Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế tác đá huyện hoa lư, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.71 MB, 93 trang )

Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu với thời gian 02 năm, dưới sự giúp đỡ
của các thầy cô giáo khoa Môi trường - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thầy
giáo hướng dẫn, bạn bè và đồng nghiệp tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ khoa học
với đề tài “Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường và
bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế tác đá huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình”.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Môi trường - Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên đã tận tình chỉ bảo, dạy dỗ, truyền đạt kiến thức làm nền
tảng cho tôi hoàn thành khoá học này.
Xin chân thành cảm ơn Viện Môi trường Nông nghiệp - Viện KHNNVN và
Tổng Công ty ĐTPT cao su Nghệ An - Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đã
tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian và công việc để tôi có thể tập trung nghiên cứu
hoàn thành luận văn đúng hạn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Vũ Thắng – phó bộ
môn Hoá Môi trường - Viện Môi trường Nông nghiệp - Viện KHNNVN đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn bác Nguyễn Quang Diệu (Trưởng ban quản lý làng
nghề) cùng với chính quyền địa phương, các chủ doanh nghiệp, công nhân viên…
làng nghề Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đã đóng góp những ý kiến quý
báu và giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được nghiên cứu, khảo sát, thu thập
tài liệu trong thời gian thực hiện luận văn.
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi còn nhận được nguồn động viên
to lớn của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 11 năm 2011
Học viên

Phạm Viết Duy

Luận văn Thạc sĩ Khoa học


1

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Làng nghề
Việt Nam mang tính truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế bền vững, mang đến nhu
cầu việc làm tại chỗ và các lợi ích thiết thực cho các cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên
mọi miền của đất nước (chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn Việt
Nam), đồng thời góp phần vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các sản phẩm của các ngành nghề truyền
thống ngày càng đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn trong việc nâng cao mức
sống người dân vùng nông thôn. Bên cạnh mặt tích cực và những đóng góp lớn cho
nền kinh tế - xã hội thì sự phát triển của hoạt động sản xuất làng nghề cũng mang lại
nhiều bất cập, đặc biệt về vấn đề môi trường, tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh
nghề nghiệp (BNN).
Kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại 52 làng nghề điển
hình trong cả nước cho thấy 46% số làng nghề được khảo sát có môi trường (không
khí, đất, nước hoặc cả ba dạng) ô nhiễm nặng. Chất lượng môi trường tại cơ sở sản
xuất và trong khu vực các làng nghề đang bị suy thoái trầm trọng. Tùy theo loại
hình sản xuất, môi trường ở các làng nghề bị ô nhiễm khác nhau. Ô nhiễm nguồn
nước diễn ra đặc biệt nghiêm trọng tại các làng nghề chế biến lương thực thực
phẩm, chăn nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm, tái chế giấy, sơn mài, dệt nhuộm. Ô
nhiễm môi trường đất diễn ra nghiêm trọng ở các làng nghề tái chế kim loại do phần
lớn chất thải rắn không được thu gom, xử lý mà xả thẳng vào môi trường. Ô nhiễm
không khí diễn ra nặng nề tại nhiều làng nghề gốm sứ vật liệu xây dựng và đặc biệt
là các làng nghề khai thác và chế tác đá [2].

Ô nhiễm môi trường làng nghề là nguyên nhân gây ra các bệnh, dịch cho
người dân đang lao động và sinh sống chính ở làng nghề. Một số kết quả điều tra
nghiên cứu đã cho thấy số người mắc bệnh chung tại các làng nghề cao gấp nhiều
lần so với những làng nghề thuần nông. Tuổi thọ trung bình của người dân tại các
làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn quốc.

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

2

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
Có khoảng 31% số người lao động tại các làng nghề bị mắc bệnh liên quan đến nghề nghiệp
[2].
Làm thế nào để bảo vệ sức khỏe cho người lao động và cộng đồng trong các
làng nghề là câu hỏi luôn được các cấp, các ngành đặt ra và quan tâm từ lâu. Cho
đến nay đã có nhiều chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu được triển khai và đã đề
xuất ra không ít giải pháp khoa học, công nghệ, y học để bảo vệ sức khỏe người lao
động trong nghành nghề nông thôn nói riêng và người lao động nói chung. Tuy
nhiên, TNLĐ và tỷ lệ BNN từ ngành nghề nông thôn vẫn đang gia tăng nhanh
chóng, điều này phản ánh việc áp dụng các giải pháp đã được nghiên cứu vào thực
tế vẫn còn hạn chế, đem lại hiệu quả chưa cao. Công tác giảm ô nhiễm môi trường
lao động, ngăn chặn TNLĐ và BNN, chăm sóc sức khoẻ người lao động dường như
thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền địa phương, người tổ chức sản xuất,
người lao động và giữa các Bộ, ban, ngành [3], [5].
Ninh Vân là một xã nằm ở phía Tây Nam huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ lâu
đã được biết tới với nghề làm đá mỹ nghệ với những sản phẩm nổi tiếng xuất hiện ở
khắp nơi và phục vụ khắp mọi miền đất nước như: Nhà thờ đá Phát Diệm, lăng thánh

mẫu Liễu Hạnh - Nam Định, tượng đài Nghĩa trang Trường Sơn, tượng đài TNXP
chống Mỹ cứu nước ở Quảng Trị, 500 pho tượng La Hán trong chùa Bái Đính, Ninh
Bình… [6], [11].
Với các sản phẩm đá phong phú và đa dạng (như chậu cảnh, bể cảnh, tượng nghệ
thuật, tượng tôn giáo, các bức phù điêu cột đá, cổng đá, văn bia, lăng mộ tôn tạo di tích
lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh, đình chùa, miếu phủ…) Nghề đá đã mang lại cho
Ninh Vân một diện mạo mới nhưng phía sau sự giàu có ấy là tình trạng ô nhiễm môi
trường đã đến hồi báo động.
Bên cạnh đóng góp vào sự phát triển về kinh tế, sự phát triển nhanh của làng
nghề chế tác đá mỹ nghệ cũng kéo theo suy giảm sức khỏe người dân. Thời gian
gần đây, số ca mắc viêm phổi, viêm phế quản và các bệnh ngoài da tăng đột biến.
Nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời, làng nghề cứ phát triển tự phát như hiện

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

3

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
nay thì chẳng mấy chốc, làng nghề chế tác đá sẽ biến thành trung tâm ô nhiễm của
tỉnh Ninh Bình.
Đã có rất nhiều kết quả nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm môi trường đối với
nghề đá như: Đưa vào các dây chuyền sản xuất với các máy móc, thiết bị hiện đại;
các mô hình xử lý ô nhiễm bằng công nghệ cao; Xây dựng hệ thống nhà xưởng kiên
cố, hiện đại…Song chúng đòi hỏi chi phí đầu tư lớn không phù hợp với khả năng
đầu tư của người dân ở làng nghề. Mặt khác hạn chế về kiến thức, thông tin cũng là
một trong những trở ngại lớn đối với người dân làng nghề trong việc bảo vệ môi
trường và sức khỏe của bản thân. Chính vì thế ở làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân

vẫn còn tồn tại những vấn đề về ô nhiễm môi trường, TNLĐ và BNN.
Để cải thiện môi trường lao động, phòng ngừa bệnh nghề nghiệp cho người
lao động đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Tôi triển khai thực hiện đề tài “Nghiên
cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiểm môi trường và bệnh nghề nghiệp
ở các làng chế tác đá huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình”.
2. MỤC TIÊU CỦA LUẬN VĂN
- Đề xuất được giải pháp có hiệu quả và khả thi để cải thiện môi trường lao
động và sức khỏe người dân ở các làng nghề chế tác đá huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
- Xây dựng được mô hình điểm và đề xuất phương án tổ chức áp dụng các giải
pháp cải thiện môi trường lao động và BNN cho người lao động trong làng nghề chế
tác đá ở Hoa Lư-Ninh Bình nói riêng cũng như các làng nghề chế tác đá ở Việt Nam
nói chung.
3. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Cấu trúc luận văn gồm những phần chính như sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chương 2: Phạm vi, đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

4

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Khai thác và chế tác đá
Việc khai thác và chế tác đá đã được biết đến từ thời xa xưa. Vào khoảng 3
triệu năm trước, thời kỳ đồ đá bắt đầu, là một thời gian tiền sử dài trong đó con
người sử dụng đá để chế tạo nhiều đồ vật từ nhiều kiểu đá khác nhau. Ví dụ, đá lửa
và đá phiến silic được mài sắc (hay được đẽo) để làm công cụ cắt gọt và vũ khí,
trong khi đá basalt và đá sa thạch được dùng làm công cụ.
Về sau con người ngày càng cải tiến và sử dụng kỹ thuật một cách rộng rãi
để đẽo đá từ nguyên liệu thô tạo ra các đồ vật bằng đá với cách thức chế tác khác
nhau, với sức sáng tạo ngày càng đa dạng, phong phú. Kỹ thuật được sử dụng có thể
là phun hay thổi các chất màu lên đá. Việc này được thực hiện bởi những nghệ nhân
chế tác ra những sản phẩm nổi tiếng trên khắp thế giới: từ những công cụ đơn giản
cho đến hình khắc trên đá và tranh vẽ trên đá có thể được tìm thấy trên bất kỳ loại
đá nào và có thể được phát hiện ở nhiều nơi trên trái đất, gồm cả châu Á
(Bhimbetka, Ấn Độ, Trung Quốc,…), Bắc Mỹ (Thung lũng chết ở công viên quốc
gia), Bắc Mỹ (Cumbe Mayo, Peru,…), và châu Âu (Finnmark, Na Uy),…[18], [20]
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, nghề khai thác và
chế tác đá đã tiếp cận với nhiều thiết bị hiện đại, tuy nhiên kèm theo đó là sự gia
tăng của ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí và tiếng
ồn, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và cộng đồng. Đến nay, trên thế
giới đã có những nghiên cứu và áp dụng nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, an toàn lao động và sức khoẻ nghề nghiệp.
1.1.2. Vấn đề ô nhiễm không khí và tiếng ồn
Gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố kết quả khảo sát về mức
độ ô nhiễm không khí trên toàn thế giới.
Để đánh giá mức độ ô nhiễm của bầu không khí, các nhà khảo sát dựa vào
hàm lượng bụi có trong không khí, gọi tắt là PM10, có nghĩa là loại bụi có kích
thước nhỏ hơn 10 micromet. Đối tượng điều tra là hơn 1.100 thành phố của nhiều


Luận văn Thạc sĩ Khoa học

5

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
nước trên toàn cầu. Cũng theo WHO, nếu hàm lượng bụi này vượt quá 20
microgram/m3, sức khỏe con người sẽ bị ảnh hưởng, cụ thể là gây nên các bệnh về
đường hô hấp như ung thu phổi, nhiễm trùng đường hô hấp…
Ô nhiễm không khí tập trung chủ yếu ở các khu công nghiệp, nơi công cộng
có mật độ phương tiện giao thông cao ở các thành phố lớn như các thành phố ở Ấn
Độ, Pakistan, Iran. Chẳng hạn, thành phố Lahore (Pakistan) có hàm lượng bụi
trong không khí là 200 microgram/m3. Đây là thành phố lớn thứ 2 ở Pakistan và là
trung tâm kinh tế của nước này; thành phố Kanpur (Ấn Độ) có hàm lượng bụi trong
không khí là 209 microgram/m3. Thành phố này tập trung khoảng 5 triệu dân, khói
bụi từ các nhà máy cộng với số dân đông chính là những nguyên nhân góp phần làm
ô nhiễm môi trường nơi đây; thành phố Yasouj (Iran) có hàm lượng bụi là 215
microgram/m3, là nơi tập trung nhiều nhà máy sản xuất đường, điện, than,lọc dầu,
… là những tác nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường ở thành phố này [20].
Ô nhiễm tiếng ồn được xem là một trong những mối nguy hiểm lớn đối với
sức khoẻ của con người, nguy hiểm không khác gì các hiện tượng ô nhiễm khác.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì trong vòng 3 thập kỉ trở lại đây
nạn ô nhiễm tiếng ồn đang trở nên bức xúc, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và
chất lượng sống của con người, nhất là ở các quốc gia đang phát triển [23].
Báo cáo mới đây của Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA) cho biết hơn 41
triệu người tại những thành phố có từ 250.000 dân trở lên ở 19 nước châu Âu đang
phải chịu tiếng ồn ở mức từ 55 dB trở lên. Đây là ngưỡng mà Tổ chức Y tế Thế giới
cho rằng có thể gây ra những tác động về sức khỏe như ảnh hưởng đến giấc ngủ,

tim mạch, sức khỏe tinh thần và việc học hành.
Theo số liệu thống kê mới nhất của WHO thì tại châu Âu, 40% dân số khu
vực này đang bị phơi ra môi trường ô nhiễm tiếng ồn. Mức ồn hiện đã vượt trên 55
decibels (dBA), 25% dân số hàng ngày nghe tiếng ồn trên 65 dBA, có tới 30% dân
số châu Âu phải ngủ trong môi trường có tiếng ồn vượt trên 55 dBA, đây là mức ồn
có thể làm gián đoạn giấc ngủ. Theo Cơ quan an toàn giao thông và Môi trường của

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

6

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
Liên Minh châu âu thì có từ 44% dân số châu âu (khoảng 200 triệu người) phải
sống chung với tiếng ồn có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ [19].
Bộ Môi trường Mỹ (EPA) cảnh báo để hạn chế bệnh điếc, mọi người không
nên tiếp xúc với môi trường có độ ồn lớn hơn 70 dBA trong khoảng thời gian 24 giờ
liên tục. Ngoài ra, nếu làm việc liên tục trong môi trường có độ ồn trên 55 dBA
(ngoài trời) và 45 dBA (trong nhà) trong thời gian dài liên tục cũng sẽ gây ảnh
hưởng đến sức nghe.
Bộ Môi trường Đức (GFEA) gần đây đã hoàn thành nhiều nghiên cứu và
phát hiện thấy mối nguy hại của tiếng ồn đối với sức khoẻ, như giảm thính lực, làm
tăng stress, tăng huyết áp... Cũng theo GFEA, tiếng ồn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Một
trong những hiện tượng thường thấy là ù tai và dần dẫn đến mất sức nghe và quá lâu
nên đã bị điếc, sức khoẻ của họ bị ảnh hưởng rất nhiều, những bệnh viện đặt gần
nơi phát ra tiếng ồn thì mức độ gây nguy hiểm cũng không lường hết. Theo quy
định của WHO, mức ồn đối với các bệnh viện không được vượt quá 30 dBA (ban
ngày) và 40 dBA (ban đêm). Nhưng trong thực tế một số bệnh viện đã vượt quá

mức quy định này. Ví dụ tại Anh có tới 5 bệnh viện phải chịu mức tiếng ồn trên 80
dBA, tại ấn Độ mức độ tiếng ồn đối với các bệnh viện ở Madurai là 72 dBA (cao
nhất) và 57 dBA (trung bình).
Để hạn chế mức độ ô nhiễm không khí và tiếng ồn nhiều nước trên thế giới
hiện đang áp dụng nhiều phương pháp mới [22]. Tại châu Âu, người ta đã đưa ra
nhiều đạo luật mang tính bắt buộc áp dụng cho các cơ sở sản xuất, phải trang bị đầy
đủ phương tiện phòng hộ, khám bệnh định kỳ cho người lao động để can thiệp sớm
những loại bệnh nghề nghiệp do tiếp xúc với ô nhiễm không khí và tiếng ồn lâu
ngày gây ra.
1.1.3. Kinh nghiệm quản lý về an toàn lao động và an toàn sức khoẻ nghề
nghiệp
1.1.3.1. Kinh nghiệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
Một trong các ví dụ điển hình của ILO về quản lý an toàn lao động được
thực hiện tại một số quốc gia châu Á và khu vực Thái Bình Dương là chương trình

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

7

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
cải thiện điều kiện làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (WISE – Working
Improvement in Small and Medium Enterprises). Chương trình WISE được bắt đầu
thực hiện tại Philippines từ năm 1994 đã đề xuất 6 nguyên tắc cơ bản sau đây để tạo
thuận lợi cho việc tham gia vào các hoạt động quản lý an toàn lao động:
(1) Xây dựng chương trình thực hành tại mỗi cơ sở;
(2) Tập trung vào các kết quả đã đạt được;
(3) Kết hợp điều kiện làm việc với các mục tiêu quản lý khác;

(4) Sử dụng phương châm vừa học vừa làm;
(5) Trao đổi kinh nghiệm;
(6) Tăng cường giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động.
Năm 2001, các nước thành viên của ILO đã thông qua “Hướng dẫn về hệ
thống quản lý an toàn lao động” (ILO-OSH 2001). Hướng dẫn này được coi như
một công cụ đẩy mạnh việc hỗ trợ có định hướng hoạt động cả về chính sách và
mức độ an toàn lao động tại nơi làm việc. ILO-OSH 2001 bao gồm 5 yếu tố cấu
thành chính: (1) chính sách, (2) tổ chức, (3) kế hoạch và thực hiện, (4) đánh giá, và
(5) hoạt động cải thiện. Nhiều hội thảo và hội nghị chuyên đề về ILO-OSH 2001 đã
được tổ chức tại Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Việt Nam nhằm áp dụng ILOOSH 2001 vào bối cảnh thực tế của từng quốc gia [16].
1.1.3.2. Hệ thống quản lý an toàn lao động ở Thái Lan
Phần lớn các cơ sở sản xuất tại Thái Lan có quy mô vừa và nhỏ. Số doanh
nghiệp có ít hơn 100 lao động xấp xỉ 300.000, chiếm 97% tổng số các cơ sở sản
xuất trong toàn quốc, sử dụng khoảng 48% số người lao động.
Tại Thái Lan, môi trường lao động tồi, điều kiện làm việc không an toàn
cộng với hành vi không an toàn của người lao động dẫn đến tỷ lệ tai nạn lao động
cao. Thống kê chính thức cho thấy khoảng 80% trường hợp tai nạn và bệnh nghề
nghiệp gây ra bởi hành vi không an toàn của công nhân, 18% gây ra bởi điều kiện
làm việc không an toàn, phần còn lại do lỗi của các phương tiện khác. Người lao
động không nhận thức được tầm quan trọng của sự tự chăm sóc sức khoẻ cho bản

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

8

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
thân. Họ thường không chịu mang phương tiện bảo vệ cá nhân như: mũ, giày, ủng,

gang tay an toàn v.v...[1], [16].
Các cơ quan quản lý an toàn lao động của Thái Lan đã tổng kết 5 loại nguyên
nhân chính ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động có liên quan tới hành vi không
an toàn của người lao động và môi trường lao động tồi tệ như sau:
1. Không có chương trình kiểm tra liên tục về kiểm soát môi trường và kiểm
tra sức khoẻ tại những nơi làm việc có các yếu tố có hại;
2. Thiếu các dịch vụ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các cơ
quan chính phủ trong việc kiểm soát môi trường lao động và tiến hành kiểm tra y tế
cho người lao động;
3. Thiếu thông tin hoặc các ấn phẩm về quản lý an toàn lao động theo đặc thù
từng ngành nghề lao động;
4. Thiếu các nghiên cứu theo hướng phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, cũng như các nghiên cứu cải thiện môi trường lao động gắn với sức
khoẻ con người;
5. Sự kém hiểu biết của người lao động về vấn đề an toàn lao động do thiếu
kiến thức phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Năm 1976, Thái Lan ban hành tiêu chuẩn an toàn trong xây dựng là bước
đầu tiên cho sự ban hành các luật lệ an toàn lao động khác. Năm 1998, đạo luật mới
về bảo hộ lao động được ban hành khi Thái Lan bước vào thời kỳ kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội quốc gia lần thứ 8 (1997-2001). Theo đạo luật này, Uỷ ban quốc
gia chịu trách nhiệm về quản lý an toàn lao động trong toàn quốc được thành lập.
Có nhiều tổ chức của chính phủ có trách nhiệm quản lý an toàn lao động,
trong đó các cơ quan quan trọng nhất nằm trong Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội,
Bộ Y tế và Bộ Công nghiệp. Năm 1998, Vụ Bảo hộ lao động và Phúc lợi xã hội
(DLPW) thuộc Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã đưa vào sử dụng hệ thống quản
lý an toàn lao động đã được xây dựng và hoàn thiện để áp dụng ở các địa điểm làm
việc khác nhau. Bên cạnh đó, nhiều quy phạm đã được các Bộ ban hành, tuy nhiên,
các quy phạm này không bao trùm tất cả các ngành nghề, đặc biệt là không chú

Luận văn Thạc sĩ Khoa học


9

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
trọng tới lao động nông nghiệp. May mắn thay, nông nghiệp không phải là một trong
các ngành nghề có nhiều tai nạn lao động nhất tại Thái Lan.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia Thái Lan lần thứ 9 (20022006), luật về an toàn, vệ sinh lao động và môi trường được công bố. Bảo hộ lao
động được mở rộng, bao trùm toàn bộ các ngành nghề và các quy định về an toàn
lao động được cải tiến cho phù hợp với sự thay đổi công nghệ và sự phát triển của
nền kinh tế [10], [16].
1.1.3.3. Hệ thống quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp ở Đài Loan
Đài Loan áp dụng và hoàn thiện dần dần hệ thống đánh giá an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp (OHSAS 18001) từ nhiều năm nay. Hệ thống này mang lại lợi ích
chủ yếu cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp như cải thiện
hình ảnh của doanh nghiệp, giảm chi phí bảo hiểm, đạt được hiệu quả trong việc
kiểm soát rủi ro và cơ chế cải thiện điều kiện làm việc được thực hiện một cách
thường xuyên [16], [24].
Hiệu quả tích cực của OHSAS 18001 là giúp các doanh nghiệp phân tích và
đánh giá điểm chính của mối nguy hại và thiết lập cơ cấu phòng ngừa trong quá
trình làm việc. Điểm mấu chốt của cơ cấu phòng ngừa thành công hay không phụ
thuộc vào việc liệu các doanh nghiệp có thể hợp nhất một cách hiệu quả các vấn đề
an toàn và sức khoẻ, chính sách kinh doanh và việc quản lý quá trình hoạt động.
Nếu cơ cấu phòng ngừa đạt hiệu quả tốt, nó không chỉ giảm chi phí bảo hiểm và tai
nạn mà còn giảm nguy cơ gây tai nạn.
Xem xét tình trạng ban đầu về an toàn và sức khỏe là sự chuẩn bị nắm được
thực trạng của vấn đề an toàn và sức khỏe trong doanh nghiệp và việc thu thập
thông tin liên quan khi doanh nghiệp dự định thành lập hệ thống quản lý an toàn và

sức khỏe. Bên cạnh đó, xem xét lại tình trạng ban đầu cũng có ích như là sự giới
thiệu tiếp theo của việc thiết lập OHSAS 18001 và là cơ sở cho việc chuẩn bị sự
thay đổi tác động của an toàn và sức khỏe. Về cơ bản mục đích và nội dung của việc
xem xét lại tình trạng ban đầu của OHSAS 18001 tương tự của ISO 14001. Nó bao
gồm 5 mục đích: kiểm tra tiểu sử của doanh nghiệp, hiện trạng đầu tư, nghiên cứu

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

10

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
hệ thống quản lý đang thực hiện, phát hiện và đánh giá rủi ro, thực hiện yêu cầu luật
pháp. Trong đó việc phát hiện rủi ro cần nhiều nhân lực tham gia. Phương pháp phổ
biến nhất để phát hiện rủi ro đối với một cơ sở sản xuất là phân tích an toàn trong
công việc, phân tích kết quả và phương thức của việc hỏng hóc, nghiên cứu mối
nguy hiểm và khả năng có thể xảy ra rủi ro.
Tuy vậy, kết quả kiểm tra việc thực hiện hệ thống an toàn lao động ở các nhà
máy thuộc khối công nghiệp của Đài Loan cho thấy tỷ lệ thực hiện hệ thống này ở
các cơ sở vẫn còn thấp.
1.1.3.4. Dự án CLEAN-3D ở Hàn Quốc
Từ tháng 11 năm 2001, Cục An toàn Vệ sinh Lao động Hàn Quốc đã phối
hợp với Bộ Lao động để thực hiện Dự án CLEAN-3D cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhằm giúp họ tạo lập nơi làm việc an toàn thoải mái bằng việc loại bỏ những
yếu tố nguy hiểm và độc hại [16], [17], [21]. (3D là viết tắt của các từ Nguy hiểm –
Danger, Bẩn thỉu – Dirtiness, và Khó khăn – Difficulty). Dự án này nhằm mục tiêu
loại bỏ các vấn đề liên quan đến nguy hiểm, bẩn gây ô nhiễm, và khó khăn trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo lập sự an toàn và thoải mái khi làm việc. Sơ đồ

sau có thể minh hoạ cho chương trình hành động và mục tiêu của dự án:
Nguy hiểm: Yếu tố nguy hiểm có thể gây tai nạn lao động
⇒ Loại trừ nguy hiểm
Bẩn gây ô nhiễm: Các yếu tố nguy hiểm và độc hại có thể gây bệnh nghề nghiệp
⇒ Cải thiện môi trường làm việc
Khó khăn: Công việc đôi lúc đòi hỏi lao động thể lực nặng nhọc
⇒ Cải tiến quá trình làm việc
Dự án CLEAN-3D được thực hiện qua những giai đoạn sau:
-

Tạo dựng nơi làm việc sạch sẽ;

-

Trợ giúp kỹ thuật an toàn lao động;

-

Trợ giúp công tác tự kiểm tra;

-

Trợ giúp các bên hợp đồng phụ của các doanh nghiệp lớn trong công tác
quản lý an toàn lao động;

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

11

Phạm Viết Duy



Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
-

Trợ giúp việc hướng dẫn chăm lo sức khoẻ.

1. Tạo dựng nơi làm việc sạch sẽ: Đói tượng chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đang giải quyết vấn đề liên quan đến công tác an toàn lao động hoặc
môi trường làm việc yếu kém;
2. Trợ giúp kỹ thuật an toàn lao động: Đói tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã để xảy ra tai nạn lao động trong vòng hai năm qua hoặc doanh nghiệp trong
ngành mà lao động thường xuyên phải tiếp xúc với các chất hóa học nguy hiểm và
độc hại. Nhóm công tác trợ giúp kỹ thuật có trách nhiệm giúp đỡ doanh nghiệp xoá
bỏ các yếu tố 3D và cải thiện môi trường làm việc nghèo nàn thông qua việc đi
thăm cơ sở sản xuất ít nhất 4 lần một năm;
3. Trợ giúp công tác tự kiểm tra: Các cơ quan chức năng thông qua các loại
thiết bị cần thiết nhất định kiểm tra công tác an toàn lao động tại các cơ sở sau đó
hướng dẫn các cơ sở tự sử dụng các loại thiết bị này để thường xuyên kiểm tra cong
tác an toàn lao động trong bản thân doanh nghiệp;
4. Trợ giúp các bên hợp đồng phụ có đối tượng là các doanh nghiệp lớn ký
hợp đồng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
5. Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe áp dụng cho các doanh nghiệp loại nhỏ có
quy mô sử dụng thường xuyên dưới 10 lao động hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã phát hiện hoặc nghi ngờ có bệnh nghề nghiệp.
Thành công của Dự án CLEAN-3D tại Hàn Quốc là tăng số lượng việc làm
đồng thời giảm tai nạn lao động tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, dự
án góp phần tạo nên môi trường trong sạch, an toàn và thuận tiện cho mọi người và
mọi lao động tại nơi làm việc.
1.2. TỔNG QUAN LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm và lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam
Khái niệm về làng nghề Việt Nam:
Làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để chỉ các cộng đồng cư dân,
chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn Việt Nam, có chung truyền
thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại. Làng nghề thường mang

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

12

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
tính truyền thống đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có tính chất kinh tế mà còn mang
màu sắc văn hóa, đặc điểm du lịch tại Việt Nam [9].
Theo tiêu chí “Làng nghề nông thôn Việt Nam” thì làng làm nghề truyền
thống được công nhận là làng nghề khi có trên 30% tổng số dân tham gia sản xuất
các sản phẩm phi nông nghiệp và tổng doanh thu do hoạt động sản xuất chiếm trên
50% tổng doanh thu của cả làng [2].
Lịch sử phát triển các làng nghề Việt Nam:
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Đa số các
làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, song song với quá trình phát
triển KT-XH, văn hóa và nông nghiệp của đất nước. Ví dụ như làng đúc đồng Đại
Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có
gần 500 năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm – Thái Bình hay nghề điêu khắc
đá mỹ nghệ ở Ninh Vân – Hoa Lư – Ninh Bình cũng đã hình thành cách đây hơn
400 năm,... Kỹ thuật, công nghệ, quy trình sản xuất cơ bản để làm ra các sản phẩm
này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác [9], [2].
Hiện nay, cả nước có khoảng 1450 làng nghề truyền thống với tổng số 1,4

triệu nhân công, phân bố ở 58 tỉnh và thành phố trong cả nước. Trên cả nước, làng
nghề phân phố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng khoảng 800 làng (chiếm
67,3%), miền Trung 20,5% và miền Nam 12,2%. Các tỉnh có số lượng làng nghề
đông bao gồm: Hà Tây cũ có 280 làng, Thái Bình có 18 làng, Thanh Hoá có 127 làng,
Nam Định có 90 làng, Hải Dương có 65 làng [16].
Trong vài năm gần đây, làng nghề đang thay đổi nhanh chóng theo nền kinh
tế thị trường, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Quá trình công nghiệp
hóa cùng với việc phát triển ngành nghề nông thôn đã làm tăng mức thu nhập bình
quân của người dân, các công nghệ mới đang ngày càng được áp dụng phổ biến.
Các làng nghề mới và các cụm làng nghề không ngừng được khuyến khích phát
triển nhằm đạt được sự tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định ở khu
vực nông thôn.

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

13

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
1.2.2. Vấn đề về môi trường làng nghề
Bên cạnh mặt tích cực và những đóng góp lớn cho nền kinh tế - xã hội thì sự
phát triển của hoạt động sản xuất làng nghề cũng mang lại nhiều bất cập, đặc biệt về
vấn đề ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân và ngày càng
trở thành vấn đề bức xúc.
1.2.2.1. Môi trường không khí tại các làng nghề
* Đặc trưng khí thải và ô nhiễm không khí tại các làng nghề:
Khí thải ở các làng nghề thường chứa nhiều thành phần các chất ô nhiễm
không khí như: bụi, CO2, CO, SO2, NOx, chất hữu cơ bay hơi. Ngoài ra, các khí độc

hại còn được sinh ra trong quá trình phân huỷ yếm khí các hợp chất hữu cơ có trong
nước thải và các chất hữu cơ dạng rắn, đó là các khí: H2S, NH3, CH4...[4], [9].
Môi trường khu vực sản xuất ở các làng nghề tái chế ngoài ô nhiễm không
khí do đốt nhiên liệu, thể hiện ở các thông số ô nhiễm như bụi, CO 2, CO, SO2,
NOx…,quá trình tái chế và gia công cũng gây phát sinh các khí độc như hơi axit,
kiềm, kim loại (PbO, ZnO, Al2O3) và gây ô nhiễm nhiệt [2].
Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ, ô
nhiễm không khí không chỉ do sử dụng nhiên liệu mà còn do sự phân hủy các chất
hữu cơ trong nước thải, chất rắn tạo nên các khí như SO2, NO2, H2S, NH3, CH4,…
Tại các làng nghề ươm tơ, dệt vải và thuộc da thường bị ô nhiễm bởi các
thông số như bụi, SO2, NO2. Môi trường vi khí hậu ở các làng nghề dệt thường bị ô
nhiễm bởi tiếng ồn do các máy dệt thủ công. Mức ồn vượt TCVN từ 4 – 14 dBA
[2].
Đối với các làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren, ô nhiễm không khí
thường chỉ xảy ra tại một số làng nghề chế tác đá và sản xuất mây tre đan. Môi
trường không khí xung quanh khu vực sản xuất của làng nghề chế tác đá bị ô nhiễm
nghiêm trọng do bụi đá và tiếng ồn. Đặc biệt, trong bụi phát sinh từ chế tác đá còn
chứa một lượng không nhỏ SiO 2 (0,56 – 1,91% tại làng nghề đá Non Nước – Đà
Nẵng) rất có hại cho sức khỏe. Trong khi đó, tại làng nghề sản xuất mây tre đan,

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

14

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
không khí thường bị ô nhiễm bởi SO 2 phát sinh từ quá trình xử lý chống mốc cho
các sản phẩm mây tre đan.

Tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá, ô nhiễm không
khí diễn ra phổ biến và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Đối với các làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng, chất lượng không khí bị suy giảm chủ yếu do khí thải từ đốt
nhiên liệu đã sinh ra các khí SO 2, CO, CO2, NO và nhiều loại chất thải nguy hại
khác [8]. Trong khi đó, ở các làng nghề khai thác đá, bụi phát sinh từ quá trình khai
thác và chế tác đá là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm không khí ở đây. Kết
quả khảo sát ở khu vực làng nghề cho thấy hàm lượng bụi vượt TCVN từ 3 – 8 lần,
hàm lượng SO2 có nơi vượt đến 6,5 lần [2].
1.2.2.2. Môi trường nước mặt và nước ngầm tại các làng nghề
* Đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề
Ô nhiễm môi trường nước với các chất thải độc hại khó phân huỷ đang là
một vấn nạn nóng bỏng tại các làng nghề. Khối lượng và đặc trưng nước thải sản
xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng trong
sản xuất. Một số ngành như tái chế, chế tác kim loại, đúc đồng, nhôm,….trong nước
thải bị ô nhiễm các chất rất độc hại như các hóa chất, axit, muối kim loại, xyanua và
các kim loại nặng như Hg, Pb, Cr, Zn, Cu,…. vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Nước thải từ các làng nghề ươm tơ, dệt nhuộm có BOD 5, COD và độ màu rất cao
(vượt tiêu chuẩn 2-5 lần), gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt [8].
Đối với các làng nghề chế biến lương thực và thực phẩm, nước thải rất giàu
chất hữu cơ, các chỉ tiêu: BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn,
phát sinh rất nhiều các chất ô nhiễm thứ cấp dạng khí: CH 4, H2S, NH3… và là môi
trường thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh phát triển [4].
Tại các làng nghề tái chế phế liệu, nước thải chứa nhiều chất độc hại như kim
loại nặng (Zn, Fe, Cr, Ni,….), dầu mỡ công nghiệp, ngoài ra còn tạo ra muối Hg,
xyanua, oxit kim loại và các tạp chất khác.
Tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ, hàm lượng COD và BOD 5 trong nước
thải thường vượt TCVN từ 2-5 lần và từ 5,5-8,5 lần.

Luận văn Thạc sĩ Khoa học


15

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
* Đặc trưng ô nhiễm nước mặt ở các làng nghề
Nước mặt ở các sông hồ địa phương, đặc biệt là tại các làng nghề trong lưu
vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu ở phía Bắc và hệ thống sông Đồng Nai ở phía
Nam bị ô nhiễm do chịu tác động trực tiếp của nước thải sản xuất, có nơi đã đến
mức báo động.
Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ, nước
mặt bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, đang ở mức báo động, nhiều nơi có COD,
BOD5, NH4, Coliform vượt TCVN hàng chục đến hàng trăm lần.

Nước mặt ở

các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ và thuộc da cũng bị ô nhiễm hữu cơ nặng với
COD vượt TCVN 2-3 lần, BOD5 1,5-2,5 lần.
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ, nước mặt bị ô nhiễm cao, đặc biệt đối với
làng nghề mây tre đan có độ ô nhiễm hữu cơ cao, hàm lượng COD, BOD5, NH4,
Coliform, độ màu đều tăng cao, vượt TCVN nhiều lần.
1.2.2.3. Môi trường đất tại các làng nghề
Ô nhiễm môi trường đất chủ yếu tập trung ở các làng nghề tái chế kim loại.
Hàm lượng các kim loại nặng trong đất cũng rất cao, vượt nhiều lần so với TCCP
[8].
1.2.2.4. Chất thải rắn tại các làng nghề
Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề chưa được thu gom và xử lý triệt để,
gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và đất. Theo số liệu nghiên cứu của Sở
Công thương Hà Nội 2008, khối lượng chất thải rắn của 255 làng nghề thuộc thành

phố Hà Nội sau khi mở rộng đã lên tới 207,3 m 3/ngày (tương đương với khoảng 90
tấn/ngày) chưa tính chất thải rắn chăn nuôi gia súc, gia cầm [2].
* Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ:
Chất thải rắn ở nhóm làng nghề này giàu chất hữu cơ, hầu hết chưa được
quan tâm xử lý, xả thải bừa bãi vào môi trường. Các làng nghề này thải ra khối
lượng lớn chất thải rắn (bã thải có độ ẩm rất cao và chiếm tới 50% nguyên liệu, chủ
yếu là xơ khoảng 10% và tinh bột khoảng 4-5%). Chẳng hạn, sản lượng 52.000 tấn
tinh bột/năm, làng nghề Dương Liễu hàng năm phát sinh tới 105.768 tấn bã thải [2].

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

16

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
Loại hình giết mổ gia súc, gia cầm cũng tạo ra một lượng chất thải rắn đáng kể.
Chất thải rắn loại này ngoài phân còn chứa một lượng không nhỏ mỡ động vật rất
chậm phân huỷ.
* Các làng nghề tái chế phế liệu:
Ở nhóm làng nghề này, chất thải rắn có thành phần phức tạp, khó phân huỷ.
Làng nghề tái chế kim loại, nguồn chất thải rắn phát sinh bao gồm: bavia, bụi kim
loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1-7 tấn/ngày [2].
Làng nghề tái chế giấy, nhựa thải ra các chất thải rắn bao gồm: nhãn mác,
bột giấy, băng ghim, băng dán, tạp chất không tái sinh được,…
* Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ và thuộc da:
Các làng nghề ươm tơ, dệt vải, chất thải rắn bao gồm bụi bông, vải vụn từ se
sợi, dệt, cắt may; bã kén từ ươm tơ, kéo sợi, xỉ than, bao bì, thùng đựng hoá chất,
nguyên liệu,...Các làng nghề may gia công, da giầy tạo ra chất thải rắn như vải vụn,

da vụn gồm da tự nhiên, giả da, cao su, chất dẻo,....với lượng thải lên tới 2-5
tấn/ngày [2].
* Các làng nghề thủ công mỹ nghệ:
Ở các làng nghề này, chất thải rắn không nhiều và hầu hết chất thải rắn ở đây
được tận dụng làm nhiên liệu trong sinh hoạt hàng ngày ở các hộ gia đình.
* Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá:
Tại các làng nghề này, chất thải rắn chủ yếu là đá vụn, vỉa đá nhỏ. Đây là
những loại chất rắn khó phân hủy, lượng thải lớn, chứa nhiều bụi đá với hàm lượng
SiO2 cao. Tiếng ồn ở các làng nghề này là rất lớn vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều
lần. Ngoài ra còn có các giẻ lau các dung môi, hoá chất xử lý màu, dầu mỡ của các
động cơ, máy móc cũng gây ô nhiễm môi trường nhiêm trọng.
1.2.3. Vấn đề về bệnh nghề nghiệp làng nghề
Báo cáo về hiện trạng môi trường của Bộ TN-MT nêu rõ: Thời gian gần đây
tại nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ tuổi lao
động) đang có xu hướng gia tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ trung bình
của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

17

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
trung bình toàn quốc và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp hơn từ 5-10
năm [2], [17].
Theo thống kê tại tỉnh Hà Nam, so sánh giữa 7 làng nghề và 7 làng không
làm nghề, tỷ lệ mắc các bệnh ngoài da, tiêu chảy, hô hấp và đau mắt tại 7 làng nghề
cao hơn rất nhiều so với làng không làm nghề [2].

Một số nghiên cứu tại một số làng nghề ở Hà Nội cũng cho thấy giữa các
khu vực làng nghề và không làm nghề, tỷ lệ mắc bệnh của các đối tượng khu vực
làng nghề cao hơn hẳn so với khu vực làng thuần nông.
Ở các làng nghề khác nhau thì các bệnh nghề nghiệp cũng như tỷ lệ người
mắc bệnh nghề nghiệp là không giống nhau [8].
Trong một nghiên cứu của Viện BHLĐ năm 2005, trong số các bệnh, mắc
nhiều nhất là các bệnh về đường hô hấp (viêm họng: 30,56%, viêm phế quản: 25%),
sau đó là các bệnh cơ xương khớp (đau khớp xương: 15,28%, đau dây thần kinh:
9,72%), thấp hơn là các bệnh về mắt (11,11%), bệnh về tiêu hoá, bệnh về da…[14].
Theo một khảo sát mới đây của Bộ Lao động thương binh xã hội, thì có
khoảng 31% số người lao động tại các làng nghề bị mắc bệnh liên quan đến nghề
nghiệp, trong đó chủ yếu là các bệnh về đường hô hấp (32,6%), bệnh về mắt
(29,7%), bệnh điếc tiếng ồn (11,3%), bệnh tim mạch (18%) [2].
1.2.3.1. Bệnh nghề nghiệp tại các làng nghề tái chế phế liệu
Tình trạng bệnh nghề nghiệp tại hầu hết các làng nghề tái chế phế liệu đang
ngày càng gia tăng, các bệnh phổ biến như: Bệnh hô hấp, bệnh ngoài da, thần kinh
và đặc biệt là bệnh ung thư.
Có 4 loại bệnh có tỷ lệ mắc cao tại nhóm làng nghề tái chế kim loại là bệnh
phổi thông thường, bệnh tiêu hóa, mắt và phụ khoa, ung thư phổi (0,35-1%) và lao
phổi (0,4-0,6%) [7].
1.2.3.2. Bệnh nghề nghiệp tại làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi và giết mổ
Yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe phố biến tại các làng nghề này là bức xạ
nhiệt, vi sinh vật gây bệnh, hóa chất, hơi khí độc, nước thải và chất thải rắn. Các

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

18

Phạm Viết Duy



Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
bệnh phổ biến tại nhóm làng nghề này là bệnh ngoài da và viêm niêm mạc. Tỷ lệ
mắc các bệnh phổ biến: phụ khoa 13-38%, tiêu hoá 8-30%, viêm da 4,5-23%, hô
hấp 6-18%, đau mắt 9-15% [4].
1.2.3.3. Bệnh nghề nghiệp tại làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da
Bệnh nghề nghiệp tại các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ được gây nên bởi các
yếu tố như: tiếng ồn, bụi, bụi bong, hóa chất, hơi khí độc, nước thải chứa Javen và
các loại hóa chất độc. Theo một kết quả điều tra tại 4 làng nghề dệt lụa cho thấy
người lao động có tỷ lệ mắc bệnh hô hấp là 5,5%; đau lưng là 13%; giảm thị lực là
15,8%; bệnh về tai chiếm 9,5% trên tổng số người đến khám chữa bệnh tại trạm y tế
của địa phương [2]. Trong số những bệnh cấp tính thì bệnh đau đầu, mất ngủ, suy
nhược thần kinh chiếm tỷ lệ cao nhất (46%) và trong số những bệnh mãn tính thì
bệnh xương khớp cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (gần 30%).
1.2.3.4. Bệnh nghề nghiệp tại làng nghề thủ công, mỹ nghệ
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ do sử dụng các nguyên liệu sơn, dầu,
aceton, xylen, toluene, benzene,…nên đã gây ra các bệnh phổ biến như: Bệnh hô
hấp, bệnh ngoài da, ung thư ...[2].
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương năm 2006, tỷ
lệ người sống trong khu vực làng nghề mắc bệnh hoặc xuất hiện các triệu chứng
bệnh cao hơn so với những người thuần nông (88,1% so với 52,2%) [2].
1.2.3.5. Bệnh nghề nghiệp tại làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác
đá
Trong quá trình sản xuất và sinh hoạt tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng, người dân phải trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ bụi, tiếng ồn lớn,
các khí độc cao nên tỷ lệ mắc bệnh về đường hô hấp, bệnh về da rất cao. Một số bệnh
điển hình tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá như bệnh tai
mũi họng, bệnh hô hấp, bệnh mắt, bệnh thần kinh mệt mỏi, rối loạn tâm thần. Tỷ lệ
mắc bệnh tại các làng nghề này rất cao. Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học và

Công nghệ Môi trường (8-12/2002), tại làng nghề Đông Tân - Thanh Hóa, làng nghề
Kiện Khê - Hà Nam, tỷ lệ mắc bệnh do nghề nghiệp là hơn 50% [2].

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

19

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
Theo kết quả điều tra của Trung tâm Y tế Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), với hơn
1.200 người lao động ở làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, tỷ lệ người dân làm nghề
bị mắc bệnh cao hơn khá nhiều so với khu vực dân cư lân cận không tham gia nghề.
Theo số liệu của UBND TP. Đà Nẵng, đến năm 2010, ước tính làng đá mỹ
nghệ Non Nước có khoảng 20% trong số 5.000 công nhân lao động bị bệnh phổi do
hít bụi đá, và việc dùng axit tưới lên đá để làm mềm đá và sau đó dùng giấy nhám
đánh bóng bằng tay khiến axit ăn mòn da tay là không thể tránh khỏi.
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề không những làm gia tăng bệnh nghề
nghiệp mà còn gây tổn thất đối với nền kinh tế và làm nảy sinh xung đột môi trường
giữa các làng nghề, vì vậy cần có các giải pháp KHCN giảm thiểu ô nhiễm môi
trường và bệnh nghề nghiệp làng nghề nói chung và chế tác đá nói riêng.
1.2.4. Các giải pháp KHCN giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bệnh nghề
nghiệp làng nghề
Phát triển bền vững là quan điểm chung đối với mọi sự phát triển ở nước ta,
trong đó có làng nghề, đã được khẳng định trong chủ trương, đường lối phát triển
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Báo cáo môi trường quốc gia 2008 [2], [18], đã nêu ra 6 nhóm giải pháp chủ
yếu để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề, bao gồm:
(1) Hoàn thiện thể chế, tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT

làng nghề.
+ Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về
BVMT làng nghề.
+ Hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường cấp phường, xã, thị trấn.
+ Tăng cường tổ chức thực thi pháp luật BVMT làng nghề.
(2) Quy hoạch không gian làng nghề gắn với BVMT.
(3) Giải pháp đối với các làng nghề đang hoạt động:
+ Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lý môi trường tại các làng nghề.
+ Tăng cường áp dụng các công nghệ xử lý chất thải làng nghề.
(4) Giải pháp đối với các làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường:

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

20

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
+ Khẩn trương xử lý môi trường trong các làng nghề đã có trong danh sách
Quyết định 64/2003/QĐ-TTg về việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng.
+ Xử lý trường hợp phát sinh làng nghề gây ô nhiễm môi trường.
+ Xử lý các khu vực bị ô nhiễm môi trường do hoạt động của các làng nghề.
(5) Một số giải pháp khuyến khích
+ Khuyến khích áp dụng sản xuất sạch hơn, các công nghệ giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, xử lý các chất thải làng nghề.
+ Khuyến khích việc xã hội hóa công tác BVMT làng nghề.
+ Khuyến khích tăng cường và đa dạng hóa đầu tư tài chính cho BVMT làng
nghề.

(6) Một số giải pháp hạn chế và nghiêm cấm.
+ Hạn chế phát triển mới, hạn chế mở rộng các cơ sở sản xuất tái chế chất thải
(nhựa, kim loại, giấy, cao su), dệt nhuộm và thuộc da thủ công trong các làng nghề.
+ Nghiêm cấm sử dụng trong làng nghề những phương pháp sản xuất thủ
công và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
+ Nghiêm cấm tiến hành trong làng nghề các hoạt động sử dụng quặng có
tính phóng xạ, tái chế chất thải nguy hại.
Nhằm triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, các cấp quản lý môi trường
Trung ương cần tập trung triển khai các giải pháp thuộc nhóm (1); các địa phương
chú trọng thực hiện các giải pháp thuộc nhóm (2), (3) và (4); các bộ, ngành tập
trung thực hiện, áp dụng các giải pháp thuộc nhóm (5) và (6).
Trước thực trạng gia tăng BNN tại các làng nghề đã có nhiều nghiên cứu đưa
ra các giải pháp nhằm giảm thiểu BNN như: Sản xuất sạch hơn, VSATLĐ, mở các
lớp tập huấn về VSATLĐ…tuy nhiên các giải pháp chưa được áp dụng đồng bộ nên
hiệu quả còn nhiều hạn chế.

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

21

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
1.3. TỔNG QUAN VỀ NGHỀ KHAI THÁC VÀ CHẾ TÁC ĐÁ
1.3.1. Tình hình khai thác và chế tác đá trong nước
Thời kỳ đồ đá đã lùi xa vào quá khứ nhường chỗ cho thời kỳ đồ điện tử, thế
nhưng ngày nay trong mỗi gia đình người dân đất Việt vẫn còn không ít những vật
dụng bằng đá tồn tại song hành cùng thời gian.Từ xa xưa, nghề khai thác và chế tác
các sản phẩm dân dụng, mỹ nghệ từ đá đã phát triển khá mạnh, ban đầu cũng chỉ

sản xuất những mặt hàng phục vụ nhu cầu đời sống hàng ngày như chày, cối đá, bia
mộ,...Nhưng càng về sau nghề này càng phát triển, kỹ nghệ chế tác càng điêu luyện
tinh xảo hơn mới phát triển sang chế tác mỹ nghệ, điêu khắc, tạc tượng...đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Sản phẩm của làng đá hiện nay hết sức đa dạng phong phú về đề tài, chủng
loại kích cỡ, từ những vật dụng hàng ngày như cốc, chén, ấm trà bằng đá…đến các
tượng lân, rồng, sấu đá,… cho các chùa, rồi đến những tượng nhân sư, thần Vệ Nữ,
danh nhân đất Việt, danh nhân thế giới, Phật Di Lặc, Phật bà Quan Âm, Sư tử, Hổ,
Báo, Đại bàng...Có tượng chỉ bằng ngón tay, có tượng to bằng người thật hết sức
tinh xảo sinh động. Sản phẩm của các làng đá không chỉ có đá xây dựng ốp lát, xây
tường, móng kè… và những vật dụng đơn giản mà còn có đá mỹ nghệ với những
sản phẩm tinh xảo như: voi đá, ngựa đá, tòa sen, tượng phật, chân cột đình, bia văn
tự, đỉnh lư hương, tháp nhang sân chùa, nhịp cầu bằng đá,… được lưu dấu ấn ở các
công trình văn hoá, lịch sử như chùa Báo Ân, điện Lam Kinh, thành nhà Hồ, Kinh
thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chùa Diên Hựu, nhà thờ đá Phát
Diệm,…mà còn xâm nhập vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, Úc, Nhật Bản,
Malaysia, Indonesia, Đài Loan (Trung Quốc), Châu Âu...nên chất lượng, mẫu mã,
độ tinh xảo ngày càng được nâng cao hơn rất nhiều và được nhân dân các nước ưa
chuộng, tin dùng.
Ngoài những làng nghề chế tác đá nổi tiếng từ thời xa xưa như làng nghề
Ninh Vân (Hoa Lư, Ninh Bình), làng nghề Non Nước (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng),
làng nghề Đông Sơn (Thanh Hoá),…hiện nay với sự phát triển của kinh tế thị
trường và chủ trương phát triển làng nghề của nhà nước, với sự kế thừa những tinh

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

22

Phạm Viết Duy



Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
hoa của các làng nghề truyền thống kết hợp với công nghệ hiện đại, các làng nghề
chế tác đá mới cũng đã xuất hiện trên khắp mọi miền của đất nước như: làng đá
Long Châu (Chương Mỹ, Hà Nội), Đại Lộc (Quảng Nam), Suối Giàng (Văn Chấn,
Yên Bái), Hải Lựu (Sông Lô, Vĩnh Phúc),…cũng như nhiều công ty đá mỹ nghệ
khác: công ty TNHH đá mỹ nghệ Thái Bình, Công ty TNHH xây dựng Đồng Tiến
(thị xã Quảng Trị), Công ty TNHH Thái Thùy Linh (Chương Mỹ, Hà Nội),…
Nghề đá phát triển, thu nhập bình quân của người dân làm nghề tạc đá ngày
càng ổn định và khấm khá hơn.
Tuy nhiên, để trở thành một làng nghề có quy mô lớn, phát triển theo hướng
bền vững và đủ sức vươn ra thị trường trong và ngoài nước, nghề đá cần có sự hỗ
trợ nhiều mặt từ chính quyền địa phương và các ngành chức năng ở tỉnh và huyện.
Trong đó, các giải pháp về quy hoạch, thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, cải tiến
mẫu mã, công nghệ, môi trường, an toàn vệ sinh lao động, bệnh nghề nghiệp,…là
những yếu tố cần xem xét và thực thi một cách đồng bộ với những bước đi thích
hợp. Được như vậy, nghề khai thác và sản xuất các sản phẩm từ đá sẽ góp phần đắc
lực vào công tác giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp- nông
thôn ở địa phương.
1.3.2. Làng nghề đá Hoa Lư – Ninh Bình
1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Huyện Hoa Lư có vị trí bao bọc phía bắc và tây với thành phố Ninh Bình,
phía bắc giáp huyện Gia Viễn, phía tây giáp thị xã Tam Điệp, phía nam giáp huyện
Yên Mô, phía đông giáp huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định và thành phố Ninh Bình.
Hoa Lư có diện tích tự nhiên 139,7 km² và dân số 103,9 nghìn người (2003).
11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Trường Yên, Ninh Hòa, Ninh Giang,
Ninh Mỹ, Ninh Khang, Ninh Xuân, Ninh Vân, Ninh Hải, Ninh An, Ninh Thắng và
thị trấn Thiên Tôn [11], [12], [13].
Về sông ngòi, huyện Hoa Lư giáp với 2 con sông lớn là sông Đáy và sông
Hoàng Long ở phía bắc, sông Sào Khê và sông Chanh chảy dọc huyện nối sông

Hoàng Long với sông Vân.

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

23

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
Nằm ở vùng bán sơn địa, Hoa Lư có những dãy núi đá vôi ngập nước được
hình thành từ lâu tạo nên những cảnh quan đẹp như các thắng cảnh: Tam Cốc - Bích
Động, cố đô Hoa Lư, Tràng An, động Hoa Sơn...
Huyện Hoa Lư được thành lập ngày 27/4/1977 do hợp nhất huyện Gia Khánh
(phủ Tràng An) và thị trấn Ninh Bình, khi đó thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Thị xã Ninh
Bình chuyển thành thị trấn Ninh Bình, huyện lỵ huyện Hoa Lư. Ngày 9/4/1981, tái
lập thị xã Ninh Bình, tách khỏi huyện Hoa Lư. Trụ sở huyện Hoa Lư chuyển về xã
Ninh Khánh. Sau đó nhiều lần tách đất huyện Hoa Lư nhập vào thị xã Ninh Bình.
Từ năm 1991, Hoa Lư thuộc tỉnh Ninh Bình với trung tâm là thị trấn Thiên Tôn.
Trong tương lai, do sức ép phát triển đô thị của thành phố Ninh Bình, rất có thể diện
tích huyện Hoa Lư tiếp tục sẽ dần được chuyển nhập về thành phố này.
Hoa Lư có ưu thế về giao thông cả về thuỷ, bộ và sắt. Với vị trí giữa hai
trung tâm lớn là thành phố Ninh Bình và thị xã Tam Điệp. Tiềm năng vị trí và du
lịch lớn kéo theo các hoạt động kinh tế của huyện phát triển mạnh như: các khu
công nghiệp, khai thác đá, làng nghề truyền thống, v.v...
Đề tài luận văn được triển khai tại làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân, Hoa Lư,
Ninh Bình, nơi mà người lao động thường phải làm việc trong môi trường bị ô
nhiễm bụi, tiếng ồn và làm việc ngoài trời dưới mưa nắng, trên sườn núi cao, vận
hành máy cẩu, cắt, mài đá, có nguy cơ cao về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Xã Ninh Vân nằm ở phía Tây Nam huyện Hoa Lư với tổng diện tích tự nhiên

1.264 ha, dân số 10.197 người (tính đến tháng 10/2011). Phía Bắc giáp xã Ninh Hải,
Ninh Thắng; Phía Nam giáp thị xã Tam Điệp; Phía Đông giáp xã Ninh An và huyện
Yên Mô; Phía Tây giáp thị xã Tam Điệp. Nghề nghiệp chính của người dân nơi đây
là làm nông nghiệp, khai thác chế biến đá vật liệu xây dựng và đá mỹ nghệ, bên
cạnh đó còn có một số gia đình làm thêu ren, buôn bán nhỏ và vận tải cơ khí phục
vụ sản xuất. Là xã miền núi có giao thông thuận lợi, lại nằm ngay sát quốc lộ 1A
nên hoạt động sản xuất, giao thương của xã có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế - xã hội. Cách đây khoảng 400 năm, Ninh Vân đã có nghề khai thác và

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

24

Phạm Viết Duy


Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
chế tác đá mỹ nghệ, hiện nay xã Ninh Vân đã có 5/13 thôn được công nhận là làng
nghề truyền thống lâu đời ở Ninh Bình. [11],[13].
Được thiên nhiên ưu đãi với diện tích núi đá hơn 400 ha, nghề làm đá truyền
thống ở Ninh Vân ngày càng phát triển. Hàng năm, một khối lượng lớn đá xây dựng
được cung cấp thường xuyên cho các nơi. Ngoài ra, với tài nghệ và đôi bàn tay khéo
léo, người dân nơi đây còn là những nghệ nhân chế tác đá mỹ nghệ, sản phẩm đá
Ninh Vân xuất hiện ở khắp nơi như một biểu tượng của tài năng con người có thể
biến những khối đá thô sơ thành những sản phẩm nghệ thuật của nhân loại. Trước
đây thực dân Pháp cũng khai thác đá xây dựng và đá mỹ nghệ thủ công để làm cầu,
đường và xây công sở. Rất nhiều công trình nổi tiếng xây dựng từ thời Pháp thuộc
có sự tham gia của nghệ nhân làng đá Ninh Vân như: kho bạc Nam Định, mố cầu
Long Biên, nhà thờ đá Phát Diệm, lăng thánh mẫu Liễu Hạnh, phủ Giày Nam Định.
Ngày nay sản phẩm đá được dùng để xây dựng cụm tượng đài Bà mẹ Tổ quốc ở TP

Hồ Chí Minh, cụm tượng đài Nghĩa trang Trường Sơn, cụm tượng đài thanh niên
xung phong chống Mỹ cứu nước ở Quảng Trị, tượng Mẹ Suốt ở Quảng Bình, tượng
Bác Hồ ở Nghệ An, tượng Trần Hưng Đạo ở Chí Linh (Hải Dương), tượng đài
Hoàng Văn Thụ ở Lạng Sơn, cụm tượng đài Pắc Pó ở Cao Bằng. Các nghệ nhân
làng đá Ninh Vân còn là tác giả của 500 pho tượng La Hán được đặt tại chùa Bái
Đính, ngôi chùa lớn nhất Việt Nam hiện nay. Các pho tượng có kích cỡ lớn, chiều
cao trên 2m. Mỗi pho tượng La Hán đều được đúc một mẫu thạch cao riêng nên rất
phong phú và sinh động, tinh xảo và cầu kỳ đòi hỏi phải có những đôi tay lành
nghề.
Trong những năm qua, Đảng bộ xã đã tập trung chỉ đạo nhằm giải quyết
công ăn việc làm cho nhân dân, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ
phát triển. Tính đến thời điểm hiện nay, toàn xã có 79 doanh nghiệp tư nhân, trong
đó có tới 68 doanh nghiệp chuyên về sản xuất đá mỹ nghệ. Những năm trở lại đây,
nền kinh tế của xã đã có những bước tiến vượt bậc so với các xã lân cận, trong đó
nghề truyền thống sản xuất đá mỹ nghệ đóng một vai trò không nhỏ, hàng năm đem
lại nguồn doanh thu tương đối lớn cho xã, khoảng 100 tỷ đồng, chiếm 80% doanh

Luận văn Thạc sĩ Khoa học

25

Phạm Viết Duy


×