Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.89 KB, 3 trang )

Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự
áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự

Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng dân
sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự.
1. Một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật
Thứ nhất, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm
2011 thì: Trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai,
nguyên đơn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng mà không
có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi
kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu
cầu khởi kiện của người đó. Tuy nhiên, điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ
luật này lại quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự trong trường hợp: “Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp người đó có đơn
đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng”. Quy
định này đã không tính đến một trường hợp ngoại lệ là: Nếu trong
vụ án này bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà
những người này đều có mặt khi được triệu tập hợp lệ và vẫn giữ
nguyên yêu cầu của mình thì trong trường hợp này, Tòa án có tiếp
tục xét xử vắng mặt nguyên đơn để xét yêu cầu phản tố của bị
đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan hay không? Đây là vấn đề pháp luật tố tụng dân sự chưa có
quy định và cũng chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.


Thứ hai, điểm a khoản 2 Điều 199 BLTTDS năm 2011 đã lường
được trường hợp vụ án có yêu cầu độc lập hoặc yêu cầu phản tố


nên đã quy định trong trường hợp này Tòa án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Nhưng quy định này cũng chưa chính xác ở chỗ: không thể sử
dụng thuật ngữ “đình chỉ giải quyết vụ án” được vì đình chỉ giải
quyết vụ án là không xem xét, giải quyết bất cứ yêu cầu nào nữa.
Trong một vụ án có nhiều yêu cầu thì chỉ được đình chỉ giải quyết
yêu cầu đó chứ không thể đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu
được.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, Toà
án có thể xét xử mà không có sự tham gia của đương sự. Vấn đề
đặt ra là khi phiên toà diễn ra mà không có sự tham gia của bất kỳ
đương sự nào thì thủ tục tiến hành phiên toà này sẽ được thực
hiện như thế nào để bảo đảm đúng thủ tục tố tụng. Giả sử một
phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự xét xử mà không có sự có mặt của
bất kỳ đương sự nào thì diễn biến phiên toà sẽ được xác định như
thế nào? Nếu không có đương sự, các thủ tục tiến hành phiên toà
như thủ tục hỏi thì Hội đồng xét xử sẽ không thể tiến hành thủ tục
hỏi mà chỉ là việc Hội đồng xét xử cho công bố bản tự khai, biên
bản lấy lời khai của đương sự đã có trong hồ sơ vụ án, công bố các
tài liệu khác có trong hồ sơ, đưa ra xem xét các vật chứng... Đặc
biệt, sau khi kết thúc thủ tục hỏi Hội đồng xét xử chuyển sang thủ
tục tranh luận thì thủ tục tranh luận không thể tiến hành theo thủ
tục chung do BLTTDS quy định khi không có đương sự nào tham
gia vì chủ thể tranh luận chủ yếu là đương sự. Do vậy, pháp luật tố
tụng dân sự cần có quy định cụ thể về vấn đề này.


2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, pháp luật tố tụng dân sự nên quy định theo hướng:
Trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nguyên đơn

vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng mà không có người đại
diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án
ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, nhưng nếu bị đơn có yêu cầu phản tố hoặc người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì Tòa án vẫn
phải giải quyết yêu cầu của những người này và họ sẽ trở thành
nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu sẽ trở thành bị đơn.

Thứ hai, BLTTDS nên thay đổi cách sử dụng thuật ngữ. Nếu trong
vụ án có nhiều yêu cầu thì không nên sử dụng thuật ngữ “đình chỉ
giải quyết vụ án” mà thay vào đó là thuật ngữ “đình chỉ giải quyết
yêu cầu”.
Thứ ba, pháp luật tố tụng dân sự bên cạnh việc quy định thủ tục
tiến hành phiên toà trong trường hợp thông thường với sự có mặt
của các đương sự cần quy định những thủ tục riêng và những điều
kiện cho một phiên toà xét xử vắng mặt đương sự nhằm bảo đảm
việc Toà án xét xử vắng mặt đương sự mà vẫn bảo đảm giải
quyết nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật.



×