Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở khu bảo tồn nhiên nhiên pù luông, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 71 trang )

MỞ ĐẦU
Côn trùng nước bao gồm những loài có ít nhất một giai đoạn phát triển trong
vòng đời của chúng sống trong nước. Cùng với sự phong phú của các dạng thủy vực
như thủy vực nước đứng, nước chảy hay các thủy vực tạm thời và nhân tạo đã tạo
nên những quần xã côn trùng nước vô cùng đa dạng.
Cũng như các động vật không xương sống khác, côn trùng nước góp phần
duy trì hệ sinh thái thủy vực phát triển ổn định. Chúng là những mắt xích không thể
thiếu trong mạng lưới thức ăn của các hệ sinh thái. Nhiều nhóm côn trùng nước còn
có chức năng lọc nước giữ cho môi trường sống của chúng trong sạch, hay một số
khác lại tạo nguồn ôxy do chúng ăn nạo các lớp tảo phát triển trên bề mặt đá hoặc lá
cây thủy sinh. Bên cạnh đó, các loài côn trùng nước còn có ý nghĩa lớn đối với đời
sống con người. Hầu hết, chúng là đối tượng được sử dụng trong giám sát sinh học.
Do một số loài rất nhạy cảm đối với sự biến đổi của môi trường nên chúng được
dùng làm sinh vật chỉ thị đánh giá chất lượng môi trường nước. Ngoài ra, việc
nghiên cứu sử dụng côn trùng nước làm thức ăn cho ngành thủy sản cũng được
quan tâm đến. Nhiều doanh nghiệp dựa trên tập tính vũ hóa của một số nhóm côn
trùng nước tiêu biểu như bộ Phù du, đã tạo ra một số lượng lớn lưỡi câu bắt chước
hình dạng chúng phục vụ cho hoạt động thương mại và giải trí của con người trong
nhiều năm qua.
Sự đa dạng cùng với vai trò của côn trùng nước là rất lớn nhưng trong thực tế
nhiều loài còn chưa được biết đến, đặc biệt là những vùng nhiệt đới trên thế giới.
Việt Nam là một trong các nước nhiệt đới, những năm gần đây côn trùng nước cũng
đã được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn còn ít và tản
mạn, vì vậy đề tài: “Nghiên cứu đa dạng sinh học của côn trùng nước ở Khu
Bảo tồn nhiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa” được thực hiện nhằm những
mục tiêu chính sau đây:
- Xác định thành phần loài và mật độ côn trùng nước tại một số hệ thống suối
thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Pù Luông.

1



- Đánh giá mức độ đa dạng về loài côn trùng nước dựa vào một số chỉ số đa
dạng sinh học.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, kiến thức và kinh nghiệm của bản thân tác
giả còn rất hạn chế nên bản luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để tác giả có điều kiện rút
kinh nghiệm và hoàn thiện luận văn một cách tốt nhất.

2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu
từ rất sớm. Qua các công trình nghiên cứu đã công bố, cho đến nay đã xác định có 9
bộ chính thuộc côn trùng nước đó là các bộ: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn
(Odonata), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh lông (Trichoptera),
Cánh cứng (Coleoptera), Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy
(Lepidoptera).
Nhiều công trình nghiên cứu về phân loại và sinh thái của côn trùng nước đã
được công bố (Ross, 1944; Usinger, 1956; Edmondson, 1959; Klots, 1966) [43].
Từng bộ của các nhóm này được nghiên cứu và tổng hợp trong các tài liệu chuyên
khảo về phân loại học (Eaton, 1871, 1883-1888; Lepneva, 1970, 1971; Mc Cafferty,
1973, 1975; Kawai, 1961, 1963), sinh thái học (Corbet, 1999; Brittain, 1982) và tiến
hóa (Edmunds, 1972; Mc Cafferty, 1991, 1999) [24].
Các loài côn trùng nước rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường, nhiều
loài trong số chúng là những sinh vật quan trọng trong chỉ thị chất lượng môi
trường nước. Do đó, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về lĩnh vực ứng
dụng này như Kuehne (1962), Wilhm & Dorris (1968), Barnes & Minshall (1983),
Morse (1984) [50].

Sự đa dạng về hình thái và tầm quan trọng của côn trùng nước trong các hệ
sinh thái thủy vực mang lại nhiều khám phá thú vị trong mô tả và phân loại cho các
nhà côn trùng học đồng thời thúc đẩy phạm vi nghiên cứu ngày càng được mở rộng
đi sâu vào những cơ chế sinh thái học như biến động quần thể, các mối quan hệ
dinh dưỡng. Tiêu biểu như các công trình của Lindeman (1942), Cummins & Klug
(1979), Merritt & Cummins (1984), Resh & Rosenberg (1984), Cummins (1974,
1996) [47].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố
hàng loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: Mc Cafferty (1983),
Kawai (1985), Morse et al. (1994), Yang & Tian (1994), Merritt & Cummins

3


(1996), Mc Cafferty (1999)… Các nghiên cứu này đã đưa ra khóa định loại tới
giống, thậm chí tới loài côn trùng nước dựa vào hình thái con trưởng thành và ấu
trùng. Bên cạnh đó các tác giả còn đề cập đến một số ứng dụng của chúng trong
sinh thái học [47].


Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)

Phù du là một bộ côn trùng có cánh cổ sinh. Những hóa thạch cổ xưa được
tìm thấy ở kỷ Cacbon và kỷ Pecmia cách đây 250 triệu năm (Edmunds, 1982;
Dudgeon, 1999). Đến năm 2008, trên thế giới đã phát hiện được hơn 3000 loài
thuộc hơn 400 giống của 42 họ thuộc bộ Phù du [28]. Phù du là những côn trùng
phân bố rộng khắp trên thế giới, giai đoạn ấu trùng của chúng có mặt ở hầu hết các
thủy vực nước ngọt như: ao, sông, suối, đầm lầy đến những vùng nước nông của hồ
(Needham et al., 1935; Burk, 1953; Edmunds et al. , 1976) [54].
Thời kì đầu, Phù du chủ yếu được nghiên cứu bởi những nhà khoa học châu

Âu và châu Mỹ. Lineaus (1758) là người đầu tiên đặt nền móng cho các nghiên cứu
về Phù du khi mô tả 6 loài Phù du có mặt ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm
mà ông đặt tên là Ephemera [54].
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX hàng loạt các công trình nghiên
cứu được công bố của Eaton (1871, 1881, 1883 -1888, 1892) đã cung cấp những
kiến thức cơ bản về Phù du, đặc biệt là những đặc điểm dùng cho việc xây dựng
khóa định loại đến các họ và giống. Thế kỷ XX, đánh dấu cho một giai đoạn bùng
nổ các nghiên cứu về Phù du, điển hình là các công trình nghiên cứu của Ulmer
(1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927,
1930), Needham et al. (1935) [54].
Về hệ thống phân loại học, Edmunds (1962) là người đầu tiên xây dựng cây
phát sinh loài của Phù du và hệ thống phân loại đến họ. Do việc nghiên cứu về Phù
du phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nên hệ thống phân loại của ông ngày
càng bị hạn chế, bởi vậy Tshernova (1972), Mc Cafferty & Edmunds (1973), Mc
Cafferty (1991) [4], đã bổ sung những dẫn liệu mới và chỉnh lý khóa phân loại cho
phù hợp với thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Gần đây, Odgen & Whiting (2005) đã tổng

4


hợp những nghiên cứu về phân loại học của Mc Cafferty & Edmunds đồng thời đưa
ra giả thuyết mới về nguồn gốc phát sinh của Phù du dựa trên những nghiên cứu về
sinh học phân tử [61].
Ở châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du từ các nhà khoa học đến từ
châu Âu như Navás (1922, 1925), Lestage (1921, 1924) [54]. Khu hệ Phù du Trung
Quốc và Đông Nam Á được nghiên cứu bởi Ulmer (1935 - 1936, 1939), Uéno
(1931, 1969) và Hsu (1931- 1932, 1935- 1936, 1936 - 1937, 1937- 1938) [13]. Tại
Nhật Bản và Hàn Quốc, những báo cáo về Phù du chủ yếu quan tâm tới những vấn
đề sinh thái học của ấu trùng Phù du trong hệ sinh thái nước ngọt và các khóa phân
loại (Gose, 1979 - 1980, 1985; Uesno, 1980; Yoon và Bae, 1988; Yoon, 1995) [13].

Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ thống học Phù
du khá tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai
đoạn ấu trùng và trưởng thành. Ngoài các công trình nghiên cứu về đặc điểm phân
loại của Phù du, nhiều nhà khoa học còn quan tâm nghiên cứu đến các khía cạnh
khác nhau liên quan đến nhóm côn trùng nước này như: sinh thái học, địa động vật.
Điển hình là Neddham et al. (1935) [54], đã công bố các số liệu về vòng đời, quá
trình lột xác chuyển từ đời sống dưới nước lên cạn, tập tính dinh dưỡng, tập tính
sinh sản, biến động số lượng theo mùa... của nhiều loài Phù du. Gần đây, Brittain
(2008) đã cung cấp những nghiên cứu bước đầu về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
đối với sự phân bố và đa dạng của bộ Phù du [16].
Về mặt ứng dụng, một số công trình của Landa & Soldan (1991), Bufagni
(1997) đã đề cập đến việc sử dụng Phù du làm sinh vật chỉ thị môi trường nước. Vì
nhiều loài Phù du rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường [54]. Tương lai tới,
hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn đề sinh thái phục hồi và bảo tồn các loài
cũng như các nghiên cứu ứng dụng của Phù du vào thực tiễn.


Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)

Chuồn chuồn cũng là một trong những nhóm nguyên thủy và cổ xưa. Các
hóa thạch của chúng còn đến hiện nay được biết từ kỷ Trias. Hiện nay, người ta
phân biệt ra hai bộ phụ, Anisoptera (Chuồn chuồn ngô) và Zygoptera (Chuồn chuồn

5


kim). Hai loài còn sót lại thuộc giống Epiophlebia thuộc vùng Himalaya và Nhật
Bản, trước đây được xếp chung vào bộ phụ cổ Anisozygoptera, hiện nay được xếp
vào bộ phụ Anisoptera [24]. Trong những năm gần đây, Chuồn chuồn trở thành
mục tiêu của nỗ lực bảo tồn ở nhiều quốc gia như Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á.

Theo Silsby (2001) [48], bộ Chuồn chuồn gồm có 8 tổng họ, 29 họ, 600 giống và
5.700 loài đã được mô tả trên toàn thế giới. Chúng là những loài có kích thước cơ
thể lớn, giai đoạn thiếu trùng sống trong môi trường nước trong khi giai đoạn
trưởng thành sống hoàn toàn trên cạn.
Các nghiên cứu về Chuồn chuồn được bắt đầu từ khoảng cuối thế kỉ XIX,
nhưng sang thế kỉ XX Chuồn chuồn mới ngày càng nhận được chú ý nhiều hơn bởi
các nhà nghiên cứu phân loại học và sinh thái học. Ở giai đoạn đầu, các công trình
nghiên cứu về Chuồn chuồn chủ yếu tập trung mô tả hình dạng và đặc điểm ngoài
các loài Chuồn chuồn thu thập được ở châu Á và châu Âu nhằm xây dựng khóa
định loại. Điển hình cho các công trình nghiên cứu này là: Needham (1930), Fraser
(1933, 1934, 1936), Askew (1988), Zhao (1990), Hisore & Itoh (1993), Wilson
(1955) [1].
Lieftinck (1954) là tác giả có nhiều nghiên cứu về Chuồn chuồn tại khu vực
Đông Nam Á. Tại Đài Loan, Lieftinck et al. (1984) đã công bố danh sách các loài
Chuồn chuồn đầu tiên với tổng số 135 loài và phân loài. Cho tới năm 2005, danh
sách này đã được bổ sung lên tới 148 loài và phân loài được biết đến ở Đài Loan. Ở
Hàn Quốc, những nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn cũng được quan tâm từ rất lâu,
như các nghiên cứu của Okamoto (1924), Doi (1932, 1933, 1935, 1937, 1943),
Haku (1937), Kamijo (1933, 1937), Asahina (1939, 1989), Miyazaki (1986) và Eda
(1986) [83].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về sinh học, sinh thái học và tập tính sinh học của Corbet (1999), Silsby
(2001) [5]. Những nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành. Đối với
giai đoạn thiếu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định loại có kèm
theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á [1].

6





Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)

Cánh úp là một bộ nhỏ trong lớp côn trùng biến thái không hoàn toàn. Hiện
nay, có hơn 3.497 loài đã được mô tả trên thế giới [25]. Trong 30 năm qua, số lượng
loài Cánh úp đã tăng lên một cách đáng kể (Mc Cafferty, 1990 ước tính có 2100
loài) và nếu xu hướng này tiếp tục số lượng sẽ tăng lên gấp đôi trong tương lai
không xa.
Cánh úp là bộ có phân bố trên tất cả các châu lục, ngoại trừ Nam Cực và tạo
thành một thành phần quan trọng trong các hệ sinh thái nước chảy. Khu hệ Cánh úp
đa dạng nhất ở khu vực Bắc Mỹ 674 loài (Stark & Baumann, 2009) và khu vực châu
Âu 426 loài (Fochetti & Tierno de Figueroa, 2004). Khu hệ tại Úc 191 loài
(Michaelis & Yule, 1988), New Zealand 104 loài (McLellan, 2006), Trung Mỹ 95
loài, Nam Mỹ 378 loài (Heckman, 2003) và châu Phi 126 loài [25]. Khu vực Bắc
Mỹ và Châu Âu là hai khu vực đã được nghiên cứu nhiều hơn cả, trong khi đó
những dẫn liệu về Cánh úp ở Trung và Nam Mỹ còn rất nghèo nàn và chưa đủ để
đại diện cho mức độ đa dạng thật sự ở các khu vực này.
Ở châu Á, các công trình nghiên cứu về khu hệ Cánh úp đã được tiến hành
bởi một số nhà côn trùng học châu Âu và châu Á. Vào những năm 30 của thế kỷ
trước, Wu & Classen (1934, 1935, 1937, 1938) [43] đã đưa ra hệ thống các bậc
phân loại của bộ Cánh úp tại miền Nam Trung Quốc. Kawai (1961 - 1975) nghiên
cứu một số loài Cánh úp ở Đông Nam Á, Ấn Độ, Sri Lanka... [4]. Vào thập niên 80
của thế kỷ XX, Zwick (1980, 1983, 1985, 1988) cũng đưa ra những nghiên cứu về
khu hệ Cánh úp ở Đông Nam Á. Uchida et al. (1988, 1989) [4] mô tả một vài loài
thuộc Perlinae (Perlidae) ở Malaysia, Thái Lan và hai giống Cryptoperla,
Yoraperla thuộc họ Peltoperlidae ở Nhật Bản và Đài Loan. Stark (1979, 1987,
1983, 1991, 1999) [17] đã ghi nhận nhiều loài mới thuộc họ Peltoperlidae và
Perlidae ở các nước phương Đông.
Cho đến nay, khu vực Châu Á đã xác định được khoảng 1.527 loài. Trong
đó, có khoảng 784 loài từ khu vực Đông Nam Á (Sivec & Yang, 2001), Trung Quốc

dự tính khoảng 350 loài, Tây Á khoảng 114 loài, Trung Á khoảng 51 loài và một số

7


lượng nhỏ các loài ở một số nước [25]. Mặc dù, những nghiên cứu về khu vực châu
Á còn rất hạn chế nhưng một thực tế cho thấy độ đa dạng của bộ Cánh úp có thể lớn
hơn rất nhiều so với châu Âu và Bắc Mỹ.
Mới đây, Du (1998, 1999, 2000) đã công bố những tài liệu liên quan đến
Perlidae ở miền Nam Trung Quốc [17]. Sivec & Stark (2010) đã công bố 7 loài mới
của giống Phanoperla Banks (Perlidae) và 8 loài mới của giống Nemoura
(Nemoridae) ở khu vực Thái Lan và Việt Nam [67, 68]. Sivec & Stark (2011) bổ
sung thêm 5 loài mới của giống Neoperla Needham và 3 loài mới của giống
Phanoperla Banks tại Palawan và Mindanao bán đảo Philippine [71]. Stark et al.
(2012) đã miêu tả một loài mới và ghi nhận sự xuất hiện lần đầu tiên của một loài
thuộc giống Anacroneuria (Perlidae) từ Ecuador và Paraguay [74].
Tuy nhiên, đứng trước thực trạng ô nhiễm hiện nay ngày càng tăng và sự
thay đổi các khóa phân loại cao của bộ Cánh úp, một số lượng lớn Cánh úp đã bị
suy giảm thành các quần thể nhỏ bị cô lập, thậm chí nhiều loài trong số chúng đang
đi tới diệt vong. Có lẽ bộ Cánh úp là một trong các nhóm có nguy cơ tuyệt chủng
cao nhất trong lớp côn trùng (Fochetti & Tierno de Figueroa, 2004) [25].


Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)

Cánh lông là bộ côn trùng nước đa dạng nhất trong hệ sinh thái nước ngọt và
phân bố ở tất cả các vùng địa lý trên trái đất. Ấu trùng và nhộng của bộ này có thể
sống cả ở những suối nước lạnh và nóng (tới 34 0C), rất hiếm khi thấy có ở biển.
Theo Morse (2012), trên thế giới đã xác định được 14.548 loài, 616 giống và 49 họ
còn tồn tại. Ngoài ra, có 685 loài thuộc 125 giống và 12 họ đã hóa thạch của bộ

Cánh lông [30].
Ở Đông Nam Á, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm bởi Ulmer (1911,
1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932). Trong khi
các hướng nghiên cứu chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành thì Ulmer đã mở ra
hướng nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng vào những năm 1955 và 1957 [26].
Trong giai đoạn này, việc nghiên cứu về Cánh lông ở các nước Châu Á cũng bắt
đầu được chú trọng, Ulmer (1905 - 1951, 1955, 1957), Malicky (1955), Morse

8


(2009), Banks (1937) là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ Cánh lông Philippin. Đặc
biệt trong những năm gần đây, có hàng loạt các công trình nghiên cứu mới về Cánh
lông được công bố như tác giả Malicky (2007) đã liệt kê 327 loài và chứng minh sự
đa dạng của Cánh lông trên đảo Sumatra cao hơn so với các khu vực khác xung
quanh Indonesia [26]. Năm 2008, Johason & Oláh đã công bố 7 loài mới thuộc
giống Tinodes (Psychomyiidae) cho khu hệ Cánh lông Đông Nam Á và 1 loài mới
từ Hồng Kông [33].
Năm 2009, Sharma & Chandra đã cung cấp một danh sách gồm 1046 loài,
94 giống, 27 họ của khu hệ Cánh lông Ấn Độ. Các nghiên cứu cũng được quan tâm
ở một số quốc gia khác như Nhật Bản phải kể tới Iwata (1927), Tanida (1986,
1987), Ito & Ohkawa (2012); Trung Quốc (Martynov, 1930, 1931; Wang, 1963),
Thái Lan (Chantaramongkol & Malicky, 1989, 1991-1993, 1995, 1997; Radomsuk,
1999; Sangpradub et al., 1999; Malicky et al., 2001, 2002; Chaiyapa, 2001) [3]...
Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về định loại ấu trùng tới giống và loài nên các
nghiên cứu ở Đông Nam Á mới chỉ dừng lại ở giai đoạn trưởng thành. Các khóa
định loại của bộ Cánh lông ở Đông Dương (Lào, Campuchia và Việt Nam) dựa trên
những nghiên cứu của tác giả Wallace et al. (1990), Edington & Hildrew (1995) và
Wiggins (1996) [26].
Olash & Johanson (2010) đã công bố 19 loài mới thuộc họ Dipseudopsidae

cho khoa học từ các mẫu vật thu được tại Ấn Độ, Malaysia, Lào và Việt Nam [62].
Tại Nhật Bản, Ito & Ohakawa (2012) đã ghi nhận sự xuất hiện lần đầu của hai loài
Cánh lông thuộc giống Ugandatrichia (Hydroptilidae) kèm theo những miêu tả chi
tiết cho giai đoạn ấu trùng, nhộng và trưởng thành của các loài thuộc giống này tại
đây [29]. Trong giai đoạn hiện nay, hướng nghiên cứu đánh giá chất lượng nước
dựa trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn trùng này được nhiều nhà khoa học
quan tâm tìm hiểu.


Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)

Côn trùng nước bộ Cánh nửa là một bộ có phân bố toàn cầu, chỉ trừ Nam
Cực và chúng đa dạng nhất ở vùng nhiệt đới. Bao gồm 2 nhóm chính: Gerromorpha

9


(nhóm sống trên màng nước) và Nepomorpha (nhóm sống dưới nước). Ngoài ra còn
có một nhóm nữa là Leptopodomorpha, tuy không sống ở môi trường nước nhưng
kiếm ăn, bắt mồi ở gần bờ nước. Một số tác giả cũng tính nhóm này vào nhóm sống
ở nước [64].
Năm 2008, thế giới xác định được 4.810 loài, 343 giống và 23 họ thuộc bộ
Cánh nửa trong đó bao gồm 4.656 loài, 326 giống, 20 họ sống ở nước ngọt. Ngoài
ra, hơn 1.100 loài còn lại đã được mô tả rõ ràng [63]. Khu vực Đông và Nam Á có
số lượng loài chiếm ưu thế, đặc biệt có nhiều giống thậm chí là phân họ đặc hữu
[24]. Bộ Cánh nửa ở nước có thành phần loài đa dạng nhất tại khu vực Trung và
Nam Mỹ (trên 1289 loài), khu vực Đông và Nam Á (trên 1100), Á-Úc trên 654 loài,
Châu Mỹ trên 400 loài [63].
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu bộ Cánh nửa ở nước về hình
thái, sinh học, sinh thái, phân loại và chủng loại phát sinh như: Cheng & Fernando

(1969), Menke (1979), Andersen (1985), Schuh & Slater (1995), Hilsenwoff (1991)
[21, 61, 81].
Ở Châu Á, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa được bắt đầu bằng các
nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972, 1973) [50]. Bộ
Hemiptera cũng được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước như Trung Quốc, Thái
Lan, Malaysia, Singapore… Ở Trung Quốc, từ những năm 1920-1930, Hoffmann
đã công bố nhiều nghiên cứu phân loại, sinh học của Cánh nửa ở nước [50]. Ở Đông
Á và Đông Nam Á, Esaki (trong giai đoạn 1923-1930) đã miêu tả nhiều loài thuộc
bộ Cánh nửa ở khu vực này và các vùng lân cận, đưa thêm vào bậc phân loại cao
hơn mà ngày nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu. Lundblad (1933) đưa ra tổng quan
chung về bộ Cánh nửa ở nước, với danh lục những loài từ Ấn Độ đến New Guinea
và Nhật Bản [63]. Ở bán đảo Malaysia, Fernando & Cheng (1974) đã lập một danh
lục gồm 102 loài thuộc 12 họ. Sau đó, nhiều loài khác vẫn được miêu tả hoặc ghi
nhận. Hiện tại, bán đảo Malaysia và Singapore có 167 loài nước ngọt thuộc 64
giống, 18 họ được biết đến [2]. Bộ Cánh nửa ở Borneo bao gồm khoảng 80 loài đặc
hữu [81].

10


Cùng với việc nghiên cứu về phân loại học, nhiều nhà khoa học cũng quan
tâm đến việc nghiên cứu các lĩnh vực sinh thái học, địa lý sinh vật, chủng loại phát
sinh, tập tính hay sự thích nghi của Cánh nửa ở nước. Có thể kể đến công trình
nghiên cứu của Cobben (1968, 1978), Andersen (1982), Damgaard (2008). Cheng
(1965-1966; 1976) đã công bố một số bài báo về sinh thái và địa lý sinh vật của
giống Halobates. Địa lý sinh vật của bộ Cánh nửa ở khu vực quần đảo Mã Lai được
đề cập bởi Polhemus & Polhemus (1990). Bên cạnh đó những nghiên cứu về vai trò
của bộ Cánh nửa trong hệ sinh thái cũng được quan tâm bởi các nhà khoa học như
Keffer (2000), Spence & Andersen (2000), Sites (2000), Yang et al. (2004), Chen
et al. (2005)... [2]

Mới đây, Site & Vitheepradit (2011) [68] đã lập một khóa định loại cho 4
loài Heleocoris hiện có tại Thái Lan cùng những ghi chú về đặc điểm phân loại,
sinh thái, sinh cảnh trong đó mô tả một loài mới thuộc giống này. Tại Singapore,
Yang & Murphy (2011) [82] đã có một bài báo về côn trùng nước Heteroptera ở
Singapore và bán đảo Malaysia trong đó cung cấp một khóa phân loại của 3 giống
và 5 loài thuộc họ Mesoveliidae ở Đông Nam Á và một loài mới thuộc giống
Nereivelia được mô tả từ rừng ngập mặn Singapore. Zettel (2011) [84] công bố 7
loài mới của phân họ Gerromorpha từ Myanmar.
Gần đây nhất, Tran et al. (2012) đã điều chỉnh danh pháp khoa học của hai
loài Amemboa ripiaria Polhemus & Andersen, 1984 và Amemboa lyra (Paiva,
1918) [65]. Tran & Polhemus (2012) đã công bố một loạt các nghiên cứu về Cánh
nửa ở khu vực Đông Nam Á như mô tả 1 loài mới giống Ranatra (Nepidae) từ
Singapore và Indonesia [79].


Nghiên cứu về bộ Cánh cứng

Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới động vật. Năm 2008, có khoảng
18.000 loài là côn trùng nước, khoảng 12.600 (70%) trong số này đã được mô tả
[31]. Wu et al. đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định loại được
311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài và White
(1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh cứng [47].

11


Trong thế kỷ XX đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phân loại học,
sinh thái học và tiến hóa của bộ Cánh cứng như các nghiên cứu của Feng (1932,
1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969), Nertrand (1973), Crowson
(1981), Jach (1984). Ngoài ra phải kể tới những nghiên cứu về sinh thái và tập tính

dinh dưỡng được công bố bởi Piana (1970), Brown (1973), Crowson (1981), James
(1969), Tavares & Williams (1990) là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu sâu
hơn về đặc điểm của loài sau này [47]. Ở châu Á, Heinrich & Balke (1997), Gentuli
(1995), Jach & Ji (1995, 1998, 2003), Yoshitomi & Satô (2005), Short (2009) đã
cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học của bộ Cánh cứng ở nước [31,
32].
Những nghiên cứu mới đây có thể kể đến như Čiampor et al. (2012) đã
cung cấp những thông tin về các loài thuộc giống Dryopomorphus (Elmidae) ở
khu vực Malaysia [22]. Short & Jia (2012) đã bổ sung 2 loài mới của giống
Oocyclus là Oocyclus fikaceki Short & Jia và O. dinghu Short & Jia cho khu hệ
Cánh cứng Châu Á từ các mẫu vật thu được ở đông nam Trung Quốc [66]. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng ở nước thường ít được quan
tâm hơn các loài Cánh cứng trên cạn.


Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong những bộ côn trùng có số lượng loài lớn trong

giới côn trùng với khoảng 120.000 loài sống ở nước được biết đến trên thế giới
[43]. Đây là một bộ không chỉ đa dạng về thành phần loài mà chúng còn đa dạng về
các hình thái ngoài cơ thể cũng như các đặc tính sinh thái học.
Bộ Hai cánh được nghiên cứu rất kỹ, đặc biệt là các công trình nghiên cứu
của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich & Hortle (1989) [45]. Trong bộ này,
người ta đặc biệt quan tâm tới họ Culicidae từ rất sớm bởi những ảnh hưởng của
chúng khá lớn đến các hoạt động sống của con người. Họ này có khoảng 3.500 loài
và dưới loài thuộc 42 giống trên thế giới [41], có nhiều giống phân bố toàn cầu và là
các vecto truyền bệnh nguy hiểm cho người, động vật và cây trồng.

12



Ở châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975, 1977) đã tổng hợp một danh lục
khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở miền Ấn Độ - Mã Lai [43]. Khóa
phân loại về thành phần loài của ấu trùng bộ Hai cánh ở khu vực Đông Dương được
nghiên cứu bởi Dudgeon (1999) và Yule (2004) [51].


Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng thường được biết đến như một bộ khá nguyên thủy của côn

trùng biến thái hoàn toàn. Đây là một bộ nhỏ, số lượng loài không nhiều, chỉ
khoảng 328 loài đã được mô tả, gồm hai họ: Corydalidae (247 loài) và Sialidae (81
loài) [23]. Ấu trùng của bộ này sống trong nước trong khi giai đoạn nhộng, trưởng
thành sống trên cạn và đều là các loài ăn thịt (Riek, 1970) [45].
Về phân bố của bộ này, họ Corydalidae có phân bố rộng, tuy nhiên các báo
cáo cho thấy chúng không có mặt ở châu Âu, Trung Đông, Trung Á, vùng nhiệt đới
châu Phi và các vùng thuộc phương Bắc. Các loài thuộc họ Sialidae cũng được coi
là phân bố rộng, phổ biến ở các vùng ôn đới nhưng chúng bị giới hạn bởi độ cao nơi
sống (Kavan, 1979) [23].
Có rất nhiều tài liệu phân loại về bộ này của các tác giả khác nhau: Contreras &
Ramos (1998), Liu & Yang ( 2006). Penny et al. (1997) công bố một danh lục loài
thuộc bộ Cánh rộng, sau đó là Oswald (2006). Bên cạnh đó, Bowles (2006) cũng
cung cấp những nghiên cứu về sự phân bố của các loài trong bộ này [23].
Cho đến nay ở châu Á, bộ này chỉ phân bố nhiều ở vùng ôn đới thuộc Hàn
Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1938). Trong một thế kỷ qua,
thế giới đã chứng kiến sự tăng lên đáng kể của các loài mới thuộc bộ Cánh rộng,
đáng chú ý nhất là khu vực Trung Quốc và khu vực châu Úc. Số lượng loài ước tính
sẽ tăng lên trong thời gian tới có thể lên đến hơn 400 loài, bởi những khu vực nhiệt
đới và vùng Đông Nam Á đang tiếp tục được quan tâm nghiên cứu [23].



Nghiên cứu về bộ Cánh vảy (Lepidoptera)

Bộ Cánh vảy là một trong những bộ côn trùng lớn, với 100.000 loài đã được
xác định. Tuy nhiên, sống trong môi trường nước chỉ có một số loài thuộc các họ:
Pyralidae, Pyraustidae và Crambidae.

13


Giai đoạn trưởng thành của bộ này được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ
rất lâu và có nhiều công trình đã được công bố cùng với các khóa định loại chi tiết
đến bậc phân loại loài. Trong khi đó, pha ấu trùng của chúng chưa được quan tâm
nhiều, chỉ có một vài công trình nghiên cứu, tiêu biểu như các nghiên cứu của
Merritt & Cummins (1984), Morse, Yang & Tian (1994) đã đưa ra khóa phân loại
tới giống [45, 50].
Ở châu Á, những nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về phân loại học
trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis (1994) và
Munroe (1995) [45]. Trong những nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành lập
khóa định loại cụ thể tới loài.
1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
Một trong số các tác giả đầu tiên quan tâm đến khu hệ côn trùng nước ở Việt
Nam là Lestage (1921, 1924). Ông đã công bố 3 loài mới của bộ Phù du dựa vào
mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Paris. Navás (1922) đã mô tả 2 loài, Ephemera
longiventris và E. innotata [54]. Một số loài thuộc bộ Cánh úp được miêu tả bởi
Kawai (1968-1969), Zwick (1988) và Stark et al. (1999), nhưng tất cả các miêu tả
này chỉ dựa trên giai đoạn trưởng thành. Tác giả người Việt Nam đầu tiên có những
nghiên cứu tạo nền tảng cho lĩnh vực côn trùng nước là Đặng Ngọc Thanh (1967,
1980) [7].



Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)

Công trình nghiên cứu về bộ Phù du đầu tiên ở Việt Nam là của tác giả
Lestage (1921,1924). Ngay sau đó, Navás (1922) mô tả 2 loài Ephemera longiventris
Navas và Ephemera innotata Navas, căn cứ vào mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt
Nam [52]. Tác giả Việt Nam phải kể đến Đặng Ngọc Thanh (1980) với nghiên cứu
khu hệ Động vật không xương sống Bắc Việt Nam, cũng mô tả một loài mới thuộc
họ Heptageniidae [7]. Theo Đặng Ngọc Thanh (1980) đã xác định khu hệ Phù du ở
Việt Nam có 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Đồng thời ông cũng mô tả
hai loài mới cho khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis Dang và
Neoephemeropsis cuaraoensis Dang [7, 52]. Những nghiên cứu này đã cung cấp

14


những thông tin hữu ích góp phần mở ra một thời kì mới cho các công trình nghiên
cứu về Phù thời gian sau.
Những năm cuối thế kỷ XX, Tshernova (1972) mô tả giống Vietnamella dựa
vào loài chuẩn Vietnamella thani và công bố thêm 1 loài mới là Asiatella
(Ephemerellidae) với mẫu chuẩn là Asiatella fermorata. Braacsh và Soldan (1979,
1984, 1986, 1988, 1990) đã mô tả 10 loài mới thuộc họ Heptagenidae thu được từ
một số suối ở Việt Nam. Đặc biệt, Braacsh & Soldan (1988) đã phát hiện thêm 2
giống mới là Asionurus và Trichogeniella trong đó có 2 loài Asionurus primus và
Trichogeniella maxillaris, đến nay vẫn được xem là loài đặc hữu cho khu hệ Phù du
Việt Nam [54].
Sang thế kỷ XXI, việc nghiên cứu côn trùng bộ Phù du ở Việt Nam được đẩy
mạnh. Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi xây dựng khoá định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Kết quả của công trình này là cơ sở khoa học

cho các nghiên cứu phân loại về Phù du cũng như việc sử dụng đối tượng này là
sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nước ngọt ở Việt Nam. Nguyễn Văn Vịnh và
Yeon Jae Bae (2003, 2004, 2005, 2006, 2008) đã tiến hành nghiên cứu khu hệ Phù
du ở một số Vườn quốc gia của Việt Nam đồng thời công bố một số loài mới cho
khoa học [3]. Theo Nguyễn Văn Vịnh (2003), khu hệ Phù du Việt Nam gồm có 102
loài thuộc 50 giống và 14 họ [54].
Các công trình nghiên cứu mới đây đều tập trung vào khu hệ Phù du ở một
số Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn trong nước. Tiêu biểu như các nghiên cứu của
Nguyễn Văn Vịnh (2005), trong dẫn liệu bước đầu về Phù du ở Vườn quốc gia Ba
Vì, Hà Tây, đã xác định được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ, trong đó, có một loài
mới cho khoa học là Polyplocia orientalis [10].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2007), trong kết quả bước đầu điều tra thành
phần loài Phù du tại Vườn quốc gia Bi Doup - Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng, đã xác định
được 48 loài thuộc 30 giống và 7 họ [11].

15


Nguyễn Văn Vịnh (2008), trong nghiên cứu về thành phần loài của bộ Phù
du (Ephemeroptera) ở Vườn Quốc gia Bạch Mã, Thừa Thiên Huế, đã xác định được
56 loài thuộc 33 giống và 11 họ đồng thời các tác giả cũng nhận xét về sự phân bố
của bộ Phù du theo độ cao tại khu vực nghiên cứu [12].


Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)

Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm
đầu của thập niên 90 dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà khoa học người Pháp như
Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae, Aeshnidae

và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống mới là
Merogomphus [1, 5]. Tiếp đó, Asahina - thuộc bảo tàng Tự nhiên Tokyo (Nhật Bản)
cũng là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ Chuồn chuồn ở Việt Nam [1]. Năm 1996,
ông đã cho công bố 84 loài thuộc 12 họ Chuồn chuồn ở miền Nam Việt Nam. Trong
tài liệu này, tác giả đã công bố một loài mới: Chlogomphus vietnamensis Asahina,
thuộc họ Cordulegasteridae. Cho đến thời điểm hiện tại, Asahina là người có nhiều
công bố hơn cả về khu hệ Chuồn chuồn ở nước ta [5].
Các tác giả Việt Nam bao gồm Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi
xây dựng khóa định loại các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường
gặp ở Việt Nam đã xây dựng khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn. Nguyễn
Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước ở Vườn quốc
gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ Chuồn chuồn ở khu vực
này. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009) trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước Vườn
Quốc gia Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên Huế xác định được 15 loài thuộc 11 họ.
Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu trùng chuồn chuồn ở Việt
Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân loại đến bậc giống.


Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)

Về Cánh úp, chỉ có một số ít các công trình được tiến hành trước đây bởi các
nhà côn trùng học nước ngoài như Kawai (1968 - 1969), Zwick (1968), Stark et al.

16


(1999) [17]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ đưa ra các khóa phân loại dựa
trên dạng trưởng thành.
Năm 2001, Nguyen V. V et al. khi nghiên cứu về nhóm côn trùng nước ở
Vườn Quốc gia Tam Đảo đã ghi nhận sự có mặt của 12 loài Cánh úp thuộc 3 họ

[53]. Năm 2002, Cao Thị Kim Thu đã công bố dẫn liệu mô tả 50 loài thuộc 22
giống, 4 họ ở Việt Nam dựa trên những đặc điểm của cả hai giai đoạn trưởng thành
và thiếu trùng [17]. Năm 2007, Cao Thị Kim Thu công bố hai loài mới thuộc họ
Cánh úp lớn (Perlidae) cho khu hệ Cánh úp Việt Nam là Agnetina den Cao & Bae,
2007 và Chinoperla rhododendroma Cao & Bae, 2007 [19]. Năm 2008, cũng tác
giả này đã bổ sung 1 loài mới cho khoa học và 1 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu
hệ động vật Việt Nam từ những mẫu thu được từ Cao Bằng.
Cao Thị Kim Thu (2009) [8], khi nghiên cứu thành phần loài họ Perlidae
thuộc bộ Cánh úp ở khu vực miền Trung Việt Nam từ 2004 đến 2008, đã xác định
được 22 loài thuộc 10 giống, trong đó có 4 loài mới là Neoperla tamdao, Tyloperla
trui, Acroneuria bachma, Chinoperla rhododendrona và 4 loài lần đầu ghi nhận cho
khu hệ Việt Nam. Trong năm 2009, tác giả cũng mô tả thêm hai loài nữa thuộc
giống Acroneuria (Perlidae) và 1 loài thuộc giống Phanoperla [8].
Sivec & Stark (2010) đã công bố một số loài mới cho khu hệ Cánh úp Việt
Nam với 7 loài được mô tả từ Vườn Quốc gia Cát Tiên và Vườn Quốc gia Yok
Đon, 8 loài được mô tả ở hệ thống suối ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Stark & Sivec (2011)
đã phát hiện 2 mẫu vật thuộc giống Neoperla có kích thước khác thường so với
những loài đã thu được trước đó tại Cao Bằng vào năm 2011 [70, 67, 68].
Từ các mẫu vật thu thập được, tác giả Cao Thị Kim Thu (2011) đã tổng hợp
được danh lục gồm 70 loài Cánh úp lớn thuộc 13 giống ở Việt Nam. Do đó, hiện
nay đã có 48 loài mới cho khoa học được mô tả từ mẫu vật và có 55 loài mới chỉ
thấy ở Việt Nam mà chưa ghi nhận ở một nơi nào trên thế giới [9].
Gần đây nhất, Stark et al. (2012) đã ghi nhận 3 loài mới Rhopalopsole azun
(Gia Lai), R. minima (Nghệ An) và R. sapa (Lào Cai), đồng thời cũng cung cấp một
khóa phân loại tới loài của giống này tại Việt Nam [75].

17





Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)

Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học như: Đức (Ulmer, 1907),
Tây Ban Nha (Navás, 1913). Banks (1931) và Mosely (1934) [26] nghiên cứu về
Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987-1989) mô tả
các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [26]. Sau đó,
May (1995-1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả các loài thuộc
Hydropsychoidae,

Phiolopotamoidae,

Leptoceroidae,

Sericostomatoidae,

Limnephiloidae, Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacopphiloidae từ các
mẫu vật thu được ở một số vùng ở nước ta. Malicky & Mey (2001) [26], mô tả 2
loài mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter & Johanson
(2001), mô tả 3 loài thuộc giống Helicopsyche.
Tác giả Việt Nam đầu tiên đưa ra hệ thống khóa phân loại Cánh lông ở Việt
Nam là Hoàng Đức Huy (2005) [26] với 198 loài (14 loài mới cho Việt Nam và 25
loài mới được ghi nhận) thuộc 58 giống và 24 họ. Trong nghiên cứu này, tác giả đã
đưa ra những mô tả chi tiết đến các giống thuộc bộ Cánh lông ở Việt Nam.
Hoang D. H. & Bae J. Y. (2006) đã có nghiên cứu so sánh mức độ đa dạng
côn trùng nước giữa suối Đắk Pri ở miền Nam Việt Nam với suối ở miền Trung của
Hàn Quốc, kết quả cho thấy bộ Cánh lông ở nước ta đa dạng hơn nhiều về số lượng
loài và họ [27].
Năm 2009, trong nghiên cứu về đa dạng côn trùng nước ở các Vườn Quốc

gia một số tác giả có đề cập tới thành phần loài Cánh lông tại đó như Hoàng Đức
Huy và cộng sự nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bi Doup- Núi Bà tỉnh Lâm Đồng,
Nguyễn Văn Hiếu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Thị Minh
Huệ ở Vườn Quốc gia Bạch Mã tỉnh Thừa Thiên Huế [3, 4].


Nghiên cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Những nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở Việt Nam được biết đến đầu tiên là

vào khoảng đầu thế kỷ 20 và chủ yếu được tiến hành bởi các nhà khoa học nước
ngoài như Lansbury (1972, 1973), Nieser (2002, 2004), Polhemus & Polhemus

18


(1995, 1998) [2]… Những loài thuộc họ Gerridae đầu tiên được miêu tả từ Việt
Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903. Hai thập kỷ sau, China (1925) mô tả loài
Gigantometra gigas, là loài có kích thước lớn nhất thuộc họ Gerridae. Năm 1996,
Zettel & Chen đã có những dẫn liệu về họ Gerridae ở Việt Nam, ghi nhận tổng cộng
khoảng 40 loài. Hecher (1997) công bố 2 loài mới: Pseudovelia intonsa và P.
pusilla, hiện chỉ tìm thấy ở Việt Nam [2].
Các tác giả Việt Nam phải kể đến là Trần Anh Đức (2008) đã đưa ra khóa
định loại đến loài của họ Gerridae, ghi nhận 64 loài thuộc 26 giống [77]. Tiếp đó,
Tran et al. (2010) đã bổ sung thêm 3 loài cho Việt Nam: Hydrometra albolineata
Scott, 1874; H. jaczewskii Lundblad, 1933 và H. ripicola Andersen, 1992, đồng thời
cũng cập nhật dẫn liệu mới về phân bố của 9 loài Hydrometra ở Việt Nam [2].
Những nghiên cứu này đã bổ sung danh sách thành phần loài, mô tả các loài mới,
cũng như xây dựng các khóa định loại đến loài của các giống, góp phần làm cơ sở
cho những nghiên cứu tiếp theo về bộ Hemiptera ở nước của Việt Nam. Năm 2011,
tác giả đã cung cấp danh sách loài Cánh nửa thuộc khu vực đô thị Hà Nội bao gồm

23 loài, 12 giống, 9 họ [78]. Đây là một nghiên cứu đầu tiên cho khu hệ Cánh nửa
tại thủ đô Hà Nội. Mới đây nhất, Tran & Polhemus (2012) đã bổ sung một loài
Gerris mới từ miền Nam Việt Nam đồng thời ghi nhận sự xuất hiện lần đầu tiên của
hai loài G. latiabdominis và G. gracilicornis từ khu vực phía tây bắc của đất nước.
Trong đó cũng đưa ra một khóa phân loại chi tiết cho 4 loài Gerris có mặt ở Việt
Nam hiện nay [80].


Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, Hai cánh, Cánh vảy và Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai

cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản
mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng
với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn
Văn Vịnh (2001), Nguyễn Văn Hiếu (2009) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo;
Cao Thị Kim Thu, Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008), Nguyễn Thị Minh
Huệ (2009) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã...

19


1.3. Đa dạng sinh học ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông
Khu BTTN Pù Luông được thành lập theo Quyết định số 495/QĐ-UBND,
ngày 27 tháng 3 năm 1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa với diện tích
16.982 ha thuộc dãy núi đá vôi Pù Luông - Cúc Phương là khu vực núi thấp lớn duy
nhất còn lại về sinh cảnh đá vôi ở miền Bắc Việt Nam. Địa hình Khu bảo tồn chia
cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao trên 1000m (cao nhất là đỉnh Pù Luông 1.700m), địa
thế khu vực nghiêng dần từ Tây - Bắc sang Đông - Nam, độ dốc bình quân 300, khí
hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng khía hậu của vùng Tây Bắc và ảnh hưởng
sâu sắc của gió Lào, nhiệt độ trung bình năm 230C; lượng mưa bình quân năm 1.500

mm; khu vực đỉnh núi Pù Luông và khu vực Son, Bá, Mười có khí hậu rất lạnh với
nhiều sương mù.
Rừng nguyên sinh tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông là loại rừng kín
nhiệt đới thường xanh theo mùa. Năm loại kiểu phụ rừng chính tồn tại do kết quả
của sự đa dạng độ cao và các tầng chất nền: rừng lá rộng đất thấp trên núi đá vôi
(60-700 m), rừng lá rộng đất thấp trên các phiến thạch, sa thạch và đất sét (60
-1.000 m), rừng lá rộng chân núi đá vôi (700 - 950 m), rừng lá kim chân núi đá
vôi (700 - 850 m) và rừng lá rộng chân núi Bazan (1.000 - 1.650 m). Khu bảo tồn
cũng tồn tại các thảm rừng thứ sinh như rừng tre nứa, cây bụi và đất nông
nghiệp.
Khu bảo tồn có hệ động thực vật phong phú, đa dạng về số lượng và thành
phần loài. Về thực vật đã thống kê được 1109 loài thuộc 152 họ, 477 chi. Về động
vật hiện Khu BTTN Pù Luông có 602 loài động vật thuộc 130 họ, 31 bộ bao gồm
84 loài thú, 162 loài chim, 55 loài cá, 28 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 158 loài
bướm và 96 loài thân mềm chân bụng ở cạn (Gastropoda).
Khu BTTN Pù Luông có rất nhiều loài động thực vật quý hiếm có tên trong
Sách đỏ Việt Nam (2007) và Sách đỏ thế giới (IUCN, 2010) như Thông Pà
Cò (Pinus kwangtungensis), Thông đỏ bắc (Taxus chinensis), Báo gấm (Pardofelis

20


nebulosa), Beo lửa (Catopuma temminckii), Gấu ngựa (Ursus thibetanus), Voọc
mông trắng (Trachypithecus delacouri)…

1.4. Một số đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Khu BTTN Pù Luông
1.4.1. Vị trí địa lý
Khu BTTN Pù Luông nằm từ 20021’ đến 20034’ vĩ độ Bắc và từ 105002’ đến
105020 kinh độ Đông thuộc địa phận 2 huyện Quan Hóa và Bá Thước, phía Tây Bắc
tỉnh Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ Việt Nam. Khu BTTN bao gồm phía Tây của dãy

núi đá Pù Luông - Cúc Phương và phía Bắc tiếp giáp với các huyện Mai Châu, Tân
Lạc và Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Khu BTTN gồm các phần đất thuộc địa phận của 9 xã: Phú Lệ, Phú Xuân,
Thanh Xuân, Hồi Xuân, Phú Nghiêm thuộc huyện Quan Hóa và Thành Sơn, Thành
Lâm, Cổ Lũng, Lũng Cao thuộc huyện Bá Thước.
1.4.2. Địa hình
Khu BTTN Pù Luông gồm 2 khu quản lý chính: Các khu bảo vệ nghiêm ngặt
và các khu phục hồi sinh thái.
Khu bảo vệ nghiêm ngặt gồm hai dãy núi chạy song song theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam và được ngăn cách với nhau bởi một thung lũng có người dân sinh
sống và canh tác. Thung lũng này không thuộc vùng lõi nhưng được xác định là
vùng đệm của khu bảo tồn, nơi cũng có những sườn dốc thấp hơn của cả hai dãy núi
này. Vì vậy, các dãy núi chiếm phần lớn diện tích của hai vùng lõi. Diện tích của
vùng lõi phía Tây Nam là 4.598 ha và vùng lõi phía Đông Bắc là 8.772 ha.
Các khu phục hồi sinh thái rộng 4.342 ha và bao gồm 500 ha trong vùng lõi
về phía Đông Bắc trong các khu vực Son - Bá - Mười. Khu bảo tồn phía Nam giáp
với đường 15a nối các huyện Quan Hóa và Bá Thước và dẫn tới huyện Mai Châu
tỉnh Hòa Bình và phía Đông Nam thành phố Thanh Hóa.
1.4.3. Địa chất, đất đai

21


Địa hình Khu BTTN Pù Luông bị chia cắt mạnh, độ dốc ở phía sườn núi rất
lớn. Khu vực này có đặc điểm địa chất rất phức tạp và đa dạng, bao gồm nhiều loại
đá có nguồn gốc khác nhau. Địa chất và địa mạo của khu vực Pù Luông gần như chỉ
được hình thành từ đá cacbonat.
Phía Tây Nam vùng lõi, nơi nằm giữa dãy núi Pù Luông được hình thành bởi
đá macma và terrigeneous (chủ yếu là bazan). Ở các độ cao nhất, dãy núi hình thành
nên các vùng đá lộ thiên được xem là duy nhất ở Việt Nam về mặt địa chất học.

Liên khu bảo tồn có độ cao tù 60 - 1.650m so với mặt nước biển, điểm cao nhất là
núi Pù Luông. Đặc trưng của vùng đệm lân cận là các thung lũng phẳng có sông
phù sa và suối chảy qua, các đồi đá phiến, đá phiến sét và đá cát pha sét thấp và các
vùng đá vôi nằm biệt lập.
1.4.4. Khí hậu
Khu BTTN Pù Luông có khí hậu nhiệt đới gió mùa và có gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 12, gió mùa Đông - Nam từ tháng 3 đến tháng 10. Một
loại gió thổi từ hướng Tây nóng và khô được biết đến là gió Lào xuất hiện vào giữa
tháng 4 và 5.
Nhiệt độ trung bình hàng năm biến động trong khoảng từ 20 - 25 0C. Nhiệt độ
tối đa đạt xấp xỉ 370C - 390C, trong khi nhiệt độ tối thiểu trong khoảng từ 5 - 10 0C.
Nhiệt độ trên các vùng cao như khu vực Son - Bá - Mười có thể xuống tới điểm
đóng băng. Lượng mưa trung bình hàng năm tương đối thấp, từ 1.500 - 1.600 mm.
Lượng mưa tối đa ước đạt 2.540mm, tập trung từ tháng 7 đến tháng 9 (65 - 70%).
Mưa phùn tập trung vào mùa xuân (từ tháng 12 - tháng 2). Lượng mưa tối thiểu
khoảng 1.000mm.
1.4.5. Thủy văn
Đặc điểm chủ yếu của hệ thống nước Khu BTTN là trong thung lũng có 1
đường yên ngựa tại vùng biên chung giữa các xã Phú Lệ và Thành Sơn. Đặc điểm
này tạo ra đường phân nước giữa hai phụ lưu Pưng (chảy theo hướng Tây Bắc) và
Chàm (chảy theo hướng Đông Nam), trước khi hợp dòng vào sông Mã. Sông Mã
bao quanh vùng đệm Khu BTTN về phía Tây, phía Nam và Đông Nam.

22


Hệ thống nước của vùng lõi đá vôi rất phức tạp và không thể có mối quan hệ
trực tiếp nào giữa hệ thống nước trên bề mặt và dưới lòng đất. Tại Khu BTTN có
nhiều hệ thống hang động, ngoài ra còn nhiều hang động được nối với nhau bởi các
hệ thống sông ngầm.
1.4.6. Điều kiện kinh tế - xã hội

- Dân số và dân tộc: Khu BTTN Pù Luông nằm trong khu vực đông dân cư.
Phần lớn người dân địa phương ở đây là các dân tộc Thái, Mường. Người dân sống
thành từng thôn bản phân bố rải rác, không tập trung. Trong khi hầu hết người dân
sống ở vùng đệm, thì có một số người dân sinh sống trong vùng lõi (ở phân khu bảo
vệ nghiêm ngặt và phân khu phục hồi sinh thái).
- Các hoạt động kinh tế của người dân: Sản xuất nông nghiệp là nghề kinh tế
chủ yếu của người dân trong vùng chiếm đến 89,6% tổng số người lao động. Tuy
nhiên, tập đoàn cây trồng quá đơn điệu chỉ bao gồm lúa, sắn, ngô và một số loại cây
phi lương thực khác, năng suất thu được rất thấp. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi,
sản xuất lâm nghiệp cũng góp một phần trong các hoạt động kinh tế của người dân.

23


Chương 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian ngiên cứu
Thời gian thu mẫu được thực hiện từ ngày 21/03/2012 đến ngày 31/03/2012
tại 18 điểm thu mẫu thuộc Khu BTTN Pù Luông. Thời gian phân tích mẫu và xử lý
số liệu được thực hiện từ tháng 4 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012.
Toàn bộ mẫu vật thu ngoài thiên nhiên được bảo quản trong cồn 70% và lưu
trữ tại phòng thí nghiệm Đa dạng sinh học, bộ môn Động vật Không xương sống,
trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thu mẫu tại 18 điểm thuộc Khu BTTN Pù Luông, kí hiệu
từ Đ1 đến Đ18 (Hình 1, Phụ lục 1). Dựa vào đặc điểm sinh cảnh suối trong toàn khu
vực nghiên cứu, chúng tôi đã phân chia thành 3 khu vực chính là khu vực đầu
nguồn (Đ1 - Đ6), giữa nguồn (Đ7 - Đ12) và cuối nguồn (Đ13 - Đ18).



Đ1 (Suối Ngài)

- Tọa độ: 20o19’70’’ vĩ độ Bắc, 105o06’51’’ kinh độ Đông.
Độ cao so với mặt nước biển là 627m, suối có chiều rộng 2 - 7m, độ rộng
mặt nước 1 - 5m. Mẫu được thu tại vị trí chân thác nước, nơi tạo thành một vũng
nước nhỏ sâu khoảng 30 - 50cm. Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn cùng với cát, mùn
và nhiều lá mục. Hai bên bờ suối là núi đất cao khoảng 30 - 80m, có nhiều cây bụi
nhỏ và trung bình. Nước rất trong và sạch, không mùi.


Đ2 (Khe Suối Ngài)

- Tọa độ: 20o28’16” vĩ độ Bắc, 105o07’01’’ kinh độ Đông.
Độ cao so với mặt nước biển là 600m, suối có chiều rộng 3 - 5m, độ rộng
mặt nước 1- 2m. Suối cạn, nước chảy chậm, lòng suối nhỏ và nông. Nền đáy có đá

24


tảng lớn và trung bình chiếm ưu thế, ngoài ra có nhiều rêu và bèo tấm. Suối đôi chỗ
tạo thành những vũng nhỏ, nước đục. Hai bên bờ suối là đồi nương cao 50 - 80m.


Đ3 (Suối Ngài)

- Tọa độ: 20o28’13’’ vĩ độ Bắc, 105o07’19’’ kinh độ Đông
Độ cao so với mặt nước biển là 460m, suối có chiều rộng từ 5 - 7m, độ rộng
mặt nước 2 - 3. Nền đáy chủ yếu là đá tảng, nhiều mùn và lá khô mục. Nước suối
bẩn, chảy chậm và đục, tạo thành nhiều vũng nước nhỏ. Suối chảy qua vị trí đi lại
của người và gia súc. Hai bên suối phía trên là vách đá có nhiều cây bụi trung bình

và nhỏ.


Đ4 (Suối Báng)

- Tọa độ: 20o28’13’ vĩ độ Bắc, 105o07’32’’kinh độ Đông
Độ cao so với mặt nước biển là 405m, độ rộng suối từ 10 - 20m, độ rộng mặt
nước 1 - 2m. Nền đáy chủ yếu là đá nhỏ, bùn nhão, có rất nhiều mùn, rêu và lá khô.
Nước suối chảy chậm, đục và bẩn. Sinh cảnh hai bên ven bờ là ruộng bậc thang. Đây
là nơi đi lại của người và gia súc.


Đ5 (Suối Mỏ)

- Tọa độ: 20o28’18” vĩ độ Bắc, 105o08’04” kinh độ Đông
Độ cao so với mặt nước biển là 257m, suối có chiều rộng từ 7 - 10m, độ rộng
mặt nước từ 3 - 5m. Nước suối trong, có tốc độ dòng chảy khá mạnh và tạo thành
các vũng lớn (chủ yếu là cát và đất ở nền đáy). Nền đáy là đá tảng lớn chiếm ưu thế
xen lẫn đá nhỏ và sỏi, rất ít mùn thực vật và không có rác thải. Sinh cảnh hai bên
chủ yếu là tre nứa và cây bụi.


Đ6 (Thác Hiêu)

- Tọa độ: 20o 28’00’’ vĩ độ Bắc, 105o13’23” kinh độ Đông
Độ cao so với mặt nước biển là 172m, suối có chiều rộng 7- 15m, độ rộng
mặt nước 3 - 5m, độ sâu của nước từ 10 - 30cm. Nền đáy suối chủ yếu là đá tảng
lớn, ngoài ra còn có mùn, cát và nhiều lá rụng. Nước suối trong có tốc độ dòng chảy
trung bình. Suối tạo thành các vũng nước nhỏ. Sinh cảnh hai bên bờ là tre nứa và
cây bụi, gần khu dân cư.


25


×