Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện phú lương, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.35 KB, 116 trang )

TRẦN THÚY AN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ^
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TÉ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


TRẦN THÚY AN

NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TÉ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Phát triển nông thôn
Mã số: 60 62 01 16

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Lan


3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đã được trích dẫn và ghi rõ nguồn


gốc.
Tác giả

LỜI CẢM ƠN

Trần Thuý An

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tôi đã được sự quan tâm,
giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân đây:
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu, Bộ phận Sau Đại học, Ban
chủ nhiệm Khoa KT&PTNT cùng các thầy cô Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện về mọi mặt để tôi thực hiện đề tài này. Đặc biệt
tôi xin cảm ơn PGS.TS. Đinh Ngọc Lan, đã hướng dẫn chỉ bảo tận tình và đóng góp nhiều ý
kiến quý báu cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể gồm: Huyện uỷ Phú
Lương, UBND huyện Phú Lương, Phòng LĐ-TB &XH huyện Phú Lương, Phòng Thống kê
huyện Phú Lương, Phòng Nông nghiệp huyện Phú Lương, Các tổ chức hội đoàn thể huyện
Phú Lương, UBND các xã Cổ Lũng, Phủ Lý, Yên Ninh.
Cuối cùng tôi xin trân thành cảm ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè, những người đã
chia sẻ, động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn
thành tốt luận văn của mình.


4

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu của các tập thể và cá
nhân đã dành cho tôi.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn


Trần Thuý An
MỤC LỤC

3.3.1..........................................................................................................................
3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát


DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viêt tăt
BQ
CC

Bình quân Cơ cấu
Cựu chiến binh

CCB

Công nghiệp hóa

CNH

Công nhân viên chức

CNVC

Nghĩa

Cùng kỳ

CK


Chỉ thị

CT

Diện tích

DT

Đơn vị tính

ĐVT

Gender Development Index - Chỉ số phát triển giới

GDI

Chỉ số phát triển con người

HDI

Hiện đại hóa

HĐH

Hội đồng nhân dân

HĐND
KH
KHKT



Kế hoạch
Khoa học kỹ thuật
Lao động
Lao động - Thương binh và xã hội Liên hiệp phụ nữ

LĐ-TB&XH

Người cao tuổi

LHPN NCT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NN & PTNT NQ

Nghị quyết

NS NST QĐ

Năng suất

THCS THPT TTg
TW UBND

Nhiễm sắc thể
Quyết định
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

Thủ tướng
Trung ương
Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 3.1. Diện tích đất phân theo loại đất và theo xã, thị trấn của huyện

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay không chỉ biết đến việc gia đình, sinh con đẻ cái, mà
trong điều kiện lịch sử kinh tế nước ta, chị em luôn luôn làm tròn nhiệm vụ của người lao
động chân chính, người vợ, người mẹ, người nội trợ trong gia đình, chăm sóc con cái, người
già và trong thời chiến họ đã làm tròn nhiệm vụ của người dân yêu nước, người nữ chiến sĩ.
Ngày nay, kế thừa những phẩm
truyền

thống,

chất tốt đẹp

phụ nữ

của


Việt

người

phụ

nữ

Nam

ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong gia đình và ngoài xã hội.
Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc xây dựng
đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục
đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, phụ nữ ngày
càng có nhiều cơ hội tổ chức hoặc tham gia các hoạt động lao động sản xuất để tạo thu nhập
kinh tế cho gia đình. Hiện nay, kinh tế hộ gia đình đã và đang đóng vai trò trọng yếu trong
những thành công của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế hộ gia đình luôn hướng vào chủ hộ - thường là nam giới, do vậy nam giới
ở nông thôn trên thực tế đã được hưởng nhiều thành quả của việc trao quyền hơn hẳn phụ
nữ. Mặc dù bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường ở điểm

xuất

như

nữ trở

nam giới, xong có rất


ít

phụ

phát tương tự

thành chủ trang trại hoặc chủ doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn. Kinh tế của gia đình là một
trong những lĩnh vực rất quan trọng trong sự ổn định gia đình nói riêng và sự phát triển của
xã hội nói chung. Lĩnh vực ấy quy định gia đình không những là một đơn vị tiêu dùng, mà
còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của các thành viên trong gia
đình và góp phần làm giàu cho xã hội, phục vụ đời sống, với quy mô nhỏ, với nhiều ngành
nghề và nhiều hình thức tổ chức. Với tư cách là người tham gia và là chủ thể các hoạt động
lao động sản xuất ra của cải vật chất, người phụ nữ góp phần quan trọng trong việc đảm bảo
các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của gia đình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc ghi
nhận sự đóng góp của hai giới chưa thực sự xứng đáng và phụ nữ vẫn là đối tượng yếu thế


8

hơn về cơ hội việc làm, tiền lương, thu nhập, cơ hội thăng tiến,.... Đặc biệt, phụ nữ và trẻ
em gái nghèo, sống ở vùng sâu, vùng xa, người tàn tật hay dân tộc thiểu số tiếp tục là những
đối tượng chịu thiệt thòi.
Phụ nữ huyện Phú Lương đã và đang có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh
tế- xã hội của toàn huyện, họ đã nhận thức và phát huy vai trò của mình trong sản xuất nông
nghiệp, các ngành kinh tế phi nông nghiệp, các hoạt động xã hội và cộng đồng nông thôn.
Tuy nhiên, sự đóng góp của phụ nữ lại chưa được ghi nhận một cách xứng đáng, chưa
tương xứng với vị trí, vai trò của họ trong nền kinh tế, trong các quan hệ xã hội và trong đời
sống gia đình. Vì

vậy việc tìm


huyện

Lương,

Phú

hiểu về

vai trò

của phụ

nữở

tỉnh

Thái Nguyên trong phát triển kinh tế hộ gia đình, những cản trở sự tiến bộ của phụ nữ trong
quá trình đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn, để từ đó đề xuất một số giải pháp có tính
khả thi nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng này, nâng cao bình đẳng giới qua đó
thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo xu hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa là một phần trong chiến lược phát triển.
Xuất phát

từ tính cấp thiết nêu trên và

sự nhận thức sâu sắc về những

tiềm năng to lớn của phụ nữ, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu vai trò của phụ
nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái

Nguyên".

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu chung
Đánh giá được thực trạng hoạt động của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ nông thôn

và đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy tiềm năng về mọi
mặt để phát triển kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống gia đình, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội huyện Phú Lương.
2.2.
Mục tiêu cụ thể

-

Hệ thống

hoá được cơ

sở lý luận và thực

nữ
trong phát triển kinh tế hộ nông thôn miền núi.

tiễn về vai trò của phụ


9


-

Phân tích và đánh giá được thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ nông
thôn tại huyện Phú Lương.

-

Tìm hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ
nông thôn tại huyện Phú Lương.

-

Đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế nông thôn miền núi trên địa bàn huyện Phú Lương.

3. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu

này nhằm trả lời các câu

hỏi sau đây liên quan

đến vai trò

của phụ nữ nông thôn ở huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

(1) Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay như thế nào?
(2) Thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay ra sao?
(3) Những yếu tố thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy vai trò phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế là gì?


(4) Giải pháp nào nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá trình nâng cao năng lực cho phụ
nữ ?

4. Ý nghĩa của đề tài
4.1.
Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên

cứu của đề tài là

tư liệu khoa học hữu ích cho việc

nghiên cứu, tham khảo trong việc giảng dạy, học tập tại các trường, các viện nghiên cứu về
phát triển nông thôn.

4.2.

Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nhiên cứu của đề tài sẽ là tư liệu cho chính quyền địa phương, các cấp, các

ngành của huyện Phú Lương nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói
chung sử dụng cho việc nâng cao và phát huy vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển
kinh tế hộ gia đình tại các xã trên địa bàn huyện và tỉnh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng sẽ là cơ sở cho các nhà hoạch định chính
sách, các Bộ, Ngành có liên quan xem xét trong việc điều chỉnh, bổ sung cơ chế
chính sách trong việc nâng nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế hộ gia đình tại các xã trong cả nước.



Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.

Cơ sở khoa học

1.1.1.

Giới tính và Giới

ỉ.ỉ.ỉ.ỉ. Khái niệm Giới tính và Giới
Giới tính và giới thường bị nhầm lẫn với nhau. Nhưng thực chất, hai khái niệm này
lại khác nhau ở hai phương diện cơ bản đó là: sinh học và xã hội.
* Giới tính:

-

Theo Tổ chức lao động quốc tế: giới tính chỉ sự khác biệt về sinh học giữa nam giới và nữ
giới mang tính toàn cầu và không thay đổi. [18]
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ ra rằng: giới tính là một thuật
ngữ chỉ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới xét về mặt sinh học, sự khác biệt căn bản về
hình dáng bên ngoài của cơ thể, sự khác nhau về chức năng sinh học tạo nên vai trò của giới
tính như: phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú
học, nam và

nữ

bằng sữa


mẹ. Về mặt sinh

không

giống

nhau trên nhiều phương diện nhưng chủ yếu nhất là hình dáng, giọng nói và chức năng sinh
sản. [13]

-

Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất, bị quy định và hoạt động theo các cơ chế tự nhiên, di
truyền. Chẳng hạn như: người có cặp NST giới tính XX thì thuộc về nữ giới, người có cặp
NST giới tính XY thì thuộc về nam giới. Ngay từ trong bào thai, hoóc môn, nhiễm sắc thể,
bộ phận sinh dục...của nam giới và nữ giới khác nhau, được quy định bởi tự nhiên, không
theo và không phụ thuộc vào mong muốn của con người. Đồng thời, chức năng sinh sản của
nữ giới hay nam giới là không thể thay thế, thay đổi hay chuyển dịch cho nhau.

-

Nam giới hay nữ giới trên khắp thế giới đều có có chức năng/cơ quan sinh sản giống nhau,
đều tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình sinh sản như nhau. Đây được gọi
là tính đồng nhất. Sự khác biệt về giới tính hầu như bất biến cả về thời gian cũng như về
không gian. [9]
* Giới:


Theo Tổ chức lao động quốc tế, Thúc đẩy bình đẳng giới, năm 2002: sự khác biệt về
xã hội và quan hệ (quyền lực) giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới, được
hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi theo

thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu
cầu, khó khăn, thuận lợi của các giới tính. [18]
Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội, sự khác nhau do xã hội quyết
định, các mối quan hệ do xã hội xác lập. Vai trò của giới được xác định bởi các đặc tính xã
hội, văn hóa và kinh tế, được nhận thức bởi các thành viên trong xã hội đó. Do vậy vai trò
của giới có sự biến động và thay đổi qua không gian và thời gian. [14]
Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc
điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được.
Giới có thể là khái niệm dùng để chỉ các đặc trưng xã hội của nam và nữ. Đây là tập
hợp những hành vi ứng xử về mặt xã hội, những mong muốn về những đặc điểm và năng
lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc phụ nữ trong xã hội hay nền văn hóa cụ thể nào
đó. [5]
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, khái niệm về “Giới” được xuất hiện ở các nước
nói tiếng Anh. Sau đó nhanh chóng trở thành một phương pháp tiếp cận khoa học được
nghiện cứu và vận dụng trong việc xây dựng các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã
hội của nhiều quốc gia.
Đối với Việt Nam, Khoa học về Giới xuất hiện vào cuối những năm 1980 với nhiều
bài viết, công trình nghiên cứu về giới và các vấn đề của phụ nữ. Thuật ngữ “Giới” bắt
nguồn từ môn nhân khẩu học, nó đề cập đến phân công lao động, vai trò, trách nhiệm và
quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ.
Yếu tố “Giới” là sản phẩm của xã hội, có tính xã hội, dùng để phân biệt sự khác nhau
trong quan hệ nam và nữ, do vậy nó luôn biến đổi phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội cụ thể.
Giới phản ảnh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội. Những sự khác biệt


này là do quá trình học mà thành, đa dạng, và có thể thay đổi. Chúng thay đổi theo thời
gian, từ nước này sang nước khác, từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác trong một bối
cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định.
Giới và giới tính là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giới tính là tiền đề sinh

học của giới, là dấu hiệu đầu tiên và lâu dài để phân biệt nam, nữ. Hiểu rõ vai trò của giới
và giới tính trong mối quan hệ qua lại là điều cần thiết để tổ chức và triển khai sự phân công
lao động hợp lý.

1.1.1.2.

Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới

* Đặc điểm giới:
-

Không tự nhiên mà có

-

Học được từ gia đình và xã hội

-

Đa dạng (khác nhau giữa các vùng miền)

-

Có thể thay đổi được

* Nguồn gốc giới
-

Trong gia đình, ngay từ khi sinh ra, đứa trẻ đã được đối xử tùy theo chúng là trai hay gái.
Những sự khác nhau đó có thể là: về đồ chơi, quần áo, tình cảm của ông bà, bố mẹ, anh chị.

Đứa trẻ được dạy dỗ và điều chỉnh hành vi của chúng theo giới tính của mình.

-

Trong nhà trường, các thầy cô giáo cũng định hướng theo sự khác biệt về giới cho học sinh.
Học sinh nam được hướng theo các ngành kỹ thuật, điện tử, các ngành cần có thể lực tốt.
Học sinh nữ được hướng theo các ngành như may, thêu, trang điểm, các ngành cần sự khéo
léo, tỷ mỷ.

* Sự khác biệt về giới:
Phụ nữ được xem là phái yếu, vì họ sống thiên hơn về tình cảm, họ là thành phần
quan trọng tạo nên sự yên ấm trong gia đình. Thiên chức của phụ nữ là làm vợ, làm mẹ nên
họ gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới và cũng từ đó mối quan tâm của họ cũng có
phần khác nam giới.
Nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Họ cứng rắn hơn về tình cảm,


mạnh bạo và năng động hơn trong công việc. Đặc trưng này cho phép họ dồn hết tâm trí vào
lao động sản xuất., vào công việc xã hội, ít bị ràng buộc bởi con cái và gia đình. Chính điều
này đã làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội.
Hơn nữa, nam giới và nữ giới lại có xuất phát điểm không giống nhau để tiếp cận cái
mới, họ có những thuận lợi, khó khăn với tính chất và mức độ khác nhau để tham gia vào
các chương trình kinh tế, từ góc độ nhận thức, nắm bắt các thông tin xã hội. Trong nền kinh
tế hội nhập quốc tế, từ điều kiện và cơ hội được học tập, tiếp cận việc làm và làm việc, từ vị
trí trong gia đình, ngoài xã hội khác nhau, từ tác động của định kiến xã hội, các hệ tư tưởng,
phong tục tập quán đối với mỗi giới cũng khác nhau.

1.1.1.3.
*


Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới

Nhu cầu giới (còn gọi là nhu cầu thực tế): là những nhu cầu xuất phát từ công việc và hoạt
động hiện tại của phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu cầu này được đáp ứng thì sẽ giúp cho
họ làm tốt vai trò sẵn có của mình. [1]
Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu được hình thành từ những điều kiện cụ thể mà
phụ nữ trải qua. Chúng nảy sinh từ những vị trí của họ trong phân công lao động theo giới,
cùng với lợi ích giới thực tế của họ là sự tồn tại của con người. Khác với nhu cầu chiến
lược, chúng được chính phụ nữ đưa ra từ vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên
ngoài. Vì vậy nhu cầu giới thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết được nhận
thức ngay do phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể.

* Lợi ích giới (còn gọi là nhu cầu chiến lược): là những nhu cầu của phụ
nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi ích này khi
được

đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam

giới theo

hướng bình đẳng. [1]

* Bĩnh đẳng giới:
-

Theo Trần Thị Vân Anh: nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau, cùng được công
nhận và có vị thế bình đẳng. [1]

-


Khái niệm Bình đẳng giới: là môi trường trong đó cả nữ giới và nam
giới được hưởng vị trí ngang nhau, họ có các cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm


năng của

mình nhằm

cống hiến

cho sự phát triển quốc gia và

được hưởng lợi từ các kết quả đó. [9]
Nam giới và phụ nữ được bình đẳng về:

-

Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng.

-

Các cơ hội để tham gia đóng góp, hưởng lợi trong quá trình phát triển.

-

Quyền tự do và chất lượng cuộc sống.
Bên cạnh quy định về những quyền và nghĩa vụ chung, bình đẳng cho cả nam và nữ,
pháp luật còn xác định những đặc quyền chỉ áp dụng cho phụ nữ nhằm bù đắp cho phụ nữ
những thiệt thòi, đặt họ vào vị trí xuất phát ngang bằng với đàn ông trong các quan hệ xã
hội, đảm bảo cho họ có thể tiếp nhận các cơ hội và thụ hưởng các quyền một cách bình

đẳng như nam giới. Đây là quan điểm bình đẳng giới thực chất. [16]
Luật Bình đẳng giới (2006) tại Điều 5 chỉ rõ: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí,
vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
[11]
Với một xã hội hiện đại như ngày nay, bình đẳng giới cần phải gắn với quan điểm
phát triển, sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Điều này thể hiện ở việc tôn trọng
giá trị nhân phẩm của nam giới cũng như nữ giới trong những đóng góp của họ đối với xã
hội và gia đình. Đồng thời, cả hai giới đều có trách nhiệm, chia sẻ với nhau trong thực hiện
công việc gia đình và công việc chung của xã hội.
Trong xã hội, nếu cả phụ nữ và nam giới cùng được tạo điều kiện để phát huy hết khả
năng thực hiện các mong muốn, được tham gia, đóng góp và hưởng thụ các nguồn lực và
thành quả trong quá trình phát triển của xã hội, được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống
như nhau thì xã hội đó đã đạt được bình đẳng giới. Còn ngược lại, nếu những tiêu chí này
chưa được xác lập thì chứng tỏ rằng xã hội đó đang tồn tại bất bình đẳng giới.

1.1.1.4.

Vai trò của gi ới
Trong cuộc sống, cả nam và nữ đều tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội,

tuy nhiên mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công việc là khác nhau do những
quan niệm, các chuẩn mực xã hội quy định. Những công việc mà họ đảm nhận được gọi là


vai trò giới. Các vai trò giới đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo thời
gian (tương ứng với sự thay đổi của các điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi theo sự thay
đổi trong quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc không chấp nhận một hành
vi ứng xử vai trò nào đó).
Vai trò giới: là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam và nữ liên quan

đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về
phụ nữ (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong một xã hội hoặc một nền văn hoá cụ thể nào đó.
Vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội.
Phụ nữ và nam giới thường có 3 vai trò giới như sau: Vai trò sản xuất, vai trò tái sản
xuất và vai trò cộng đồng. [15]
- Vai trò sản xuất: Là các hoạt động mà cả phụ nữ và nam giới đều có thể tham gia
nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần để tạo ra thu nhập hoặc để tự nuôi sống. Đây là
những hoạt động tạo ra thu nhập, được trả công. Tuy nhiên do
kiến

trong xã

hội

nên mức độ tham gia

những

định

của họ không

như nhau và giá trị công việc họ làm cũng không được nhìn nhận như nhau. Xã hội coi
trọng và đánh giá cao vai trò này.

-

Vai trò tái

sản xuất bao gồm các hoạt


động tái sản xuất dân số và

sức

lao động như sinh con, các công việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con, nấu ăn,
dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình... Những hoạt động này tiêu tốn nhiều thời
gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy mà ít khi được coi là “công việc thực sự”, được
làm miễn phí. Hầu hết phụ nữ và trẻ gái đóng vai trò và trách nhiệm chính trong các công
việc tái sản xuất.

-

Vai trò cộng đồng: bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ, các công việc nhằm
đảm bảo và duy trì các nguồn lực để sử dụng chung nguồn nước, vệ sinh đường làng ngõ
xóm, tham gia lễ hội của làng bản, tham dự các đám hiếu hỉ.Công việc cộng đồng có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hoá tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi
sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại
được trả công và có thể nhìn thấy được như thăm hỏi động viên gia đình bị nạn trong thảm
họa, thiên tai; nấu cơm hoặc bố trí nhà tạm trú cho những gia đình bị mất nhà ở, huy động


cộng đồng đòng góp lương thực, thực phẩm cứu trợ người bị nạn.
Không thể phủ nhận một điều: cả nam và nữ đều có những đóng góp nhất định thông
qua các vai trò trên. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, việc thể hiện vai trò giữa hai
còn có

sự

khác


biệt rõ rệt. Phụ nữ hầu như đều

giới
phải đảm

nhiệm vai trò tái sản xuất đồng thời cũng phải tham gia tương đối nhiều vào vai trò sản
xuất. Gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ khiến họ ít có cơ hội tham gia vào các hoạt
động cộng đồng. Do vậy, nam giới có nhiều thời gian và cơ hội hơn để đảm nhận vai trò
cộng đồng và rất ít khi tham gia vào các hoạt động tái sản xuất.
Trên thực tế, đặc điểm giới tính là một trong những cơ sở để phân công lao động
trong một xã hội nhất định. Do đó, khi xem xét vai trò giới chính là xem xét phụ nữ và nam
giới trong 3 vai trò: vai trò sản xuất, tái sản xuất, cộng đồng. [15]
Định kiến giới
Theo Từ điển Tiếng Việt: Định kiến chính là những ý nghĩ riêng đã có sẵn, khó có
thể thay đổi được. [23]
Theo Khoản 4, Điều 5, Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì định kiến giới là nhận thức,
thái độ và sự đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam
hoặc nữ. [11]
Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả
năng làm và loại công việc mà họ có thể làm và nên làm; là tập hợp các đặc điểm mà một
nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới hay nữ giới.
Ngày nay, định kiến giới đã có sự tiến bộ song vẫn còn tồn tại khiến cho giới nam và
giới nữ chịu nhiều áp lực trong việc thực hiện vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của mình
trong cuộc sống.

1.1.1.6.

Nhạy cảm giới
Nhạy cảm giới là nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về các nhu cầu, vai trò, trách


nhiệm khác nhau mang tính xã hội của phụ nữ và nam giới nảy sinh từ những đặc điểm sinh
học vốn có của họ. Đồng thời hiểu được điều này dẫn đến khác biệt giới về khả năng tiếp
cận, kiểm soát nguồn lực và mức độ tham gia, hưởng lợi trong quá trình phát triển của nam


và nữ.

1.1.1.7.

Trách nhiệm giới
Trách nhiệm giới là có nhạy cảm giới và có những biện pháp hoặc hành động thường

xuyên, tích cực và nhất quán trong công việc để loại trừ nguyên nhân bất bình đẳng giới
nhằm đạt được bình đẳng giới.
Hay nói cách khác, đó là việc nhận thức được các vấn đề giới, sự khác biệt giới và
nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra biện pháp tích cực nhằm giải quyết và khắc phục mọi bất
bình đẳng trên cơ sở giới. [22]

1.1.1.8.

Số liệu có tách biệt giới
Số liệu giới là số liệu tách biệt nam, nữ trong các chỉ tiêu, các lĩnh vực cụ thể. Các số

liệu này cho thấy mức độ của các khoảng cách giới và được thể hiện dưới nhiều dạng bảng
biểu khác nhau. Số liệu giới chỉ cho thấy sự khác biệt giữa nam và nữ mang tính định lượng
bằng con số hoặc tỷ lệ cụ thể mà không cho biết tại sao lại tồn tại những khác biệt đó.

1.1.2.


Phát triển kinh tế hộ gia đình

Ỉ.Ỉ.2.Ỉ. Khái niệm về phát triển và phát triển kinh tế
* Phát triển: là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự tăng thêm về
quy mô sản lượng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống.

-

Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng: Phát triển không chỉ bao gồm tăng trưởng kinh tế mà
còn phải bao gồm cả thu hẹp sự bất bình đẳng, xoá bỏ đói nghèo, cải cách cơ cấu xã hội và
thể chế quốc gia để đảm bảo quyền lợi của đa số dân cư tham gia hoạt động chính trị - kinh
tế - xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và trình độ văn hoá của đa số nông dân. Trọng tâm phát
triển là sự phát triển con người, tức là đảm bảo đời sống con người, tôn trọng con người, tạo
mọi điều kiện để hộ tham gia hoạt động về các mặt văn hoá - kinh tế - chính trị - xã hội. [3]

* Phát triển kinh tế: có thể hiểu là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ
cấu kinh tế xã hội. [3]
Ỉ.Ỉ.2.2. Khái niệm về nông thôn:


Nông thôn là phần lãnh thổ của một nhà nước hay một đơn vị hành chính nằm ngoài
lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt
với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp. Ỉ.Ỉ.2.3. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình,
kinh tế hộ nông dân.

* Hộ

gia đình: Có ba tiêu


thức chính thường được nói

đến khi định

nghĩa khái niệm hộ gia đình:

-

Có quan hệ huyết thống và hôn nhân

-

Cùng cư trú

-

Có cơ sở kinh tế chung [19]
Hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triển. Do vậy, có rất nhiều
khái niệm khác nhau của các nhà khoa học về “Hộ”:

-

Thống kê Liên

Hợp Quốc có khái niệm về “Hộ” gồm những người

sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và cùng có chung một ngân quỹ.

-


Giáo sư Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
một nhóm

người có cùng chung huyết

“Hộ”



tộc hoặc không cùng

chung huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.

-

Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo
thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ
thống kinh tế lớn hơn”.

-

Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981, 1982), Smith
(1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm người có cùng chung sở hữu,
chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn vị kinh tế giống như các công ty,
xí nghiệp khác”.

-

Theo


một

số

từ điển

chuyên ngành kinh

tế, từ điển

ngôn ngữ thì hộ

được hiểu là: tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, bao gồm những người có
cùng huyết tộc và những người làm công. [19]
Từ các quan niệm trên cho thấy hộ được hiểu như sau:

-

Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có chung huyết


thống, tuy nhiên cũng có thể trường hợp thành viên của hộ không cùng chung huyết thống
như con nuôi, người tình nguyện và được sự đồng ý của các thành viên trong hộ công nhận
cùng chung hoạt động kinh tế lâu dài....

-

Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động và phân công lao
động chung, có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, là đơn vị vừa sản

xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính
chất gia đình. Hộ không phải là một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành
phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước...
- Đại đa số các hộ ở Việt Nam đều gồm những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống. Vì vậy khái niệm hộ thường được hiểu đồng nghĩa với gia đình, nhiều khi
được gộp thành khái niệm chung là hộ gia đình. Tuy nhiên hộ không đồng nhất với gia đình
mặc dầu cùng chung huyết thống bởi vì hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể
không phải là một đơn vị kinh tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng
chung một mái nhà nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau.... [19].
* Hộ nông dân
Theo Frank Ellis cho rằng: "Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp, tự
kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia
đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi
sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn
hảo cao".
Nhà khoa học Traianốp đưa ra định nghĩa: "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất ổn
định ” và ông coi ”hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển nông
nghiệp". [21]
Tác giả Mats Lundahl và Tommy Bengtsson bổ sung thêm vào quan điểm của
Traianốp: "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản”. [21]
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993): "Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là
hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn".
Đào Thế Tuấn (1997) chỉ ra: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông


nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở
nông thôn”.
Đối với nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc (năm 2001) thì: "Hộ nông nghiệp là những
hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm

đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực

vật,...) và thông

thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp". [7]
Xuất phát từ những khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm chung như sau:

-

Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp.
Hộ có nguồn thu nhập chủ yếu bằng nghề nông. Ngoài ra, hộ nông dân còn tham gia các
hoạt động phi nông nghiệp, chẳng hạn tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... ở các
mức độ khác nhau.

-

Hộ

nông dân là một đơn vị

vừa là một

đơn vị tiêu dùng.

kinh tế
Hộ nông dân

cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
phải phụ thuộc vào các


hệ thống

kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào
các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước khi trình độ
phát triển lên mức cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng
và đi vào chiều sâu.
* Kinh tế hộ nông dân:
Hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học
nông nghiệp và phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp
ở nông thôn chủ yếu được thực hiện qua các hoạt động của hộ nông dân.
Theo Frank Ellis (1988): Các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ đất, sử dụng
chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn,
nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường, hoạt động
với một trình độ không hoàn chỉnh cao. [2]
Kinh tế hộ nông dân được phân biệt với các hình thức kinh tế khác trong nền kinh tế
thị trường bởi các đặc điểm sau:


- Đất đai: nghiên cứu hộ nông dân là nghiên cứu những người sản xuất có tư liệu
sản xuất chủ yếu là đất đai.

-

Lao động: lao động sản xuất chủ yếu là do các thành viên trong hộ tự đảm nhận. Sức lao
động của các thành viên trong hộ không được xem là lao động dưới hình thái hàng hóa, họ
không có khái niệm tiền công, tiền lương.

-

Tiền vốn: chủ yếu do họ tự tạo ra từ sức lao động của họ.

Mục đích chủ yếu của sản xuất trong hộ nông dân là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực
tiếp của hộ, sau đó phần dư thừa mới bán ra thị trường.

1.2.
1.2.1.
1.2.1.1.

Cơ sở thưc tiễn
Thực trạng và vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam
Khái quát về thực trạng và vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới
Tại châu Phi, Châu Á và Thái Bình Dương, trung bình một tuần phụ nữ làm việc

nhiều hơn nam giới 12-13 giờ và có ít thời gian để nghỉ ngơi hơn. Hầu hết mọi nơi trên thế
giới, phụ nữ được trả công thấp hơn nam giới cho cùng một loại công việc. Thu nhập của
phụ nữ bằng khoảng 50%-90% thu nhập của nam giới [3].
Na Uy là đất nước dân số ít (4,5 triệu người) nhưng chỉ số phát triển con người (HDI)
và chỉ số phát triển giới (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Na Uy có một hệ thống luật pháp đồng
bộ hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi cho người phụ nữ. Chính phủ Na Uy rất quan
tâm đến vấn đề bình đẳng giới và coi đó là một trong bốn vấn đề trọng tâm phát triển. Là
quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép phụ nữ được tham gia bầu cử vào năm 1913 và có
quyền ứng cử Quốc hội từ năm 1930. Na Uy cũng có Luật bình đẳng giới ban hành từ năm
1979 với các điều khoản bảo đảm cho cả phụ nữ và nam giới được bình đẳng trong phát
triển.
Trong luật Bình đẳng giới, Na Uy quy định: Việc phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián
tiếp với phụ nữ và nam giới đều không được phép.
Với lĩnh vực lao động và việc làm, luật quy định: tuyển dụng không được hạn
tuyển một

giới.


Khi đề

bạt, cách chức hoặc sa thải người

chế
lao

động cũng không được phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng một doanh


nghiệp phải được trả lương như nhau cho cùng một công việc như nhau hoặc công việc có
giá trị như nhau.
Trong giáo dục, Luật bình đẳng giới đề ra phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng
trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, Luật

bình đẳng giới tiến bộ nhưng chỉ nhằm

tăng cường

quyền lực của phụ nữ ngoài xã hội chứ không bênh vực họ trong gia đình vì không áp dụng
trong gia đình. Trong lĩnh vực công việc nhà không được trả lương phụ nữ vẫn làm việc
nhiều hơn nam giới; trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nam giới vẫn chiếm 86% và trong
chính quyền địa phương lãnh đạo nam vẫn trên 70% ; nạn bạo lực vẫn xảy ra; mại dâm
được phép hoạt động nhưng vẫn nhiều tình trạng xâm hại tình dục ... [23]
Tại Kenya, Zambia và Nigieria, gia đình nào có chủ hộ là nam giới thì khuyến nông
thường xuyên ghé thăm hơn.
Khoảng 40% phụ nữ Trinidad và Tobago chỉ biết đến các thông tin hay những lời
khuyên trong sản xuất cũng như các thông tin khác thông qua người chồng của mình. Còn ở
một số nước như Ân Độ, Thái Lan, Malaysia thì những thông tin đó được lấy tự họ hàng,

bạn bè và hàng xóm. Rất ít thông tin được trực tiếp chuyển đến người phụ nữ.
* Phụ nữ

chiếm một tỷ trọng

lớn trong lực lượng lao động:

Tỷ lệ nữ

tham gia hoạt động kinh tế theo các nhóm tuổi rất cao. Một số tài liệu thống kê sau đây sẽ
chứng minh cho nhận định đó:
- Bangladesh: có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động so với
82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị (28,9%).
Theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhiều nhất ở độ tuổi 30-49, tiếp đó là các
nhóm tuổi 25-29, 50-54. Đáng chú ý rằng, gần 61% phụ nữ nông thôn ở độ tuổi 60-64 vẫn
tham gia lực lượng lao động, cao gần
cùng nhóm tuổi. Đặc biệt

gấp 2 lần

phụ

phụ nữ

nông

nữ

thành


thị

thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động [6]
- Trung Quốc: nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động cao nhất từ 20-29
tuổi, tiếp đó là nhóm 30-39 tuổi, và giảm dần theo các nhóm tuổi cao hơn. Giống như ở


Bangladesh, ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ ở độ tuổi 60-64 vẫn còn 32,53% tham gia lực
lượng lao động, con số này cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi [6]

* Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp:
Nhìn chung, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước
đang phát triển còn rất thấp. Ở các nước đang phát triển cho đến nay có tới 31,6% lao động
nữ không được học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới tốt nghiệp cấp
hai. Vì ít có điều kiện học hành nên những người phụ nữ này không có điều kiện tiếp cận
một cách bài bản với các kiến thức về công nghệ trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức
tiên tiến, những kiến thức họ có được chủ yếu là do tự học từ họ hàng, bạn bè hay từ kinh
nghiệm của những người thân của mình. Một hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm được
truyền đạt theo phương pháp này thường ít khi làm thay đổi được mô hình, cách thức sản
xuất của họ [6]

* Bất bình đẳng

giới mang tính phổ biến:

Bất bình đẳng giới tồn tại ở

hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có trình
độ học vấn thấp. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là những định kiến xã
hội không coi trọng phụ nữ đã được hình thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy,

ngay cả khi phụ nữ có bằng cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không
được ghi nhận một cách xứng đáng.
Đấu tranh để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong xã hội ta nói riêng
và trên thế giới nói chung là vấn đề lâu dài và còn nhiều khó khăn, thử thách. Đây là cuộc
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và lạc hậu. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn
năm phong kiến, tư tưởng “Trọng nam khinh nữ” vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ
phận dân chúng, nhất là ở những vùng, miền còn nặng nề về hủ tục lạc hậu... Ngay tại các
bộ, ngành và những đơn vị hành chính, kinh tế lớn, vấn đề bình đẳng giới vẫn còn gặp
những khó khăn nhất định. Việc bồi dưỡng phát triển cán bộ nữ có lúc, có nơi còn bị hạn
chế, một số đơn vị kinh tế thậm chí không muốn nhận lao động nữ. Như vậy, mặc dù đã đạt
được những thành quả nhất định nhưng vấn đề bình đẳng về giới vẫn còn những bất cập mà
chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu để đạt được mục tiêu bình đẳng thật sự.


1.21.2.

Thực trạng và vai trò của phụ nữ nông thôn Việt Nam, một số chủ trương chính

sách của nhà nước với sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới:
Trong các gia
nuôi, chế

đình Việt Nam thì

biến và bán

phụ nữ tham gia

trồng trọt, chăn


sản phẩm nhiều hơn so với nam giới. Phụ nữ chỉ

cóthể tham gia nhiều hơn vào việc ra quyết định trong các công việc đồng áng (Fyles và
cộng sự, 2001).
Trong công việc sản xuất lúa thì nam giới là người làm đất còn phụ nữ đóng vai trò
gieo cấy, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình,
nhất là gia đình nông thôn được thể hiện rất rõ trong một câu nói tiếng Anh: Women grow
the rice, harvest the rice, cook the rice and wash the bowl. (Phụ nữ trồng lúa, thu hoạch lúa
gạo, nấu cơm và rửa bát)
Có thể thấy những người nữ nông dân đang có vai trò hết sức quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp. Mặc dù vậy, sản xuất của họ chỉ nhỏ lẻ thu hẹp trong kinh tế hộ, họ thiếu
kỹ thuật canh tác chăn nuôi, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm riêng của mỗi cá nhân. Họ cũng
không có cơ hội học tập - đào tạo và không được tiếp cận với thông tin thị trường và công
nghệ. Vì thế mà năng suất sản xuất không cao và kết quả phụ thuộc vào từng mùa vụ. Bên
cạnh đó, những người phụ
diện

nữ nông thôn còn đang phải
với những

vấn

đề

đối

về

sức khoẻ như phải làm việc nhiều giờ trong ngày, lao động vất vả, kết hôn sớm, sinh đẻ và
nạo hút thai nhiều, dinh dưỡng kém,...Mặc dù thu nhập từ sản xuất nông nghiệp ít hơn nhiều

so thu nhập của nam giới làm việc bên ngoài, nhưng những người nữ nông dân ở đây vẫn ý
thức được sự quan trọng của cây lúa. Do vậy, họ vẫn mong muốn, hy vọng được tiếp cận
với các giống cây trồng mới và kỹ thuật canh tác tiên tiến để có thể nâng cao năng suất và
sản lượng của cây trồng.
Những chính sách cải cách nhằm củng cố kinh tế hộ gia đình như phân bổ quyền sử
dụng đất, xác định vị thế và quy định pháp lý của các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung của hộ gia đình, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ khuyến nông cho hộ gia đình nhưng
đối tượng chính tiếp nhận thông tin lại là nam giới, thường là với tư cách chủ hộ.


Trong gia đình thì phụ nữ ít có kiến thức nhưng lại có kinh nghiệm và kỹ năng sản
xuất tốt. Nam giới thường hưởng thụ những thành quả từ sự cải cách kinh tế hơn là phụ nữ .
Phụ nữ luôn phải tỏ ra kính trọng với nam giới. Thái độ xã hội về vai trò của người
phụ nữ trong gia đình đã làm cho việc xử lý những vấn đề như ngược đãi, bạo hành, ly hôn
và phụ nữ nuôi con trở nên khó khăn.
Phụ nữ thiếu những kỹ năng lao động và thiếu tự tin ngay cả trong gia đình của mình.
Điều này lại càng củng cố thêm định kiến về phụ nữ. Tuy những định kiến giới tác động với
cả hai giới nhưng nhìn chung phụ nữ vẫn chịu ảnh hưởng nhiều hơn.
Giải phóng phụ nữ và tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện là một trong
những

mục tiêu quan

trọng của cách mạng Việt Nam. Trong

suốt

quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục
tiêu bình


đẳng giới. Trong thời

kỳ đổi mới, chủ trương

của

Đảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội
Đảng, các Nghị quyết và Chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công
tác quần chúng, công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới,
phát huy được năng lực của mình đóng góp cho đất nước. Vị thế của người phụ nữ trong xã
hội cũng như trong gia đình đã và đang được nâng cao:
Quan điểm “Nam nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ đã được xác định ngay từ
trong cương lĩnh Đảng năm 1930.
Ngày 10/01/1967, ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành nghị quyết số 152 - NQ/TW
về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ nữ “Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ
còn tồn tại khá sâu sắc trong một số cán bộ, Đảng viên kể
Thể

hiện rõ

cả cán bộ lãnh

nhất tư tưởng hẹp hòi, trọng

đạo.
nam

khinh nữ, chưa tin vào khả năng lãnh đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy
hết khó khăn trở ngại của phụ nữ”.

Chỉ thị số 44 - CT/TW ngày 07/06/1984 của Ban bí thư chỉ ra rằng “Nhiều cấp ủy
Đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng về


×