệ
thống bán lẻ thường được ví như mạch máu giúp các thương hiệu lưu thông
trên thị trường, là điểm trung chuyển giữa doanh nghiệp sản xuất và người
tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm ra thị trường một
cách thuận tiện hơn. Hệ thống bán lẻ giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm
có chất lượng hơn.
Kênh bán lẻ ngoài chức năng là một kênh phát triển thương mại, còn là
một trong những kênh truyền dẫn hiệu quả thương hiệu quốc gia ra toàn cầu.
Sự đổ bộ của một “ông lớn” trong ngành bán lẻ đến một quốc gia khác sẽ kéo
theo một loạt hàng hóa, thương hiệu đến với người tiêu dùng bản địa. Đây là
lợi ích về văn hóa và kinh tế rất lớn của ngành công nghiệp bán lẻ.
Thị trường bán lẻ Việt Nam thời gian qua liên tục chứng kiến những sự
thay đổi mang tính đột phá. Trước tiên, đó là cuộc đổ bộ của hàng loạt thương
hiệu lớn đến từ nước ngoài. Thêm vào đó các doanh nghiệp Việt cũng đang
góp phần khiến cuộc chiến bán lẻ trở nên sôi động. Công ty Cổ phần Đầu tư
Thế giới di động chính là minh chứng nổi trội thông qua mức tăng trưởng khả
quan, sự ảnh hưởng của doanh nghiệp trong ngành, tầm nhìn của đội ngũ lãnh
đạo và uy tín trên thị trường. Là một doanh nghiệp vận hành hai chuỗi bán lẻ
tăng trưởng mạnh thegioididong.com và dienmay.com, trong những năm qua,
công ty đã liên tục chứng tỏ sự phát triển năng động bất chấp tình hình kinh tế


vẫn đang khó khăn.
Xuất phát từ vai trò to lớn của lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh và
trong thực tế hiện nay thì việc đi sâu tìm hiểu về lợi nhuận và các nhân tố ảnh

1


hưởng tới lợi nhuận để từ đó có giải pháp tăng trưởng lợi nhuận cho doanh
nghiệp là việc làm thiết thực và hết sức cần thiết. Qua quá trình học tập,
nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư
Thế giới di động, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp gia tăng lợi nhuận tại
Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên
đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề được trình bày theo ba chương như sau:
- Chương I. Một số vấn đề lý luận về lợi nhuận của doanh nghiệp
- Chương II. Thực trạng lợi nhuận ở Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di
động
- Chương III. Một số giải pháp nhằm gia tăng lợi nhuận ở Công ty Cổ
phần Đầu tư Thế giới di động

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Sự cần thiết phải gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
2


Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế và với Nhà nước. Nó là chỉ tiêu đánh giá kết
quả kinh doanh cuối cùng của đơn vị. Nếu kinh doanh có lãi chứng tỏ doanh
nghiệp tổ chức kinh doanh hợp lý, cải tiến kỹ thuật, chất lượng sản phẩm tốt,
giảm chi phí, hạ giá thành, đầu tư đúng hướng vào thị trường mục tiêu. Điều đó

tạo điều kiện cho doanh nghiệp củng cố uy tín, gọi vốn kinh doanh, vốn đầu tư
phát triển sản xuất.
Mặt khác nó cũng tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên
của đơn vị, thúc đẩy mọi người tích cực làm việc, tăng năng suất lao động,
chăm lo đến công việc chung của doanh nghiệp và doanh nghiệp có cơ sở để tái
sản xuất mở rộng sản xuất kinh doanh góp phần tăng trưởng kinh tế quốc dân.
Ngược lại nếu kinh doanh thua lỗ sẽ làm giảm thu nhập người lao động, doanh
nghiệp không duy trì được sản xuất và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế quốc
dân là điều khó tránh khỏi. Nói tóm lại, lợi nhuận có tác động rất lớn đến quản
lý kinh tế tài chính và chỉ đạo sản xuất của đơn vị, là cơ sở để lập phương án
phân phối lợi nhuận, đồng thời là căn cứ để phát triển sản xuất ở doanh nghiệp.
Thông qua ý nghĩa của lợi nhuận cho thấy sự cần thiết của việt phấn đấu
tăng lợi nhuận đối với doanh nghiệp và xã hội.
* Đối với doanh nghiêp
Lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng
hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng
của quá trình sản xuất. Thật vậy để có được sự cung cấp hàng hoá và dịch vụ
phục vụ cho nhu cầu thị trường, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản
chi phí nhất định. Chi phí đó có thể là tiền thuê đất đai, thuê lao động, tiền
vốn… trong quá trình kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngoài việc
mong muốn rằng giá cả mà hàng hoá họ tiêu thụ ít nhất cũng bù đắp được chi
phí đã bỏ ra mà họ còn mong muốn họ có phần dôi ra để mở rộng sản xuất, trả
cổ tức… Như vậy suy cho cùng là họ muốn có lợi nhuận. Nếu không có yếu tố
này họ sẽ không sẵn sàng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy lợi
nhuận là động lực thôi thúc các doanh nghiệp phát triển mở rộng sản xuất.
Nếu không có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ không mở rộng được qui mô
sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên… từ đó sản phẩm bán ra

3



không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, giá thành cao dẫn đến thất bại
trong cạnh tranh, về lâu dài có thể dẫn đến phá sản.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất, nâng
cao năng suất lao động. Để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
diễn ra một cách liên tục, có hiệu quả, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi
phí… các doanh nghiệp phải quan tâm đến người lao động thông qua chính
sách tiền lương, tiền thưởng. Nguồn cơ bản để doanh nghiệp thực hiện chính
sách đối với người lao động là lợi nhuận. Lợi nhuận là nguồn để trích lâp các
quỹ khen thưởng phúc lợi… Từ đó doanh nghiệp có thể giải quyết từng bước
nhu cầu vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp
nhằm khuyến khích và kích thích người lao động, tạo động lực cho sản xuất
kinh doanh phát triển.
* Đối với xã hội
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản quyết định sự thành bại của thị
trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp do đó sẽ phản ánh hiệu quả
sản xuất của nền kinh tế. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp do đó nó phản ánh hiệu quả sản xuất của nền
kinh tế. Nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh
doanh, tài chính, đầu tư… cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh
có lãi và nó tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thêm vào đó, lợi nhuận có mối quan hệ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
khác như chỉ tiêu về đầu tư sản xuất chi phí, giá thành, các chỉ tiêu đầu ra và
chính sách quốc gia lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản
thân doanh nghiệp mà có có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận của doanh
nghiệp một phần sẽ được chuyển vào ngân sách Nhà nước thông qua các sắc
thuế. Đây là cơ sở để tiến hành tái sản xuất mở rộng, củng cố tiềm lực quốc
phòng, duy trì quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh
thần cho nhân dân.

Qua đó ta thấy lợi nhuận là yêu cầu quan trọng quyết định tới sự tăng
trưởng, và phát triển của doanh nghiệp và của toàn xã hội. Doanh nghiệp
muốn tăng trưởng, mở rộng sản xuất phải có tích luỹ tức là phải có nhiều lợi
nhuận, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi sẽ đưa nền kinh tế ngày
càng tăng trưởng và phát triển.
1.2. Khái quát về lợi nhuận

4


1.2.1. Khái niệm lợi nhuận
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, sự phát triển hay suy
thoái của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển hay suy thoái của một
nền kinh tế quốc dân. Chức năng của các doanh nghiệp là thực hiện tái sản xuất
xã hội, sản xuất ra tổng sản phẩm xã hội với nguồn lực hiện có nhằm cung cấp
hàng hoá, dịch vụ đáp ứng cho nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Song,
nền kinh tế thị trường với các qui luật khắt khe của nó buộc các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển được thì phải làm ăn có hiệu quả, tức là có lợi nhuận.
Do đó, lợi nhuận là mục tiêu vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Để
có thể cung cấp được hàng hoá, dịch vụ cho nhu cầu thị trường, nhu cầu xã hội
các doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra những chi phí cần thiết nhất định cho quá trình
sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu truyền thống và quan trọng của một doanh nghiệp theo lý
thuyết là đạt tối đa lợi nhuận và giả thuyết này rất vững chắc. Về lịch sử mà
nói những nhà kinh tế trong các phân tích của họ về công ty đều lấy lợi nhuận
tối đa làm mục tiêu cuối cùng, tuy nhiên có rất nhiều quan điểm khác nhau về
lợi nhuận:
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển Marx về lợi nhuận thì
“Giá trị thặng dư hay phần trội lên trong toàn bộ giá trị hàng hóa, trong đó
lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được

vật hóa thì tôi gọi là lợi nhuận”.
- Nhà kinh tế học hiện đại P.Samuelson và D.Norhaurs lại cho rằng “Lợi
nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ tổng số chi” hay nói cách
khác “Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của
một doanh nghiệp và tổng chi phí”.
Từ các quan điểm trên chúng ta thấy rằng nhờ có lý luận vô giá về giá trị
hàng hóa sức lao động, Marx là người đầu tiên đã phân tích nguồn gốc lợi
nhuận một cách khoa học, sâu sắc và có ý nghĩa cả về kinh tế, chính trị. Theo
ông, lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư, lợi nhuận và giá trị
thặng dư có sự giống nhau về lượng và khác nhau về chất.
- Về lượng, nếu giá cả hàng hóa bằng giá trị của nó thì lượng lợi nhuận
bằng lượng giá trị thặng dư, nếu giá cả hàng hóa không nhất trí với giá trị của nó
thì mỗi tư bản cá biệt có thể thu được lượng lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá

5


trị thặng dư, nhưng trong toàn xã hội thì tổng số lợi nhuận luôn bằng tổng số giá
trị thặng dư.
- Về chất, giá trị thặng dư là một nội dung bên trong được tạo ra trong
lĩnh vực sản xuất, là khoản dôi ra ngoài giá trị tư bản khả biến và do sức lao
động được mua từ tư bản khả biến tạo ra. Còn lợi nhuận là hình thức biểu hiện
bên ngoài của giá trị thặng dư thông qua trao đổi, phạm trù lợi nhuận đã xuyên
tạc, che đậy được nguồn gốc quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa được những gì tinh tế nhất của các nhà kinh tế học tư sản cổ
điển, kết hợp quá trình nghiên cuus sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
Karl Marx đã chỉ rõ được nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và quan điểm về lợi
nhuận của ông hoàn toàn đúng đắn, do đó ngày nay khi nghiên cứu về lợi
nhuận chúng ra đều nghiên cứu dựa trên quan điểm của ông.
Như vậy, lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản

xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động
doanh nghiệp. Từ góc độ của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể thấy
rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và
chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ hoạt động của doanh
nghiệp đưa lại.
1.2.2. Nguồn gốc hình thành
Nguồn gốc hình thành lợi nhuận cũng là một đề tài được nhiều nhà kinh
tế học tranh cãi.
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng: "Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang
giá, là sự lừa gạt".
Chủ nghĩa trọng nông thì khẳng định "Nguồn gốc sự giàu có của xã hội
lại là thu nhập trong sản xuất nông nghiệp".
Adam Smith là nhà kinh tế học cổ điển đầu tiên đã nghiên cứu khá toàn
diện về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Theo A Smithm, lợi nhuận của
nhà tư bản được tạo ra trong quá trình sản xuất, là hình thái biểu hiện khác của
giá trị thặng dư , tức là phần giá trị do lao động không được trả công tạo ra.
Ông đưa ra định nghĩa: "lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào giá trị sản
phẩm do người lao động tạo ra" (khoản khấu trừ thứ nhất là địa tô, tiền cho
việc sử dụng đất) nguồn gốc của lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đầu tư đẻ ra

6


trong cả lĩnh vực sản xuất và lưu thông, lợi nhuận là nguồn gốc của các thu
nhập trong xã hội và của mọi giá trị trao đổi.
A.Smith còn cho rằng, không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao
động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận: Tư bản cho vay nhận được lợi tức
cho vay khi cho vay vốn, tư bản ngân hàng nhận được lợi nhuận ngân hàng
khi kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng… đó là biểu hiện khác của lợi nhuận

được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Tuy còn có những sai lầm trong hệ thống lý luận của mình nhưng A.dam
Smith đã chỉ ra được rằng: "Nguồn gốc thực sự do giá trị thặng dư tạo ra là
do lao động tạo ra, còn lợi nhuận, địa tô, lợi tức chỉ là biến thể, là hình thái
biểu hiện khác nhau của giá trị thặng dư”.
Davia. Ricardo cũng hoàn toàn dựa vào giá trị lao động để phân tích chỉ
rõ nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ
nghĩa. Ông đã khẳng định: lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị sản
phẩm hàng hoá được phân thành các nguồn thu nhập: tiền lương, địa tô, lợi
nhuận. Ông kết luận: "Lợi nhuận chính là phần giá trị lao động thừa ra ngoài
tiền công, lợi nhuận là lao động không được trả công nhân". D. Ricardo coi
lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, số chênh lệch đó chính là lợi
nhuận. Ông thấy được quan hệ mâu thuẫn giữa tiền lương và lợi nhuận. Việc
hạ thấp tiền lương làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại, tiền lương tăng làn
lợi nhuận giảm, còn giá trị hàng hoá thì không thay đổi. Ông nhận thấy sự đối
lập giữa tiền lương và lợi nhuận, tức sự đối lập giữa lợi ích kinh tế của công
nhân và của các nhà tư bản.
Kế thừa những quan điểm đúng đắn, khoa học của những nhà lý luận tiền
bối, K.Marx đã nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để về nguồn gốc, bản chất
của lợi nhuận trong kinh doanh TBCN. Dựa trên lý luận giá trị lao động, Karl
- Marx đã phát hiện và vạch rõ toàn bộ quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới
CNTB, điều mà các nhà khoa học trước ông không làm được. K.Max đã
khẳng định "Nguồn gốc của lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, bản
chất của lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá thặng dư, là kết quả của lao
động không được trả công".
Để vạch rõ sự hình thành lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ
nghĩa, K.Marx đã bắt đầu từ chi phí sản xuất TBCN. Để có thể sản xuất ra hàng
hoá có giá trị là C + V + m (trong đó C là tư bản bất biến, là bộ phận tư bản tồn

7



tại dưới hình thức nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, V là tư bản khả
biến, là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động và m là giá trị thặng dư, là
giá trị do người lao động tạo ra không được trả công, thì nhà tư bản chỉ phải bỏ
ra lượng tư bản là c + v. (c + v) được gọi là chi phí sản xuất TBCN (ký hiệu là
K). Khi đưa hàng hoá ra trao đổi trên thị trường thì theo qui luật trị giá ban
nhất trí với giá trị của hàng hoá là c + v + m. do vậy nhà tư bản thu được một
khoản tiền lương hơn chi phí mà họ đã bỏ ra. Số chênh lệch này được gọi là lợi
nhuận (ký hiệu là P) và giá trị hàng hoá có thể viết lại thành K + P. Như vậy
dường như lợi nhuận là do tư bản ứng trước sinh ra nhưng thực chất nó chỉ là
một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư mà thôi. Dưới tác động của qui luật
cung cầu, giá bán không phải luôn bằng giá trị mà nó dao động xung quanh giá
trị, do vậy mà lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư.
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp thuần tuý dù không tạo
ra giá trị và giá trị thặng dư nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Sở dĩ có được lợi
nhuận là vì tư bản công nghiệp thường cho tư bản thương nghiệp một phần giá
trị thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất để tư bản thương nghiệp thực hiện
giá trị hàng hoá cho tư bản công nghiệp. Do vậy nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận thương nghiệp cũng từ giá trị thặng dư mà ra.
1.2.3 Các loại lợi nhuận trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Theo phân công lao động xã hội, chức năng chủ yếu của kinh doanh
thương mại là mua bán trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ nhằm đưa hàng hóa
từ sản xuất đến tiêu dùng. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ được hình thành từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu
của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp còn có thể tham
gia vào hoạt động đầu tư tài chính. Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư

vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như: mua bán trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn
liên doanh liên kết, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay thuộc nguồn vốn
kinh doanh… Các khoản lợi nhuận thư được từ hoạt động này góp phần làm
tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3.3. Lợi nhuận của các hoạt động khác

8


Lợi nhuận của các hoạt động khác của doanh nghiệp là khoản chênh lệch
giữa thu nhập khác với chi phí khác. Đó có thể là những khoản lợi nhuận bất
thường không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện
hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên. Những khoản lợi
nhuận bất thường có thể du chủ quan đơn vị hay khách quan đưa tới.
Các khoản thu từ hoạt động bất thường bao gồm:
- Thu từ thanh lý nhường bán tài sản cố định;
- Thu từ khoản được phạt vi phạm hợp đồng kinh tế;
- Thu từ các khoản nợ khó đòi đã xử lý khóa sổ;
- Thu từ khoản nợ không xác định được chủ;
- Các khoản thu nhập kinh doanh năm trước bỏ quên không ghi số kế toán
được phát hiện sau đó.
1.2.4. Cách xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau do hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp là đa dạng và phong phú. Mỗi bộ phận lợi
nhuận từ những hoạt động khác nhau có phương pháp xác định khác nhau.
1.2.4.1. Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh gồm:
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu
thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh
chính là phụ trong doanh nghiệp.
Cách xác định:

Chi phí
Lợi nhuận từ hoạt
Doanh thu
Chi phí
Giá vốn
quản lý
động sản xuất kinh = thuần trong bán hàng bán
doanh
doanh
kỳ
hàng
nghiệp
Trong đó:
- Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản
giảm giá, chiết khấu ban hàng, doanh thu của số hàng bị trả lại, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất khẩu. Đây là bộ phận doanh thu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số doanh thu, nó quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Thời điểm xác định doanh thu là khi người mua đã chấp nhận thanh toán
không phụ thuộc vào việc đã thu được tiền hay chưa. Tiền thu về trong kỳ là
tổng số tiền mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động bán hàng trong kỳ bao
gồm cả khoản tiền mà khách hàng còn nợ kỳ trước và kỳ này trả hoặc tiền

9


ứng trước của khách để mua hàng. Tiền thu về trong kỳ có thể lớn hơn hoặc
nhỏ hơn doanh thu trong kỳ của doanh nghiệp.
+ Các khoản giảm trừ doanh thu.
Giảm giá hàng bán: Đó là số tiền mà doanh nghiệp chấp nhận giảm cho
người mua vì những nguyên nhân thuộcvề doanh nghiệp (hàng sai qui cách

phẩm chất…) hoặc số tiền thưởng cho người mua do mua một lần với số
lượng lớn (bớt giá) hoặc số lượng hàng mua trong một khoảng thời gian là
đáng kể (hồi khấu)
Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người
mua từ chối trả lại do người bán không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết.
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu: Là các loại thuế theo luật định áp
dụng cho các loại hàng thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hoá.
- Giá vốn hàng bán: là khái niệm dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp
để chỉ giá mua thực tế của hàng đã tiêu thụ trong các doanh nghiệp thương
mại. Chỉ tiêu này có thể là giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm đã tiêu thụ
trong các doanh nghiệp sản xuất, giá thành thực tế của công trình, hạng mục
công trình đã hoàn thành bàn giao đối với các doanh nghiệp xây lắp hoặc là
giá thành của dịch vụ đã hoàn thành đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ.
Thời điểm xác định giá vốn hàng bán là cùng thời điểm xác định doanh
thu của doanh nghiệp.
- Chi phí bán hàng: bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: Tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho
nhân viên bán hàng, tiếp thị đóng gói bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi
phí vật liệu bao bì, dụng cụ, chi phí bảo hành quảng cáo…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh,
quản lý hành chính, các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho
ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu tiêu dùng
cho văn phòng, khấu hao TSCĐ dùng cho cho doanh nghiệp, các khoản thuế,
lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và
các chi phí khác chung cho toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí
kiểm soát, tiếp tân, tiếp khách, phí công tác…


10


Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là 2 khoản mục chi phí
lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, nó phản ánh trình độ tổ chức, quản
lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí phát sinh sẽ được tập
hợp và phân bổ phù hợp với doanh thu.
1.2.4.2. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt
động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt
Thu nhập hoạt
Chi phí hoạt động
=
động tài chính
động tài chính
tài chính
Trong đó:
- Thu nhập hoạt động tài chính: là khoản thu do hoạt động đầu tư tài
chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại, bao gồm:
+ Thu nhập do chia liên doanh
+ Lợi tức cổ phiếu
+ Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác.
+ Thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán (chênh lệch giá mua
bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu).
+ Thu nhập từ việc cho thuê tài sản
+ Hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá chứng khoán đã trích năm
trước nhưng không sử dụng hết.
+ Chiết khấu thanh toán được hưởng khi mua.
+ Thu nhập tài chính khác.

- Chi phí hoạt động tài chính: là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra
ngoài doanh nghiệp, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập
và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các khản chi phí này bao
gồm:
+ Chi phí thực hiện hoạt động liên doanh liên kết (không bao gồm phần
vốn góp liên doanh
+ Chi phí cho thuê tài sản
+ Chi phí mua bán các loại chứng khoán, kể cả các tổn thất trong đầu tư
+ Chiết khấu thanh toán danh cho khách hàng
+ Chi phí lập dự phòng giảm giá chứng khoán
+ Chi phí tài chính khác
1.2.4.3. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường.

11


Khái niệm: là số chênh lệch giữa thu nhập bất thường và chi phí hoạt
động bất thường.
Lợi nhuận hoạt
Thu nhập hoạt
Chi phí hoạt động
=
động bất thường
động bất thường
bất thường
Trong đó:
- Thu nhập hoạt động bất thường (còn gọi là thu nhập đặc biệt) là những
khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất
thường không xảy ra một cách đều đặn và thường xuyên. Những khoản thu
nhập có thể do chủ quản của doanh nghiệp hay khách hàng đưa đến bao gồm:

+ Thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ (không bao gồm giá trị còn lại của
TSCĐ)
+ Thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ nay thu hồi được
+ Thu từ việc bán vật tư, tài sản, phế liệu thừa.
+ Hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ
phải thu khó đòi đã trích năm trước nhưng không sử dụng hết.
+ Các khoản thu nhập bất thường khác như: tiền phạt do bên kia vi phạm
hợp đồng, các khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót hay lãng
quên chưa ghi sổ kế toán, năm nay mới phát hiện ra…
- Chi phí bất thường: là các khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với
những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những chi phí bất thường
có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan đưa tới. Bao gồm:
+ Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý nhượng bán, tiền phạt do vi
phạm hợp đồng.
+ Chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ
+ Giá trị tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm
lỗi, các tổ chức bảo hiểm và số bù đắp của các quĩ dự phòng.
Trên cơ sở xác định lợi nhuận từ các hoạt động khác nhau, tổng lợi nhuận
của doanh nghiệp xác định qua công thức sau:
Tổng lợi
nhuận của

Lợi nhuận
=

hoạt động

Lợi nhuận
+


hoạt động tài

Lợi nhuận
+

hoạt động

doanh nghiệp
SXKD
chính
bất thường
Xác định chính xác lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh
nghiệp. Nó đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm), là cơ sở cho việc đánh
12


giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời là cơ
sở cho việc phân phối đúng đắn lợi nhuận tạo ra để đảm bảo cho quá trình tái
SXKD của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục.
1.2.4.4. Xác định cơ cấu phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp
Đối với những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề khác nhau thì tỷ
trọng mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp có sự khác
nhau. Thông thường các doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh tách rời
với hoạt động tài chính do đó cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm cả
3 bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài
chính và lợi nhuận từ hoạt động khác, trong đó tỷ trọng lợi nhuận hoạt động
kinh doanh chiếm tỷ lệ chủ yếu.
Phân tích cơ cấu lợi nhuận giúp doanh nghiệp xác định được phần lợi
nhuận nào chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp từ đó tập

trung tìm nguyên nhân và xây dựng các biện pháp nâng cao lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác
nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như
môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Có sự khác nhau giữa cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh thông thường với doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài
chính tín dụng.
Với doanh nghiệp thông thường hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt
với hoạt động tài chính. Do đó cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông
thường gồm 3 bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động
tài chính và hoạt động bất thường. Trong ba bộ phận trên, lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó khác với nhóm doanh
nghiệp thường, cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực
tài chính, tín dụng ngân hàng chỉ gồm 2 bộ phận là: lợi nhuận từ hoạt động tài
chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Ở các doanh nghiệp này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng lợi nhuận do họ thực hiện chức năng kinh doanh hàng hoá đặc
biệt - kinh doanh tiền tệ nên hoạt động tài chính cũng là hoạt động sản xuất
kinh doanh.

13


Thứ hai: Trong các môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp
cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi
nhuận của mình. Chẳng hạn như doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông
thường cơ cấu gồm 3 bộ phận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình
độ cao, hoạt động tài chính, hoạt động thị trường chứng khoán diễn ra sôi nổi,
hiệu quả thì tất hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng được phát triển.

Lợi nhuận từ hoạt động tài chính do đó cũng sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể
không kém gì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khi nền
kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động tài chính, thị trường chứng khoán
chưa phát triển, hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ rất hạn chế.
Vì vậy, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, đóng vai trò quyết định đến
mọi hoạt động doanh nghiệp.
1.3. Các tiêu chí đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính tổng hợp đánh giá chất lượng, hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đang trong thời kỳ tăng trưởng
không thể là một doanh nghiệp mà lợi nhuận càng ngày càng sa sút, thậm chí
thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên, không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh
giá chất lượng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp cùng loại, nhưng qui mô sản xuất khác nhau thì sẽ thu được lợi nhuận
khác nhau. Ở doanh nghiệp qui mô lớn thì lợi nhuận thu về sẽ lớn hơn số lợi
nhuận mà doanh nghiệp nhỏ đạt được. Nhưng không thể dựa vào đó mà kết
luận doanh nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả hơn. Như vậy, để đánh giá một
cách chính xác và so sánh chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp, ngoài
việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận, ta cũng cần xem xét lợi nhuận trong mối quan
hệ với các chỉ tiêu khác như: vốn, chi phí, giá thành… vì lợi nhuận chịu ảnh
hưởng nhiều nhân tố khách quan và chủ quan (thị trường, ngành nghề, lĩnh vực,
điều kiện kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp…).
Để đánh giá hiện trạng doanh nghiệp trên phương diện lợi nhuận, cần
xem xét trên các chỉ tiêu cơ bản sau:
1.3.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi vốn) Là quan hệ tỷ
lệ giữa số lợi nhuận trước hoặc sau thuế đạt được với số vốn sử dụng bình
quân trong kỳ (cả vốn cố định, vốn lưu động hay vốn chủ sở hữu).
Công thức xác định:

14



P
Tsv =

x100%

Vbq
Trong đó:
Tsv : Tỷ suất lợi nhuận vốn
P : Lợi nhuận trước (sau thuế) đạt được trong kỳ
Vbq : Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận vốn phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất bỏ ra trong kỳ
sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Vì vậy, tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
của doanh nghiệp, đồng thời nói lên trình độ sử dụng tài sản, vật tư tiền vốn của
doanh nghiệp, qua đó kích thích doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn.
1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu
thụ với giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ.
Công thức xác định :
P
Tsg =
x 100%
Zt
Trong đó:
Tsg: Tỷ suất lợi nhuận giá thành
P : Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trước (hoặc sau thuế)
Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận giá thành cho biết cứ bỏ ra một đồng chi phí vào sản
xuất sản phẩm trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Thông qua chỉ tiêu nay, có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Nhờ đó doanh nghiệp có thể thấy được
những mặt tích cực và hạn chế trong công tác quản lý giá thành để tìm ra
những biện pháp khắc phục những hạn chế, nhằm đạt được hiệu quả tốt hơn
trong kỳ sau.
1.3.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi
nhuận tiêu thụ với doanh thu bán hàng trong kỳ.
Công thức xác định :
P
Tst =
x 100%
Vbq
Trong đó:
15


Tst : Tỷ suất lợi nhuận doanh thu tiêu thụ
P : Lợi nuận trước hoặc sau thuế sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Vbq : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu thì thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Nếu ta đem so sánh tỷ suất này với tỷ suất chung của toàn ngành mà kết
quả thấp hơn, chứng tỏ doanh nghiệp đã bán hàng với giá thấp hơn hoặc giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp khác cùng
ngành. Qua đó doanh nghiệp cần có biện pháp điều chỉnh giá một cách hợp lý để
nâng cao hơn nữa mức lợi nhuận thu được trong doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.3.4. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi
nhuận ròng với vốn chủ sở hữu (vốn tự có) của doanh nghiệp.
Công thức xác định :

Pr
Tsvc =
x 100%
Vsh
Trong đó:
Tsvc : Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Pr : Lợi nhuận ròng.
Vsh : Vốn chủ sở hữu bình quan trong kỳ.
Phản ánh cứ đầu tư một đồng vốn chủ sở hữu vào sản xuất kinh doanh
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Chỉ tiêu này thể hiện phần nào tình hình tài chính của doanh nghiệp và
được gọi là thước đo hệ số sinh lời của doanh nghiệp. Bởi lẽ doanh nghiệp
không thể tiến hành sản xuất kinh doanh mà chỉ dựa vào vốn tự có của mình
mà phải huy động thêm một lượng vốn vay khá lớn. Đặc biệt đối với doanh
nghiệp xây lắp thì khoản tiền này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số vốn
hoạt động. Chính vì vậy, chỉ tiêu này cóý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó nó chịu ảnh hưởng bởi rất
nhiều nhân tố có quan hệ với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong

16


các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp có những nhân tố
thuộc về bên trong, chủ quan của doanh nghiệp, có những nhân tố bên ngoài
không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Tất cả những nhân tố đó có thể
tác động có lợi hoặc bất lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến kết quả kinh doanh và lợi

nhuận của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp
hữu hiệu nhằm đạt được mức lợi nhuận mong muốn.
1.4.1. Các nhân tố bên trong.
Nhân tố bên trong là các nhân tố có liên quan chặt chẽ tới doanh nghiệp
ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp và trong phạm vi khả năng của mình
doanh nghiệp có thể tác động chúng theo chiều hướng có lợi. Nó bao gồm các
nhân tố sau:
a) Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là những khoản chi phí liên quan
tới việc sản xuất ra sản phẩm và đưa sản phẩm đó tới tay người tiêu dùng, bao
gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản
xuất chung, chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí khác có liên quan
tới tiêu thụ sản phẩm hàng hoá như: đóng gói, bao bì, vận chuyển, bảo quản
sản phẩm, chi phí điều tra, nghiên cứu thị trường, bảo hiểm sản phẩm, đó là
các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp phải nghiên cứu ảnh hưởng của nó để có
biện pháp giảm thiểu chi phí góp phần tăng lợi nhuận.
Một là, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là những khoản chi phí liên
quan tới việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu phục vụ trực tiếp cho quá trình sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí này thường chiếm tỷ trọng
lớn trong giá thành của sản phẩm do đó nếu tiết kiệm được khoản chi phí này
sẽ góp phần làm giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chi phí
nguyên vật liệu được xác định như sau:
Chi phí nguyên
Định mức tiêu
Giá đơn vị
=
x
vật liệu
hao NVL

NVL
- Định mức tiêu hao nguyên vật liệu được các nhà quản lý quan tâm và
thường được xây dựng kế hoạch sản xuất đòi hỏi phải được quản lý và kiểm
tra thường xuyên nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất. Ảnh
hưởng của nhân tố này đến chi phí vật liệu là ảnh hưởng tỷ lệ thuận. Nếu định
mức tiêu hao nguyên vật liệu tăng sẽ làm tăng mức chi phí nguyên vật liệu
17


trong giá thành. Việc thay đổi định mức tiêu hao nguyên vật liệu có thể do
công tác quản lý, sử dụng vật liệu và do công tác thiết kế mẫu mã sản phẩm
thay đổi. Nếu nhìn ở góc độ quản lý vật liệu thì việc thay đổi mẫu mã sản
phẩm là nhân tố khách quan song trên góc độ quản lý sản xuất kinh doanh thì
đó lại là nhân tố chủ quan bởi việc nghiên cứu cải tiến mẫu mã, kiểu dáng
công nghiệp không những tạo ra được những sản phẩm phù hợp thị hiếu người
tiêu dùng mà còn tạo điều kiện tiết kiệm vật tư trong sản xuất.
- Giá đơn vị nguyên vật liệu là nhân tố khách quan vì nó phụ thuộc vào
giá mua trên thị trường và các khoản chi phí bỏ ra liên quan tới quá trình thu
mua vật tư như chi phí thu mua trong đó giá mua lại phụ thuộc vào nguồn
cung cấp và thời điểm mua, chi phí thu mua lại phụ thuộc vào phương tiện vận
chuyển, tuyến đường vận chuyển...
Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp áp dụng biện pháp sử dụng vật liệu thay
thế. Việc dùng nguyên vật liệu rẻ tiền thay thế cho nguyên vật liệu đắt tiền là xu
hướng tích cực nhằm tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu được các doanh nghiệp
chú ý.
Tất cả các nhân tố trên (định mức tiêu hao vật tư, giá mua nguyên vật
liệu, chi phí thu mua...) đều ảnh hưởng tới tổng chi phí và tác động tới lợi
nhuận doanh nghiệp. Đòi hỏi các doanh nghiệp không những phải tìm các
biện pháp để giảm thiểu các chi phí trên mà còn phải xác định mức ảnh hưởng
của từng nhân tố đến chi phí vật tư để có các biện pháp thích hợp.

Hai là, chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm
các khoản tiền lương, thưởng và phụ cấp của công nhân trực tiếp tham gia vào
sản xuất. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, do cơ sở vật chất trang thiết bị
kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động chưa cao, còn sử dụng nhiều lao động trực
tiếp vào sản xuất, do đó chi phí nhân công trực tiếp còn chiếm tỷ trọng tương
đối lớn và do đó ảnh hưởng tới chi phí sản xuất, tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh
đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm biện pháp giảm chi phí tiền lương công nhân trực
tiếp trên một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên, việc hạ tháp tiền lương phải hợp lý vì
tiền lương là một hình thức thù lao trả cho người lao động, với sự phát triển của
xã hội và đời sống ngày càng được cải thiện đòi hỏi tiền lương cũng phải được
nâng cao. Mặt khác tiền lương hợp lý sẽ là đòn bẩy kích thích sự sáng tạo và
tinh thần hăng say làm việc. Do đó các doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư, đổi

18


mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng năng suất lao động
đảm bảo gia tăng tiền lương cho người lao động nhưng tốc độ tăng của tiền
lương không vượt quá tốc độ tăng của sản xuất.
Ba là, chi về quản lý sản xuất kinh doanh, bao gồm chi phí sản xuất
chung và chi phí quản lý doanh nghiệp, là các khoản chi phí liên quan tới bộ
máy quản lý doanh nghiệp và của phân xưởng, như tiền lương cho nhân viên
quản lý phân xưởng, nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi phí văn phòng, chi
phí khấu hao tài sản cố định. Nếu những chi phí này tăng sẽ làm cho giá thành
sản phẩm tăng từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do vậy cần có
phương pháp quản lý khoa học, tinh giảm bộ máy sao cho gọn nhẹ nhằm tiết
kiệm chi phí quản lý cho doanh nghiệp.
Bốn là, các khoản chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm, các loại
chi phí này tuy không trực tiếp tạo thành thực thể sản phẩm nhưng giữ vị trí

quan trọng đảm bảo cho quá trình tiêu thụ. Trong nền kinh tế thị trường như
hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để bán, thảo mãn nhu cầu
khách hàng, vì vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm luôn đượ doanh nghiệp quan
tâm đầu tư nhiều công sức, tiền của nhằm thoả mãn nhất nhu cầu khách hàng
và thắng đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Tuy nhiên, ta đã biết chi phí tiêu thụ sản phẩm là một yếu tố chi phí đầu
vào, việc tăng chi phí này sẽ làm tăng tổng chi phí và làm giảm lợi nhuận
doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp khi xây dựng kế hoạch, khoản chi phí
này phải cân nhắc giữa những chi phí bỏ ra và hiệu quả của nó thể hiện qua
công tác tiêu thụ sản phẩm.
b) Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Nếu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là yếu tố đầu vào mà
doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh thì hoạt động tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá tạo ra thu nhập để bù đắp các khoản chi phí đó và hình
thành lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định:
Doanh thu

=

Khối lượng sản phẩm

x

Giá bán đơn vị

tiêu thụ trong kỳ
sản phẩm
* Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ: Phân tích kết quả hoạt động tiêu
thụ của doanh nghiệp trong một kỳ nhất định. Nhìn chung khối lượng sản phẩm


19


tiêu thụ càng lớn chứng tỏ công tác tiêu thụ tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu
quả và có lãi, khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều nhân tố.
+ Khối lượng sản phẩm sản xuất và chất lượng của sản phẩm: khối lượng
sản phẩm sản xuất đảm bảo đúng kế hoạch, thường xuyên, liên tục sẽ tạo điều
kiện tăng sản lượng sản phẩm tiêu thụ. Ngược lại nếu sản phẩm đưa ra quá
nhiều hay quá ít (tức là không đảm bảo kế hoạch sản xuất) chẳng hạn khối
lượng hàng hoá quá lớn thì dù sản phẩm có hấp dẫn, giá cả có hợp lý nhưng
sức mua lại hạn chế do vậy tiêu thụ không hết gây ứ đọng vốn. Hoặc nếu đưa
ra thị trường một khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thị trường thì tất yếu
doanh nghiệp sẽ ít đi, bỏ lỡ cơ hội kiếm nhiều lợi nhuận. Mặt khác, một bộ
phận khách hàng không được đáp ứng yêu cầu sẽ tìm đến những sản phẩm
cùng loại trên thị trường và điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đã nhường
cơ hội làm ăn và cả cơ hội cạnh tranh cho đối thủ, có thể dẫn doanh nghiệp
đến tình cảnh mất đi một bộ phận khách hàng, mất uy tín, doanh thu giảm và
tất nhiên lợi nhuận cũng phải giảm theo. Vì vậy doanh nghiệp cần phải có kế
hoạch, nghiên cứu, đánh giá đúng đắn nhu cầu thị trường và khả năng sản xuất
của mình để đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm thích hợp, nhằm đảm bảo
doanh thu tiêu thụ cao, tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm tiêu thụ cũng ảnh hưởng lớn tới khối lượng sản
phẩm tiêu thụ, sản phẩm với chất lượng cao đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng sẽ
được thị trường chấp nhận và có khả năng tiêu thụ được nhiều. Nâng cao chất
lượng sản phẩm liên quan tới nhiều khâu như nâng cao trang thiết bị, máy móc
kỹ thuật, trình độ công nhân... và nó cũng tác động không nhỏ tới chi phí sản
xuất. Vì vậy các doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ sản xuất hợp lý vừa
đảm bảo chất lượng sản phẩm vừa phù hợp với trình độ công nhân và mức chi
phí đầu tư hợp lý.

+ Kết cấu mặt hàng kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để
nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm rủi ro trong kinh doanh, các doanh nghiệp
thường kinh doanh nhiệu loại mặt hàng khác nhau tuy nhiên tốc độ tiêu thụ,
mức độ phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của các loại hàng hoá khác nhau thì khác
nhau. Từ đó cho thấy cơ cấu mặt hàng kinh doanh hợp lý với chủng loại và tỷ
trọng của mỗi loại hàng hoá phù hợp sẽ tránh được tình trạng ứ đọng hàng hoá
khi lượng hàng hoá dự trữ quá lớn so với mức cần của thị trường hoặc có thể bỏ

20


lỡ cơ hội tốt trong kinh doanh thì nhu cầu của thị trường lớn nhưng doanh
nghiệp dự trữ quá ít.
Ngoài hai nhân tố trên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phù thuộc vào
nhiều, nhân tố khác như thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả hàng hoá, chất
lượng dịch vụ sau bán hàng.
* Giá bán sản phẩm: Khi các nhân tố khác không đổi, giá bán đơn vị sản
phẩm tăng làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên việc tăng giá sẽ
ảnh hưởng tới việc tiêu thụ trên thị trường. Giá bán sản phẩm có thể do doanh
nghiệp xác định giá bán phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mình.
Đối với những thị trường mà sức mua có hạn thì giả cả có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng với tình hình tiêu thụ sản phẩm. Với một mức giá thấp hơn có thể
thu hút đông đảo người mua và ngược lại, với một mức giá cao hơn có thể làm
giảm sức mua rất nhiều.
Như vậy chính sách giá cả, doanh nghiệp có thể đẩy mạnh hay hạn chế
tiêu sản phẩm, quyết định doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp vì vậy các
doanh nghiệp phải xác định cho mỗi loại sản phẩm một mức giá bán hợp lý,
đảm bảo bù đắp các khoản chi phí bỏ ra và được thị trường chấp nhận.
c) Công tác tổ chức quản lý quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.

Tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức tốt có hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, đảm bảo đầy đủ kế hoạch về số lượng và chất
lượng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục, tăng
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả của sản xuất sẽ làm tăng
sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng và do đó lợi nhuận được nâng cao.
Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh bao gồm các khâu như định hướng
chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, phương án
kinh doanh, tổ chức kiểm tra, đánh giá và có biện pháp điều chỉnh. Thực hiện
tốt các khâu của quá trình kinh doanh giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao
động và đó là điều kiện để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.4.2. Các nhân tố bên ngoài
Nhân tố bên ngoài là tập hợp tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận
của doanh nghiệp mà bản thân doanh nghiệp không thể kiểm soát được.
Nghiên cứu các nhân tố này giúp doanh nghiệp có các biện pháp điều chỉnh

21


hoạt động kinh doanh của mình thích nghi với các nhân tố này. Nó bao gồm
các nhân tố sau:
a) Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế phản ánh tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế về
cơ cấu ngành, vùng, triển vọng phát triển của nền kinh tế trong khu vực.
Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố ảnh hưởng tới sức mua và cơ cấu
chỉ tiêu của người tiêu dùng. Do đó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái, sức mua hàng giảm, hàng
hoá bị ứ đọng trên thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn. Tình hình sẽ trái ngược lại khi nền kinh tế trở lại
thời kỳ phục hồi và tăng trưởng, việc mua sắm hàng hoá tập hợp trở lại, làm

cho nhịp độ và chu kỳ kinh doanh trở nên phồn thịnh tạo điều kiện cho việc
sản xuất, tiêu thụ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu môi trường kinh tế giúp nhà quản trị doanh nghiệp có thể
điều chỉnh kịp thời kế hoạch, mục tiêu sản xuất của doanh nghiệp phù hợp với
điều kiện của nền kinh tế, duy trì và tăng vị thế doanh nghiệp trên thị trường.
b) Thị trường tiêu thụ sản phẩm và cạnh tranh.
Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải mua sắm các
yếu tố cần thiết như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ... (các yếu tố
đầu vào). Sau khi tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm doanh nghiệp lại đưa sản
phẩm ra thị trường tiêu thụ, tạo ra nguồn thu bù đắp các khoản chi phí bỏ ra và
thu lợi nhuận. Như vậy, mọi hoạt động của doanh nghiệp từ việc mua sắm các
yếu tố đầu vào, tới tiêu thụ sản phẩm đều được thực hiện thông qua thị trường,
do đó những biến động trên thị trường có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh
doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự biến động của cung cầu trên thị
trường ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá bán ra của doanh nghiệp. Nếu
cung lớn hơn cầu chứng tỏ nhu cầu về mặt hàng kinh doanh đã được đáp ứng
tương đối đầy đủ, người tiêu dùng không còn ưa chuộng mặt hàng đó, cho dù
doanh nghiệp có dùng những biện pháp khuyến khích khách mua hàng. Lúc
này việc tăng khối lượng hàng hoá bán ra là rất khó khăn và cuối cùng lợi
nhuận của doanh nghiệp sẽ gỉam.
Ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu chứng tỏ mặt hàng đang kinh doanh
của doanh nghiệp được người tiêu dùng quan tâm và ưa thích, nói cách khác,
doanh nghiệp chưa đáp ứng hết nhu cầu trên thị trường. Lúc này doanh nghiệp

22


dễ dàng đẩy mạnh hoạt động bán ra, tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi nhắc
đến thị trường, ta không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Cạnh tranh xảy ra giữa các nhà

kinh doanh cùng bán một loại hàng hoá, những loại hàng hoá có thể thay thế
lẫn nhau làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tóm lại, nghiên cứu thị trường và ảnh hưởng của nó đối với hoạt động
của doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng nhất của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi các nhà quản trị kinh doanh
trong cơ chế thị trường phải xác định được doanh nghiệp của mình đnag kinh
doanh trên thị trường nào để có biện pháp thích hợp về mỗi loại thị trường có
đặc tính riêng và do đó cần có các biện pháp riêng biệt.
c) Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Vai trò chủ đạo của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đựơc thể hiện
thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước định hướng,
khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các tổ chức nói chung và doanh
nghiệp thương mại nói riêng bằng các chính sách, luật lệ và các công cụ tài
chính. Trong đó thuế là một công cụ giúp cho nhà nước thực hiện tốt công việc
điều tiết vĩ mô của mình. Thuế là các chính sách kinh tế khác của Nhà nước ảnh
hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường… Vì vậy nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của doanh
nghiệp và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tất cả các nhân tố trình bày ở trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ THẾ GIỚI DI ĐỘNG
2.1. Khái quát về Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động
23


2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Đầu tư
Thế giới di động

2.1.1.1. Lịch sử hình thành
Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động (moible world co.ltd) (gọi tắt
là TGDĐ) được thành lập vào tháng 3/2004 lĩnh vực hoạt động chính của
công ty bao gồm: mua bán sửa chữa các thiết bị liên quan đến điện thoại di
động, thiết bị kĩ thuật số và các lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử.
Tính tới cuối tháng 9/2014, công ty đã có 280 cửa hàng TGDĐ hoạt động
ở khắp 63 tỉnh thành trên toàn quốc. Vào cuối năm 2010, công ty cũng đã cho
ra mắt mô hình bán lẻ thiết bị gia dụng và điện tử dưới thương
hiệu Dienmay.com, hoạt động tại các tỉnh phía nam.
Công ty cũng đưa vào dịch vụ bán hàng trực tuyến với hơn 450.000 lượt
truy cập mỗi ngày trên trang điện tử thegioididong.com. Nhờ số lượng truy
cập này, TGDĐ đã trở thành nhà bán lẻ điện tử trực tuyến lớn nhất của Việt
Nam. Công ty đã áp dụng chiến lược “omni-channel” (kênh omni), một hình
thức kết hợp giữa dịch vụ kinh doanh trực tuyến và trực tiếp. Ví dụ, tận dụng
hệ thống cửa hàng trên toàn quốc, công ty cung cấp dịch vụ giao hàng trong
vòng 30 phút cho các đơn hàng trực tuyến của các khách hàng tại nhiều địa
bàn khác nhau.
Bằng trải nghiệm về thị trường điện thoại di động từ đầu những năm
1990 cùng với việc nghiên cứu kĩ tập quán mua hàng của khách hàng Việt
Nam, TGDĐ đã xây dựng một phương thức kinh doanh chưa từng có ở Việt
nam trước đây. Công ty đã xây dựng được phong cách bán hàng tư vấn đặc
biệt nhờ vào một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và trang web
www.thegioididong.com hỗ trợ như là một cẩm nang về điện thoại di động
hàng đầu tại Việt Nam.
2.1.1.2. Quá trình phát triển của công ty1
Tháng 3/2004: Ra quyết định thành lập Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới
di động.
Tháng 6/2004: Công ty ra mắt website www.thegioididong.com và 3 cửa
hàng nhỏ tại Hoàng Văn Thụ, Lê Lai, Cách mạng tháng 8 (Thành phố Hồ Chí
Minh).

Tháng 10/2004: Ban giám đốc công ty quyết định khai trương siêu thị đầu
tiên tại 89A, Nguyễn Đình Chiểu (Tp. Hồ Chí Minh) với tên gọi là TGDĐ.
1

Bài giới thiệu niêm yết Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động

24


Tháng 1/2005: Siêu thị thứ hai được ra mắt tại số 330 Đường Cộng Hòa
(Tp. Hồ Chí Minh).
Tháng 1/2006: Siêu thị thứ ba được khai trương tại 26 Phan Đăng Lưu và
2 tháng sau lại thêm một cửa hàng nữa tại Minh Khai (Tp Hồ Chí Minh).
Năm 2007 – 2009: Đây là giai đoạn TGDĐ mở rộng ở Tp Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng và Hà Nội.
Cuối năm 2009: Có tổng cộng 38 siêu thị.
Năm 2010 – 2011: Đánh dấu bước phát triển vượt bậc với sự ra đời liên
tiếp của các siêu thị TGDĐ, mở rộng trên phạm vi toàn quốc.
Cuối năm 2011: Số siêu thị tăng gấp 3 lần so với năm 2010.
Tháng 9/2014: TGDĐ đã có 247 siêu thị phủ sóng trên khắp 63 tỉnh
thành trên cả nước.
2.1.2. Mục tiêu và các hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty.
2.1.2.1. Mục tiêu kinh doanh của công ty
Công ty Cổ phần Đầu tư Thế giới di động nỗ lực hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững và trở thành thương hiệu hàng đầu về cung cấp các sản phẩm
kĩ thuật số công nghệ cao tại Việt Nam mang tầm cỡ quốc tế. Dựa vào nội lực
của chính mình và mở rộng hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước,
TGDĐ sẽ mang tới những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, đem
lại lợi nhuận cho các cổ đông, cho sự nghiệp cá nhân của mỗi nhân viên.
TGDĐ xác định các yếu tố chính tạo nên sự thành công của một doanh

nghiệp, đó là:
- Nguồn nhân lực: TGDĐ xác định nguồn nhân lực là yếu tố sản sinh ra
mọi nguồn lực của công ty. Công ty TGDĐ chú trọng thu hút nhân tài, đào tạo
về nghiệp vụ chuyên môn và công nghệ, đãi ngộ thỏa đáng để xây dựng một
lực lượng hùng hậu cho sự phát triển bền vững của công ty.
- Chất lượng sản phẩm và dịch vụ: TGDĐ nhận thức rằng sự trung thành
của khách hàng sẽ đưa TGDĐ tới thành công và chỉ có chất lượng của sản
phẩm và dịch vụ mới là phương tiện mang tính quyết định để giữ vững sự
trung thành của khách hàng.
- Quan hệ hợp tác: TGDĐ mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong
và ngoài nước nhằm kịp thời đưa những sản phẩm công nghệ mới và dịch vụ
theo các yêu cầu đặc thù của khách hàng.

25


×