Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

TIỂU LUẬN CAO HỌC TRIẾT học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.9 KB, 35 trang )

TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức:
1. Bối cảnh châu Âu cận đại
- Đến cuối thế kỷ 19, CNTB ra đời và phát triển

ở hang loạt các nước châu

Âu như: Anh, Pháp, Hà Lan, I-ta-li-a đem lại một nền sản xuất phát triển
chưa từng có cho nhân loại. PTSX TBCN đã tỏ ra ưu việt hơn hẳn PTSX
PK bảo thủ, lạc hậu. Nó tạo ra 1 năng suất lao động cao, lượng của cải làm
ra = 19 thế kỷ trước cộng lại.
Cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 làm rung chuyển cả châu Âu tác động

-

mạnh mẽ đến đời sống, xã hội châu Âu. Mác nói: “triết học của Kant là lý
-

luận của người Đức về cuộc CMTS Pháp”.
Cuộc cách mạng công nghiệp Anh đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh

-

công nghiệp trong lịch sử nhân loại.
Những thành tựu về kinh tế, văn hóa và khoa học do cuộc cách mạng công
nghiệp tạo ra càng khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và
cải tạo thế giới.
Tóm lại: cuối thế kỷ 18 đầu 19 PTSX TBCN đã trở thành 1 xu thế tất yếu

-


của lịch sử nhân loại
2. Hoàn cảnh nước Đức
a. Kinh tế:
- Đên đầu thế kỷ 19 nước Đức vẫn là 1 nước phong kiến lạc hậu. sự
cát cứ phong kiến làm nước Đức bị chia thành nhiều tiểu vương
quốc tách biệt nhau. Thực trạng này là trở ngại đối với sản xuất

-

hang hóa, trở ngại cho sự phát triển của CNTB ở Đức.
+ năm 1822 cả nước Đức mới có 2 đầu máy hơi nước
+ Nông nghiệp bị đình đốn.
b. Chính trị
Vua Phổ Phridrich Vin-hem trở nên phản động, ngoan cố tăng cường
quyền lực, duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát, cản trở đất nước
đi lên con đường TBCN.

1|Page


-

Không khí chính trị ngột ngạt của xã hội Đức đã tạo sự bất bình cho đông

-

đảo quần chúng.
c. Văn hóa – tư tưởng
Tuy lạc hậu về kinh tế, chính trị nhưng về mặt văn hóa nói chung, nhất là
triết học và nghệ thuật ở Đức thời kỳ này rất phát triển, có nhiều nhà thơ

nhiều nhà tư tưởng lớn như: Gớt, Héc-tơ, Sit-lơ,..
Các nhà tư tưởng Đức đã nhận được sự cổ vũ to lớn của phong trào Khai

-

sáng Pháp. Đặc biệt là cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp đã thức tỉnh
các nhà tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức
d. cải cách tôn giáo
Do những mâu thuẫn giữa quần chúng với giáo hội ở Đức phát triển
gay gắt phong trào chống giáo hội ở Đức nổ ra gay gắt. Đầu thế kỷ XVI,
sự căm ghét giáo hội của mọi tầng lớp nhân dân Đức đã trở thành phổ
biến và rộng lớn. Trong tình hình đó một mục sư có tên là Martin Luther
(1483 – 1546) đã tiến hành vận động cải cách tôn giáo.
Nhưng Luther vốn không phải là một nhà cải cách xã hội. Cải cách tôn
giáo còn nhiều hạn chế thể hiện sự yếu ớt của giai cấp tư sản Đức. Mặc dù nó
lan rộng trong nước Đức nhưng lại không đề rõ ràng cải cách hướng đến giải
quyết các yêu cầu xã hội nên mỗi tầng lớp, giai cấp hiểu và tham gia cải cách
theo quan điểm và mục đích khác nhau. Các lãnh chúa, thị dân giàu chỉ mong
đóng cửa các nhà thờ Ki-tô giáo, chiếm lấy ruộng đất và tài sản để tăng quyền
lực cát cứ. Ngược lại, thị dân thì muốn làm yếu lãnh chúa và quý tộc để nước
Đức thống nhất dưới một chính quyền tập trung. Chỉ có dân nghèo thành thị
thì không muốn dừng lại ở những đòi hỏi có tính chất ôn hòa của Luther. Họ
không chỉ muốn cải cách tôn giáo mà còn muốn cải cách toàn bộ chế độ xã
hội. Vì thế, toàn thể nông dân Đức chuyển động tập trung xung quanh Luther.
Cuối cùng Luther quay sang thỏa hiệp với lãnh chúa phong kiến và thị
dân giàu, đàn áp quần chúng một cách tàn bạo. Tuy nhiên phong trào cải cách
2|Page


tôn giáo này đã gợi mở cách nhìn mới về vấn đề con người cho các nhà tư

tưởng đương thời và những giai đoạn tiếp theo. Nó là tiền đề giải phóng con
người trong tín ngưỡng, tư tưởng.
Tóm lại:
+ Về kinh tế: Nước Đức tuy lạc hậu, nhưng cũng đã có mần mống sản

-

xuất TBCN.
+ Về chính trị: bảo thủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển TBCN
+ Văn hóa – tư tưởng: Đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
Nước Đức đang có 1 yêu cầu cấp thiết có 1 hệ tư tưởng mới thay thế cho
hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời.
3. Tiền đề khoa học
a. Vũ trụ luận (quan niệm về vũ trụ)
Các nhà khoa học đã có những khám phá mới về vũ trụ, tiêu biểu là các học
thuyết của : Cô-pec-níc, Bru-nô, Kê-ple, Ga-li-lê, Đề-các-tơ.
Chúng chứng minh sức mạnh to lớn của con người trong nhậ thức thế giới.
Cơ học cổ điển
Học thuyết của Niu-tơn làm nền tảng cho cho sản xuất cơ khí.
Sự phát triển của khoa học nhất là khoa học tự nhiên cho thấy phương pháp
b.

-

siêu hình không còn đủ khả năng lý giải thế giới, phương pháp này không đáp
-

ứng được nhu cầu phát triển thực tiễn của khoa học Tây Âu thế kỷ 17, 18.
Đòi hỏi các nhà tư tưởng cần có cánh nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và
tiến trình lịch sử xã hội, cần có quan niệm mới về nhận thức, cải tạo thực tiễn

của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời đáp ứng sứ mệnh lịch sử đó
không chỉ riêng với nước Đức mà còn cả châu Âu.
II.
Các triết gia tiêu biểu:
1. Immanuel Kant (1724 -1804)
1.1 Tiểu sử:
- Ông là người sang lập nền triết học cổ điển Đức
- Sinh ra ở thành phố Ken-ni-xbec trong một gia đình trung lưu ở đông bắc
nước Phổ. Mẹ ông là người thanh giáo Đức, là người rất mộ đạo.

3|Page


-

Kant suốt đời không ra khỏi thành phố quê hương.
Sự nghiệp của Kant được chia làm 2 thời kỳ:
+ Thời kỳ tiền phê phán: triết học của Kant có khuynh hướng duy vật
+ Thời kỳ phê phán: Ông chuyển từ triết học mô tả thế giới sang tìm hiểu
những băn khoăn trong đời sống con người, với bô 3 tác phẩm trứ danh:
Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực tiễn (thực hành) và Phê

phán năng lực phán đoán.
1.2 Nội dung triết học Kant
1.2.1 Thời kỳ tiền phê phán
- Về cơ bản thế giới quan của ông mang tính duy vật với luận điểm nổi
tiếng “hãy cho tôi vật chất tôi sẽ chỉ cho anh thấy thế giới phải ra đời từ
-

vật chất như thế nào”.

Thế giới theo Kant có nguồn gốc từ vật chất, vận động và biến đổi không

-

ngừng, mọi vật tương tác với nhau qua lực hút và lực đẩy.
Dựa trên những tri thức khoa học tự nhiên, Kant cho rằng toàn bộ vũ trụ
nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong theo quy luật tất
yếu. Ông đưa ra giả thuyết “tinh vân nguyên thủy” giải thích nguồn gốc
và sự hình thành vũ trụ trong tác phẩm “lịch sử tự nhiên đại cương và lý

-

thuyết về bầu trời”.
Giả thuyết cho rằng:
+ Tất cả các hành tinh kể cả vũ trụ không phải ngay từ ban đầu đã có
trạng thái tồn tại như ngày nay. Thời kỳ xưa nhất thế giới tồn tại hỗn độn
dưới dạng những tinh vân nguyên thủy, nhờ lực hấp dẫn các hạt vật chất
khuếch tán khắp không gian và dần dần tụ lại thành những đám mây lớn,
làm cho các hạt vật chất liên kết lại với nhau tạo thành hình cầu.
+ Lực hút chiếm ưu thế các hạt vật chất liên kết tạo thành mặt trời và các
hành tinh.
+ Do lực ma sát khi va chạm làm chúng nóng lên. Mặt trời và các hành
tinh có độ nóng khác nhau là do lực ma sát mạnh yếu khác nhau.

4|Page


+ Do khoảng không vũ trụ quá rộng và do ảnh hưởng của lực đẩy nên lực
ma sát thấp dẫn đến không đủ sức hút tất cả các hạt vật về 1 khối do vậy
-


hình thành những hành tinh độc lập với nhau.
Lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng nên hành tinh gần mặt trời nhất thì

-

nặng hơn so với các hành tinh xa.
Vũ trụ là một khối thống nhất nên nếu thế giới nào đó mất đi sẽ được bù

-

đắp bởi thế giới khác sinh ra.
? Em hãy rút ra ý nghĩa của học thuyết “tinh vân nguyên thủy”
Chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn chỉnh hơn so với các học

-

thuyết về vũ trụ trước đó.
Nó mang đến một cách nhìn mới về tự nhiên trong sự vận động và phát
triển không ngừng của nó, vũ trụ của chúng ta là kết quả của toàn bộ quá

-

trình phát triển lâu dài của nó.
Học thuyết của ông đã gạt bỏ vĩnh viễn quan niệm siêu hình đang thống
trị, cho rằng thế giới của chúng ta đã, đang và sẽ tồn tại vĩnh viễn không

-

có gì thay đổi.

Kant đặt nền móng cho quan niệm biện chứng về sự phát triển của tự

-

nhiên.
Kant còn là người đầu tiên phát hiện ra bản chất hiện tượng thủy triều –
trái đất. Do lực hấp dẫn mặt trăng – trái đất cùng với lực ma sát trên bề

-

mặt các đại dương mà phát sinh hiện tượng thủy triều.
Tuy nhiên quan điểm duy vật thời tiền phê phán của Kant chưa triệt để vì:
trong lĩnh vực sinh học ông đã thấy được hạn chế trong phương pháp cơ
học đơn thuần trong nghiên cứu các quá trình sinh học, nhưng do hạn chế
của tri thức sinh học đương thời ông đã đi đến tư tưởng bất khả tri về bản
chất sự sống.
1.1.2 Thời kỳ phê phán:
- Từ năm 1770, do ảnh hưởng của biến động xã hội Pháp trước CMTS
( 1789 – 1794).

5|Page


- Ảnh hưởng của quan niệm duy tâm thần học của Vôn-phơ, Lép-nit đặc
biệt là Hi-um, triết học của Kant chuyển sang thời kỳ phê phán, chủ yếu
đứng trên lập trường duy tâm chủ quan.
1.1.2.1 Quan niệm về bản chất, nhiệm vụ của triết học
- Trong thời kỳ phê phán triết học của Kant chủ yếu đề cập đến các vấn đề
nhận thức luận, logic nhận thức với mục đích xây dựng nền tảng thế giới
quan cho con người.

- Trước Kant chủ nghĩa duy lý (tuyệt đối hóa lý tính) và chủ nghĩa duy
cảm (tuyệt đối hóa kinh nghiệm) thống trị triết học làm cho nhận thức của
con người trở nên què quặt. Trước thực trạng ấy Kant tự đặt cho triết học
của mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng lực nhận thức của con
người, giải phóng nhận thức đang thống trị lúc bấy giờ, vì vậy ông chủ
trương xây dựng một nền triết học thông qua cách tiếp cận phê phán.
- Phê phán: phê phán không phải là đả kích hay lên án, phê phán là đặt câu
hỏi về mặt có hợp pháp hay không. Lý tính theo nghĩa rộng là bao gồm 2
lĩnh vực lý tính lý thuyết và lý tính thực hành (đạo đức và nhân sinh).
Kant nhận thấy cả mặt tích cực và hạn chế của chủ nghĩa duy lý và
duy cảm do đó để giải thoát nhận thức của con người khỏi ngõ cụt ấy,
Kant đặt ra cho triết học của mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng
lực nhận thức của con người. Lý tính như một toàn án thẩm định lại mọi
tri thức con người đã có được (đó là công cuộc nhận thức chính mình).
- Ông đặt ra cho triết học phê phán của mình ba câu hỏi lớn:
+ tôi có thể biết được cái gì? – triết học lý luận
+ tôi phải làm gì? – triết học thực tiễn
+ tôi có thể hy vọng gì? - thẩm mỹ học
Hỏi sv? Đây là 3 vấn đề như thế nào?
Đây là 3 của tất cả mọi người trong cuộc sống hàng ngày, nó đặt ra và yêu
cầu triết học phải giải đáp. 3 câu hỏi này phản ánh 3 khía cạnh quan hệ
giữa con người với thế giới: nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ (chân – thiện –

6|Page


mỹ). Trả lời được 3 câu hỏi lớn này sẽ trả lời được “con người là gì?”,
con người cần phải biết chân lý, làm điều thiện và hy vọng vào cái đẹp
Hỏi sv: em có nhận xét gì về quan niệm của Kant về triết học?
+ Có thể nói toàn bộ triết học Kant chứa đựng tinh thần nhân đạo với mục

đích đem lại cho con người cách nhìn mới về thế giới và chính bản than
mình, đưa con người tới tự do và hạnh phúc.
+ Khác với nhiều nhà triết học trước đó, Kant khẳng định được bản chất
con người. Vì vậy, nhiệm vụ của triết học là phải hướng vào giải quyết
những vấn đề về cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết
học phải đem lại cho con người nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những
nguyên tắc cơ bản của cuộc sống con người vì những lý tưởng nhân đạo.
Đây là cách tiếp cận mới mẻ chưa từng có ở bất kỳ triết gia nào. Cách tiếp
cận này đã hướng triết học tới phục vụ con người, vì con người, không xa
lạ với con người như triết học kinh viện. Từ đây con người trở thành
khách thể đầy bí ẩn và mê hoặc trong triết học của Kant.
1.1.2.2 Bản thể luận
- Bản thế luận của Kant thong qua học thuyết về “vật tự nó” (vật tự thân)
- trong triết học lý luận, Kant đã vấp phải mâu thuẫn không thể giải quyết
được.
+ thứ nhất: nếu khẳng định mọi tri thức của chúng ta đều là sự phản ánh
của các sự vật của thế giới khách quan bên ngoài, thì phải thừa nhận mọi
tri thức khoa học đều chỉ là dựa trên những tri thức đơn lẻ, ngẫu nhiên.
+ thứ hai: nếu đòi hỏi tính phổ quát và tất yếu của tri thức triết học và
khoa học thì phải thừa nhận nguồn gốc của chúng không phải là sự phản
ánh hiện thực khách quan, mà là kết quả sang tạo của riêng trí tuệ con
-

người.
Kant cho rằng: “từ trước đến nay người ta cho rằng mọi tri thức của chúng
ta đều phải phù hợp với sự vật, tuy nhiên, ở đây mọi khái niệm để xác lập
1 cái gì đó tiên nghiệm về các sự vật, cái mà có thể mở rộng tri thức của
chúng ta về chúng kết cục đều thất bại” -> Kant thực hiện 1 cuộc cách

7|Page



mạng trong triết học mà ông gọi là cuộc cách mạng Cô-pec-nic: “các sự

-

vật phải phù hợp với nhận thức của con người”.
Hỏi sv: Em có nhận xét gì về cuộc cách mạng mà Kant thực hiện?
Duy tâm chủ quan.
Ông chuyển trọng tâm từ khách thể, từ đối tượng nhận thức sang bản thân
chủ thể nhận thức, qua đó ông làm rõ vai trò của chủ thể nhận thức trong quá
trình nhận thức. Kant coi bản chất của ý thức con người không phải sự phản
ánh thụ động khách thể, do vậy ông nhấn mạnh đến tính tích cực, sáng tạo và

-

sự hoạt động của ý thức con người.
Qua đây ông muốn thức tỉnh con người bằng trí tuệ.
Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong hiện thực và trí tri thức trong quá trình

-

nhận thức buộc Kant phải đi đến chỗ thừa nhận “vật tự nó” (ding an-sich).
Theo Kant con người chỉ nhận thức được thế giới hiện tượng, còn một thế

-

giới con người không thể nhận thức được đó chính là vật tự nó
Vật tự nó được hiểu là:
+ Đó là bản chất của mọi sự vật khách quan tồn tại bên ngoài chúng ta. Nó

thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm, siêu nhiên và con người không thể nhận biết
được nó.
+ Vật tự nó là những gì mà con người chưa biết được.
+ Vật tự nó là những lý tưởng, những chuẩn mực tuyệt đối hoàn hảo mà con
người không bao giờ đạt được như chúa trời, tự do, linh hồn bất tử.
Hỏi sv: em có nhận xét gì bản thể luận của Kant?
+ Khi ông công nhận “vật tự nó” tồn tại khách quan, bên ngoài chúng ta thì
ông là nhà duy vật, nhưng khi ông tuyên bố “vật tự nó là cái không thể nhận
thức được, nó thuộc thế giới siêu nghiệm thì ông vừa duy tâm vừa ko thể biết.
+ Trong “bút ký triết học”, Lê nin cho rằng Kant ko phải là ko có lý khi đưa
ra vấn đề vật tự nó và hiện tượng luận và vấn đề nghịch lý nhận thức. Bởi lẽ

8|Page


theo Kant nhận thức là quá trình vừa vô hạn vừa hữu hạn. Nó vô hạn vì gắn
với lịch sử nối tiếp nhau vô tận của loài người. Nó hữu hạn vì đặt trong khả
năng của mỗi cá nhân, mỗi thời đại. Ai cũng biết rằng mỗi thời đại lịch sử chỉ
giải quyết được các vấn đề nhận thức thế giới trong khả năng của thời đại ấy,
thông qua các thành quả cụ thể, được khái quát, tổng hợp từ nhiều bình diện,
nhiều lĩnh vực khác nhau của tri thức, tri thức ở đây được hiểu là thế giới
hiện tượng được thể hiện ra cho chủ thể.
Cái nằm ngoài thế giới hiện tượng là cái con người chưa biết nó chính là mục
tiêu vô hạn của con người. Đó chính là thế giới bí hiểm của vật tự nó – nó là
cái tri thức con người ko thể vươn tới trong trình độ nhận thức ở một điều
kiện xác định. Khi nào con người với tính cách là chủ thể nhận thức khi ấy
còn tồn tại vật tự nó. Bởi lẽ con người không bao giờ thỏa mãn với trình độ
nhận thức hiện có, mà luôn muốn vượt qua giới hạn ấy. Một giới hạn bị vượt
qua lại xuất hiện một giới hạn khác, giả sử lúc nào đó nhận thức của con
người dừng lại thì nhu cầu sáng tạo khoa học cũng mất đi, lúc đó chủ nghĩa

giáo điều ngự trị thay cho tinh thần hoài nghi khoa học và phê phán khoa học.
1.1.2.2 Về nhận thức luận
Theo Kant nhận thức của con người trải quá 3 giai đoạn là: trực quan cảm
tính, giác tính, lý tính.
a.

Trực quan cảm tính
Đây là giai đoạn đầu tiên của nhận thức, công cụ nhận thức của giai đoạn

này là 5 giác quan . Các sự vật, hiện tượng tác động vào các giác quan của con
người nhờ đó con người thu nhận được tri thức về đối tượng.

9|Page


Có 2 dạng trực quan: là trực quan kinh nghiệm và trực quan thuần túy.
Trực quan kinh nghiệm là trực quan có quan hệ với các đối tượng thông qua cảm
giác, nó đưa lại cho ta những tri thức về tính vật chất của hiện tượng. Trực quan
thuần túy là dạng trực quan đã có sẵn trong ý thức con người dưới dạng tiên
nghiệm, đó là không gian và thời gian. Không gian và thời gian là những hình thức
chủ quan của ý thức con người và nó có tính chất tiên nghiệm.
+ Theo Kant, không gian không phải là một quan niệm thường nghiệm do kinh
nghiệm tạo ra, bởi vì bất cứ quan niệm nào của con người về sự vật đều giả thiết sự
vật đó nằm trong không gian.
+ Thời gian cũng vậy, thời gian là một cái gì tự thân, hiện hữu, nó là cảm giác
thuần túy có sẵn trước và đặt nền cho các hiện tượng của tâm linh. Thời gian được
biểu tượng bằng một đường thẳng vô hạn, các biến cố đều nằm trên những quãng
đường thẳng này.
Kant cho rằng, mọi đối tượng của trực quan cảm tính nằm trong không
gian và thời gian. Điều đó có nghĩa việc tri giác được các sự vật, hiện tượng trong

không gian và thời gian là kết quả của hoạt động ý thức của con người.
“Không gian, thời gian tựa như cái khuôn rỗng để lùa các hình hài, các ấn
tượng, các trạng thái hỗn độn đa dạng vào rồi sau đó đúc chúng thành các cảm
giác, các hình ảnh biểu tượng có tính xác định, tạo nên các sự vật hiện tượng của
thế giới”.
Hỏi sv: Đứng trên quan điểm DVBC em có nhận xét gì về quan niệm của Kant.?
+ Kant duy tâm khi cho rằng không gian, thời gian là loại kinh nghiệm có sẵn trong
đầu óc con người.

10 | P a g e


+ Theo quan điểm CNDVBC không gian và thời gian là phương thức tồn tại của
vật chất có tính chất cơ bản sau đây:
o
o
o
o

Tính khách quan
Tính vĩnh cửu vô tận
Không gian luôn có 3 chiều (dài, rộng, cao)
Thời gian có 1 chiều (quá khứ đến tương lại)

Không gian và thời gian ko thể là sản phẩm của ý thức con người.
Giai đoạn giác tính
Những tri giác, biểu tượng mà chủ thể có được trong giai đoạn nhận thức cảm
b.
-


tính chỉ có khả năng đem đến cho con người những tri thức riêng có, ngẫu
nhiên. Nhận thức của con người cần chuyển lên giai đoạn cao hơn, đó là giác
-

tính thuần túy.
Giác tính là tư duy với hệ thống các khái niệm và các phạm trù của mình – đã
thực hiện các phán đoán để xây dựng đối tượng nhận thức. Đối tượng ko phải là
nguồn gốc của tri thức về nó dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Mà ngược lại,
chính các hình thức của giác tính, tức là các khái niệm và các phạm trù đã kiến

-

tạo nên đối tượng của nhận thức.
Ví dụ : trong đầu óc chúng ta đã có sẵn các khái niệm, phạm trù về các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống (cái bàn, cái ghế,…) các khái niệm phạm trù này đã

-

kiến tạo nên hình hài, bản chất của sự vật, hiện tượng.
Giác tính là nguồn gốc của tri thức tiên nghiệm có sẵn trong đầu óc con người,

-

ko phụ thuộc vào kinh nghiệm.
Với Kant các phạm trù ko phải là sự phản ánh thế giới khách quan mà nó là kết

-

quả sáng tạo riêng của giác tính.
Kant chia 12 phạm trù thành 4 nhóm, 12 phạm trù có tính chất tiên thiên con

người đạt được tri thức về cái chung của sự vật:
o Các phạm trù về số lượng
o Các phạm trù về chất
o Các phạm trù quan hệ
o Các phạm trù hình thức.

11 | P a g e


-

Trực quan cảm tính liên quan đến đối tượng, làm cho đối tượng chuyển hóa
thành khái niệm, giác tính có quan hệ trực tiếp tới kinh nghiệm cảm tính bằng
việc vận dụng các phạm trù để chỉnh lý tư duy về vật liệu cảm tính để hình

-

thành nên tri thức có tính phổ biến và tất yếu (tri thức đúng đắn và khách quan).
Trong quan niệm của Kant phạm trù là cái khuôn đúc nên những phán đoán: đó
là những cái khuôn rỗng mà ai làm người cũng được tạo hóa ban cho. Với
những cái khuôn nhất định này, con người sẽ lĩnh nhận những vật liệu nơi thiên
nhiên để kiến tạo nên những tri thức cho mình… nhân đó người ta có thể ví
những phạm trù của Kant như chiếc khuôn của nhà làm bánh với khuôn bánh
con rồng chẳng hạn thì nắm bột hỗn mang kia sẽ được đúc thành 1 chiếc duy

-

nhất, có hình nhất định.”
Các Phạm trù là khuôn vàng thước ngọc của tri thức con người, là khởi nguyên
của tri thức, đó là những định luật con người phải noi theo trong mọi hành vi tri


-

thức.
c. Giai đoạn lý tính
Các phạm trù giác tính chỉ có thẩm quyền trong giới hạn của thế giới hiện
tượng, mà không có khả năng thâm nhập vào thế giới “vật tự nó”. Vì thế giai
đoạn thứ 3 của quá trình nhận thức. Công cụ nhận thức của lý tính là các ý
niệm. Lý tính điều chỉnh tri giác của con người. trong suốt quá trình nhận thức,
đối tượng của lý yisnh là giác tính, dẫn dắt tri giác vào khuôn khổ của các hình

-

thức tất yếu và phổ quát của nhận thức.
Lý tính của con người có khát vọng nhận thức thế giới “vật tự nó” nhằm đạt tới
trí tuệ tuyệt đối lại xuất hiện những mâu thuẫn ko thể giải quyết được
(antinomi). Theo Kant đây ko phải là logic bình thường mà nó có sẵn trong
chính bản chất của con người. Ông đưa ra 4 mâu thuẫn như sau: mỗi mâu thuẫn
được cấu thành từ 2 luận đề: chính đề - phản đề. 4 mâu thuẫn này là 4 câu hỏi
chủ yếu về ý niệm vũ trụ.

12 | P a g e


Chính đề
Phản đề
thế giới có giới hạn trong không gian thế giới vô hạn trong không gian và thời
và thời gian
gian
thế giới như chỉnh thể phức tạp để thế giới ko phân chia được, ko có cái gì

cấu thành từ những bộ phận đơn là đơn giản cả.
giản.
trong thế giới tự nhiên có mối quan
hệ nhân quả, ngoài ra còn có cả tự
do.

không có gì là tự do, mọi cái đều
diễn ra theo quy luật của tự nhiên

trong thế giới có tồn tại mối liên hệ tất
yếu

trong thế giới ko tồn tại mối liên hệ
tất yếu, mọi caí đều là ngẫu nhiên.

- Theo

Kant các antinomi này là các mặt đối lập biện chứng, 2 mâu thuẫn đầu tiên

thuộc về antinomi toán học, chúng đều sai vì trong “ vật tự nó” (nằm ngoài ko
gian và thời gian), ko thể áp dụng được hữu hạn và vô hạn của ko gian và thời
gian. Còn trong thế giới hiện tượng thì các tính chất này ko được thế hiện đầy
đủ.
- 2 antinomi sau thuộc về antinomi động lực học, mặt nào trong mâu thuẫn đúng với
thế giới hiện tượng thì sai với thế giới vật tự nó và ngược lại.
- Các vấn đề được đề cập trong các an tinomi là sự khái quát những đề tài cơ bản mà
các triết gia từ trước đến nay đều đề cập chứ ko phải là sự ngẫu nhiên.
- Những luận điểm của chính đề thể hiện tư tưởng duy tâm và quyết định luận. còn
phản đề thể hiện tinh thần duy vật và vô định luận.


13 | P a g e


- Với

Kant những antinomi là những mặt đối lập biện chứng vì thế phải căn cứ vào

từng trường hợp cụ thể để định đoạt, có thể xảy ra tình hình cả 2 mặt đối lập
cùng đúng hoặc cùng sai.
- Từ đây Kant kết luận: nhận thức lý tính ko thể đạt được tới thế giới “vật tự nó’ và
ông rơi vào bất khả tri. Tuy nhiên những yếu tố biện chứng có trong 4 antinomi
này đã có ảnh hưởng rất lớn trong sự phát triển của PBC sau này, đặc biệt là
Phích tơ và Hê ghen. Đó là việc vạch ra mâu thuẫn giữa vô hạn và hữu hạn, đơn
giản và phức tạp, tất yếu và tự do, tất nhiên – ngẫu nhiên.
- Hạn chế của các antinomi:
+ chưa thất được mâu thuẫn trong hiện thực khách quan mà chỉ thấy được mâu
thuẫn trong tư duy.
+ các antinomi này chưa phải là mâu thuẫn biện chứng vì ko thể tìm thấy sự
thống nhất và chuyển hóa giữa chúng.
+ giải quyết mâu thuẫn là động lực của sự phát triển thì Kant chỉ dừng lại owr
-

việc phân tích đúng sai.
Em có bình luận gì về quan điểm của Kant?
Kant duy tâm chủ quan, bất khả tri.
Theo Lênin phạm trù chỉ có thể có được khi năng lực tư duy của con người phát
triển cho phép họ có thể tách khỏi giới tự nhiên với nghĩa sáng tạo nên tự nhiên
thứ 2 bằng hình thức khái quát hiện thực, tự nhiên có thể lập nên 1 hệ thống

-


pham trù như một phương tiện nhận thức thế giới.
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn

-

đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý.
Phạm trù là kết quả khái quát hiện thực khách quan của đầu óc con người chú

-

ko phải là sản phẩm thuần túy sẵn có của giác tính.
Tuy nhiên sự duy tâm, bất khả tri của Kant lại bộc lộ giá trị nhân văn sâu sắc. Đó
là sự bất khả tri ở điểm tận cùng của nhận thức, nó là một cách thể hiện khác của
tham vọng muốn chinh phục đỉnh cao tri thức, nhận biết thế giới, do vậy đó là 1
sự đề cao trí tuệ con người độc đáo của Kant.
1.2.2Quan điểm chính trị - xã hội

14 | P a g e


- Thể hiện trong triết học thực tiễn, giải đáp câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” theo
nghĩa hẹp là đạo đức học theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động chính trị, văn
hóa, pháp quyền… của con người.
- Kant cho rằng các nhu cầu cảm tính của con người chỉ đưa con người tới chỗ
hưởng thụ cá nhân, phi đạo đức, ích kỷ vì thế trong đạo đức chỉ cần riêng lý tính để
kìm nén và hạn chế là đủ. Như vậy khi xây dựng quan điểm đạo đức của mình
Kant đã đứng trên lập trường duy lý.
- Phạm trù trung tâm của đạo đức học là tự do. Con người đồng thời sống ở 2 thế
giới, thế giới hiện tượng luận và thế giới “vật tự nó”. Với thế giới hiện tượng luận

nơi mà mọi cái phải tuân theo quy luật tất định thì tự do của con người chỉ có giới
hạn trong khôn khổ của giác tính. Với thế giới vật tự nó con người hoàn toàn tự do.
- với triết học thực tiễn (đạo đức và thẩm mỹ) Kant đã khẳng định những điều sau
đây.
+ Con người là 1 thực thể tự do:
Kant khẳng định rằng con người sinh ra vốn là thực thể tự do bởi nó có ý
thức đạo đức và nhờ có ý thức đạo đức đó mà có được sự cá thế hóa con người. Tự
do là đối tượng tập trung nhất để con người vươn tới, đồng thời là cơ chế điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người. So với nền triết học trước đây, triết học Kant
là nền triết học duy nhất khẳng định sự tự do của con người.
Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người không bị chi
phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi lý tính thực tiễn. Lý tính được gọi là
thực tiễn, theo Kant, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con
người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con
người. Kant gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. Ở đây, ý chí của
15 | P a g e


con người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những
nguyên nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc
về thượng đế. Theo Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật,
luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản
thân mình.
Kant kêu gọi phải kết hợp một cách hài hòa tri thức, lòng nhân ái và đạo
đức; mọi hoạt động của con người phải tuân theo quy tắc đạo đức. Theo ông con
người bắt đầu từ đạo đức, chính đạo đức đã thống nhất con người lại với nhau và
biến con người trở thành con người thực sự.
- Đạo đức học của Kant mang tính ko tưởng vì ông muốn xây dựng một nền đạo
đức chung, phi giai cấp, phi lịch sử. Tuy nhiên nó vẫn thấm đượm tinh thần nhân
đạo cao cả, phản ánh khát vọng của những lực lượng tiến bộ lúc bấy giờ là xóa bỏ

gong cùm của chế độ phong kiến hà khắc, xây dựng một xã hội mới mà có teher
đem lại tự do cá nhân cho con người nhiêu hơn.
+ Thượng đế là một niềm tin đạo đức
Thượng đế trong triết học của Kant không còn là một thế lực hoàn toàn đứng trên
con người chi phối cuộc sống và số phận của họ như trong triết học tây Âu trung
cổ từng khẳng định. Qua đó ông muốn nhắn nhủ với tất cả mọi người rằng: con
người có quyền hy vọng đến một ngày nào đó cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, xã
hội lý tưởng công dân toàn cầu sẽ thay thế cho xã hội công dân đương thời vốn
đang đầy áp bức, bất công và tàn bạo; con người có quyền hy vọng rằng bên ngoài
thế giời hiện tượng còn tồn tại một thế giới bí ẩn – nơi ngự trị của thượng đế, tự do
và linh hồn bất tử; con người cần tin vào sức mạnh của lý tính, trí tưởng tượng của
chính bản thân mình vì không có hai yếu tố này đời sống sẽ trở nên nghèo nàn và
cằn cỗi.
16 | P a g e


+ Con người là tiêu chuẩn của cái đẹp
Mỹ học Kant không chỉ xác lập một hướng nghiên cứu mới đối với các quan
hệ thẩm mỹ trong lịch sử tư tưởng mỹ học trước Mác, nó còn thông qua việc phân
tích các khả năng phán đoán mà bắc cầu cho các hoạt động nhận thức và hoạt động
đạo đức, bắc cầu giữa cái tất nhiên của tự nhiên với cái tự do của thế giới tinh thần .
Ở thẩm mỹ học con người đạt được cả tự do và tất yếu: tự do tuân theo sự sáng tạo
của cá nhân (vì nghệ thuật không có tự do sáng tạo là nghệ thuật chết) đồng thời
phải tuân theo cái tất yếu tức là các quy luật của cái đẹp.
Mỹ học Kant không nghiên cứu các hiện tượng thẩm mỹ khách quan, mà là
những tình cảm chủ quan được trải nghiệm qua thế giới khách quan. Ông đã tạo ra
một bước ngoặt quan trọng cho mỹ học cận đại bởi lẽ Kant đã đề cao thực tiễn tinh
thần, mở rộng năng lực tìm cái phổ biến cho cái cá biệt. Qua đó ông khẳng định
con người là tiêu chuẩn của cái đẹp. Cái đẹp và cái cao cả không phải nằm trong
bản thân sự vật khách quan mà nó phụ thuộc vào chủ thể cảm nhận (tức là con

người).
- Quan điểm về lịch sử:
lịch sử là quá trình con người thông qua hoạt động của mình để phát triển khả
năng và bản chất và đó cũng là lĩnh vực để con người thực hiện mục đích, lý
tưởng, đạo đức, vì thế lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Lịch sử là quá
trình thống nhất xa lạ với sự tái tạo của thiên chúa và các thế lực siêu nhiên. Lích
sử vận động theo quy luật nội tại và tất yếu của nó. Quan điểm này trong chừng
mực nào đó thể hiện quan điểm biện chứng về xã hội.
- Nhà nước ra đời là kết quả của mâu thuẫn nội tại trong sự phát triển của xã hội.
Nhà nước là sự liên kết mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm đảm bảo sự
bình đẳng cho mọi công dân với mục đích là giải tỏa những đối kháng xã hội, đảm
17 | P a g e


bảo cho sự phát triển của xã hội theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện về lợi ích
của con người.
- Xã hội phát triển trong tính nghịch lý của nó, Kant xem xung đột xã hội là động
lực thúc đẩy lịch sử. Kant cho rằng chiến tranh là điều cao cả nếu được tiến hành
một cách đúng đắn, mặt khác nó cũng hủy hoại chuẩn mực đạo đức bởi vậy chúng
không nhát thiết phải có. Ông mơ hành tinh sẽ trở thành ngôi nhà bình yên , hữu
nghị của tất cả các quốc gia.
*Những hạn chế trong triết học Kant
- Triết học Kant xây dựng trên thế giới quan duy tâm: Do đứng trên lập
trường duy tâm, nên Kant cũng không nhận thấy bước chuyển biện chứng giữa các
giai đoạn nhận thức trong quá trình nhận thức của con người. Khi nhấn mạnh vai
trò của trực quan cảm tính đối với nhận thức, Kant nhầm tưởng rằng đã khắc phục
được tính phiến diện của chủ nghĩa duy cảm lẫn chủ nghĩa duy lý. Trên thực tế ông
chỉ liên kết một cách máy móc hai thứ chủ nghĩa đó với nhau. Chính vì vậy, các
phạm trù của Kant chỉ là cách nói khác đi của “ý niệm bẩm sinh” của Đề-các-tơ,
“chân lý vĩnh cửu” của Lép-nit mà thôi.

Trong quan niệm về con người nói riêng và toàn bộ hệ thống triết học của
Kant nói chung, ông đã cố gắng khắc phục những hạn chế mang tính cực đoan giữa
chủ nghĩa duy lý và duy cảm. Tuy nhiên ở cả con người lý tính, đạo đức và thẩm
mỹ, Kant đều nêu ra những nghịch lý không thể giải quyết ngay ở nấc thang cao
nhất của tư duy lý luận - lý trí, mà điều đó theo Lê-nin lại là biểu hiện của thuyết
bất khả tri. Do vậy chúng ta có thể nói học thuyết của Kant vừa thể hiện khát vọng
vừa là nỗi thất vọng của con người. Ông đã vạch ra giới hạn nhận thức rất rõ ràng
cho con người. Ông rất đề cao sức mạnh trí tuệ của con người nhưng khi chạm đến
cánh cửa “vật tự nó” thì sức mạnh ấy hoàn toàn vô dụng.
18 | P a g e


Triết học của Kant thiếu quan điểm thực tiễn (nhất là thực tiễn lao động sản
xuất). Các quan điểm chính trị - xã hội của ông là tiến bộ, nhân đạo song nó không
tưởng phi thực tế. Vì ông không tháy được vai trò của kinh tế, cuả hoạt động sản
xuất vật chất trong tiến trình phát triển của lịch sử. Ông đồng nhất lĩnh vực đạo đức
với thực tiễn, do đó tư tưởng của ông thiếu tính thực tiễn với tư cách là hoạt động
sản xuất vật chất. vì vậy cuốc cách mạng mà ông thực hiền chỉ là cuộc cách mạng
trên tinh thần mà thôi, nó thể hiện sự thỏa hiệp của GCTS Đức với nhà nước phong
kiến Phổ.
Triết học của Kant thể hiện sự thỏa hiệp với nhà nước phong kiến Phổ: Bên
cạnh giá trị nhân văn quan điểm về con người của Kant bộc lộ rõ nét tình trạng xã
hội và vị trí của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII. Nguyên lý duy tâm “mệnh
lệnh tuyệt đối” là sự biến hình các ý tưởng của chủ nghĩa tự do chính trị tư sản gắn
liền với tính ảo tưởng về tính phổ quát. Những gì mà với giai cấp tư sản Anh và
Pháp chúng được xem là tư tưởng cho hành động kinh tế - chính trị thực tiễn, thì ở
Kant đã biến thành một nguyên tắc lý tính thuần túy, có hiệu lực vĩnh hằng vượt
qua mọi thời đại và mọi kinh nghiệm. Tính chất của mệnh đề đạo đức theo ông
nằm trong sự tự trị của lý tính. Mặc dù vậy, Kant đã thỏa hiệp về mặt lý thuyết với
tôn giáo, chứng minh sự tồn tại của chúa và coi đó như một định đề của lý tính

thực hành, như một tất yếu tư duy chủ quan của con người. Ý đồ tạo dựng một quy
luật đạo đức có giá trị tuyệt đối cho mọi thời đại là một sự ảo tưởng.
2. Giooc Vin hem Phri đrích Hê ghen (1770 - 1831)
2.1 Tiểu sử
Hê ghen là nhà biện chứng lỗi lạc, một trong những nhà triết học vĩ đại nhất
của nhân loại, bậc tiến bối của triết học Mác. Ăng ghen đã nhận xét: “Hê ghen

19 | P a g e


không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là 1 nhà bác học có tri thức bách khoa,
nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại”.
Hê ghen sinh ra ở thành phố Stut-ga thuộc Đức trong một gia đình quan
chức cao cấp.
2.2 Nội dung triết học Hegel
2.2.1 Hiện tượng học tinh thần - một số nguyên lý bước đầu xây dựng hệ
thống triết học Hegel.
2.2.1.1 Thế giới quan
- Điểm xuất phát, quan điểm nền tảng của hệ thống triết học Hegel là tinh
thần tuyệt đối, hay ý niệm tuyệt đối, ý thức thượng đế.
- Hegel cho rằng: tinh thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra
giới tự nhiên, con người và cả lịch sử xã hội.
- Tinh thần tuyệt đối được coi là thực thể của mọi sự vật trong tự nhiên và xã
hội.
- con người là biểu hiện sự sáng tạo cao nhất của tinh thần tuyệt đối. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới của con người cũng chính là công cụ để ý niệm
tuyệt đối thể hiện mình.
Nhận xét?
Ngay từ thế giới quan, Hegel đã bộc lộ lập trường duy tâm khách quan, như
Mác đã nói: tinh thần tuyệt đối thực chất là ý thức xã hội được thần thánh hóa.

Theo Lê nin, tinh thần tuyệt đối này là sự thần bí hóa, thần thánh hóa ý thức con
người. Nó như thượng đế trong thiên chúa giáo.
20 | P a g e


Hình thức phát triển cao nhất của tinh thần tuyệt đối là tư duy khái niệm.
Nhận thức khái niệm (nhận thức lý luận) là nhận thức cao nhất của con người.
Khái niệm là bản chất của sự vật, là linh hồn của sự vật. Sự vật phải phù hợp với
khái niệm của nó chứ không phải ngược lại.
2.2.1.2 Nguyên lý phát triển
- khác với quan điểm siêu hình, Hegel coi phát triển không đơn thuần là tăng
lên hay giảm đi về lượng, hay chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong không gian. Ông
hiểu phát triển là quá trình biện chứng, trong đó liên tục diễn ra sự thay thế của cái
mới đối với cái cũ trên nguyên tắc kê thừa, lọc bỏ. Ông viết:
“ Cái nụ hoa biến mất khi hoa nở và có thể nói rằng, nó bị hoa phủ định; và
tương tự như vậy có thể nói khi quả xuất hiện thì sự tồn của hoa được coi là vô lý,
thay thế cho sự tồn tại hợp lý trước đây của hoa thì bây giờ là quả”.
Những hình thái trên đây không chỉ khác nhau, mà còn bài trừ, không dung
hợp nhau. Tuy nhiên bản chất sống động làm cho chúng trở thành những yếu tố
của một chỉnh thể hữu cơ. Trong đó chúng không những không mâu thuẫn nhau
mà cái này cũng tất yếu như cái kia, mà chỉ có tính tất yếu như nhau như thể tạo
nên cuộc sống của chỉnh thể.
Xuất phát từ quan điểm coi phát triển như một một quá trình biện chứng,
trong đó diễn ra liên tục những sự phủ định, Hegel đã lấy quy luật phủ định của
phủ định làm nguyên tắc xây dựng hệ thống triết học của mình, nhằm thế hiện quá
trình phát triển của ý niệm tuyệt đối, đó là tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp
đề.
Kết luận

21 | P a g e



Do vậy hiện tượng học tinh thần thể hiện logic phát triển của nó qua 3 giai
đoạn:
+ Tinh thần chủ quan ( Tinh thần thuần túy, tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn
sơ khai của nó).
+ Tinh thần khách quan (là giới tự nhiên, giai đoạn tinh thần tuyệt đối tha
hóa bản thân nó, tồn tại dưới dạng sự vật tự nhiên).
+ Tinh thần tuyệt đối (là sự thống nhất giữa tinh thần chủ quan và tinh thần
khách quan).
Sự vận động của tinh thần tuyệt đối qua 3 giai đoạn cơ bản, thực chất là sự
giải thích một cách trừu tượng, thần bí hóa hoạt động nhận thức của con người.
Con người chỉ trở thành chủ thể trong chừng mực con người có năng lực tinh thần.
Thế giới tự nhiên, lịch sử chỉ có thể được hiện ra với tính cách là cái được
nhận thức, được sinh thành chỉ trong chừng mực phát triển của các năng lực tinh
thần của con người.
Mặt khác tư duy, ý thức của con người hình thành và phát triển trong chừng
mực con người nhận thức và cải tạo tự nhiên, tại tạo xã hội, biến tự nhiên từ cái đối
lập với mình, thành cái của mình và bằng cách đó con người làm chủ tự nhiên.
Trong “hiện tượng học tinh thần” mặc dù dưới hình thức duy tâm thần bí.
Song Hegel đã tiếp cận được với quan điểm coi nhân cách ý thức con người là sản
phẩm của lịch sử.
Nhiệm vụ của “Hiện tượng học tinh thần” là tái hiện lại toàn bộ tiến trình
lịch sử của nhân loại đã trải qua dưới dạng phát triển của ý thức nhân loại đã trải

22 | P a g e


trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới từ thời tiền sử đến thời đại
của ông.

+Thời tiền sử con người mới chỉ có nhận thức cảm tính, họ nhìn thế giới như
là cái gì đó xa lạ, hoàn toàn đối lập với mình.
+ Đến thời cổ đại (chế độ chiếm hữu nô lệ ) thì con người mới có được tự ý
thức.
+ Thời trung cổ, theo Hegel ý thức con người là bất hạnh vì con người chỉ
biết tuân theo chúa mà từ bỏ đời thường nhưng mặt khác, con người cảm thấy hạnh
phúc vì họ được gần gũi với chúa.
+ chỉ sau thời kỳ trung cổ, do sự phát triển của khoa học và khai sáng, lý tính
với tính cách là khả năng trí tuệ cao nhất của con người mới được phát triển.
“Hiện tượng học tinh thần mới chỉ bước đầu xây dựng những nguyên lý của
hệ thống triết học đồ sộ của ông sau này. Trong tác phẩm ấy, toát lên tư tưởng chủ
đạo:
1- Tư duy, ý thức con người chỉ phát triển trong mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, trong đó, con người với hoạt động của mình đóng vai trò là chủ thể
sáng tạo thế giới, đồng thời thông qua hoạt động của mình đối với khách thể để
sáng tạo chính bản thân mình.
2- Ý thức của con người là sản phẩm của tiến trình lịch sử nhân loại, là hiện
thân của ý thức tuyệt đối. Hoạt động của con người càng phát triển bao nhiêu thì ý
thức con người càng mang bản chất xã hội bây nhiêu.

23 | P a g e


Hegel xây dựng hệ thống triết học của mình phù hợp với các giai đoạn phát
triển của tinh thần tuyệt đối: tinh thần - giới tự nhiên - con người và xã hội. Ý niệm
tuyệt đối tồn tại và vận động phát triển qua 3 giai đoạn
YNTĐ (vận động tồn tại trong chính
nó lúc này chưa nhận thức được khi
ấy nó là đối tượng nghiên cứu của
logic học

Tha
hóa

Tha
hóa

-

Con người (là động vật xã hội có tư
duy , con người nhận thức được bản
chất của mình là YNTĐ - khi đó nó là
đối tượng nghiên cứu của triết học
tinh thần

Tha hóa

Giới tự nhiên (khi ấy nó là đối tượng
nghiên cứu của triết học TN. Giới tự
nhiên phát triển đến 1 mức độ nào
đó sẽ tha hóa thành con người)

2.2.2 Khoa học logic
Trên cơ sở phê phán và tiếp thu logic học trước đây Hegel đã xây dựng một
hệ thống logic riêng.
Theo Hegel, từ trước tới giờ, triết học vẫn chưa có một phương pháp luận
riêng của mình mà vẫn dựa vào các khoa học khác. Vì thế khoa học logic phải đem
lại cho triết học một phương pháp luận mới tức là phép biện chwunsg với tính cách
là học thuyết về sựu phát triển, làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan của con
người.
a. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học logic

- Tư duy chính là đối tượng nghiên cứu của logic học

24 | P a g e


- Tư duy chính là tư tưởng thuần túy, tinh thần tuyệt đối (hay dưới khía cạnh
là Chúa)
- Tư duy không phải theo nghĩa hẹp là trong phạm vi ý thức cá nhân mà theo
nghĩa rộng, đó là tinh thần tuyệt đối sáng tạo cả thể giới, tự nhiên, con người, xã
hội.
Hegel khẳn định giới tự nhiên cũng chính là sự thể hiện dưới dạng vật chất
của tư duy khách quan.
-

Logic học được trình bày thành 3 phần: học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản

-

chất và học thuyết về khái niệm.
+ học thuyết về tồn tại ----- quy luật lượng chất
+ học thuyết về bản chất ----- quy luật mâu thuẫn
+ học thuyết về khái niệm ----- quy luật phủ định của phủ định
Hegel phát hiện ra logic nhận thức của con người là đi từ tồn tại đến bản chất rồi
đến khái niệm.
b. Đặc điểm phương pháp
- Hệ thống triết học của Hegel đã bác bỏ phương pháp siêu hình, ông coi logic
học là biện chứng của khái niệm.
- Theo Hegel sự vận động tiến lên của các khái niệm bị quy định bởi những tính
chất tất yếu của mối quan hệ giữa các khái niệm ấy và sự xuất hiện của những
khác biệt, mâu thuẫn bên trong của những khái niệm ấy. Những khái niệm có

thể phát triển biện chứng được là nhờ chúng mang trong lòng chúng sự phủ
định bản thân chúng. Hegel đề ra 2 yêu sách chủ yếu
1. Sự tất yếu của mối liên hệ
2. Sự xuất hiện nội tại của sự khác biệt
Nội dung hợp lý trong phương pháp của Hegel ở chỗ, ông cho rằng mọi sự vật
đều liên hệ với nhau làm trung giới cho nhau, rằng những mối liên hệ ấy có tính
biện chứng và tất yếu. Ông mô tả khái niệm này được 1 khái niệm khác “trung
giới” có nghĩa là các khái niệm không đứng cô lập mà bị ràng buộc trong mối

25 | P a g e


×