Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Văn hiến phương nam 009 07 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.4 MB, 39 trang )

VAÊN HIEÁ N
Việt Nam

DIỄN ĐÀN CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA DÂN TỘC
C E N T E R F O R R E S E A R C H C O N S E R VAT I O N A N D D E V E LO P M E N T O F N AT I O N A L C U LT U R E

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

NGƯỜI BẠN THÂN TÌNH CỦA NHÂN DÂN
& GIỚI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC

QUỐC GIA BIỂN

VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HOÁ BIỂN

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
MIỀN ĐẤT TÂM LINH

CÔNG CUỘC KHAI PHÁ & PHÁT TRIỂN
ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH

NGÚT NGÀN LAU TRẮNG

SỐ 9
Tháng 07-2011


GIÁM ĐỐC


VAÊN HIEÁ N


Việt Nam

DIỄN ĐÀN CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA DÂN TỘC
C E N T E R F O R R E S E A R C H C O N S E R VAT I O N A N D D E V E LO P M E N T O F N AT I O N A L C U LT U R E

VĂN PHÒNG TẠP CHÍ VĂN HIẾN
CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM TẠI TP.HCM
N07, CHUNG CƯ K26, P. 7, Q. GÒ VẤP, TP. HCM

Chủ Biên

NB. NGUYỄN THẾ KỶ

Đồng Chủ Biên

NB. VÕ THÀNH TÂN

Hội Đồng Cố Vấn

VAÊN HIEÁN
VIỆT NAM

DIỄN ĐÀN CỦA TRUNG TÂM NCBT&PHVHDT
Tạp chí xuất bản 03 kỳ/tháng
Kỳ chính ra ngày 25 hàng tháng
Kỳ chuyên đề Văn hóa – Kinh tế ra ngày 15
Chuyên san Phương Nam ra ngày 10 hàng tháng

Chủ Nhiệm
GS. HOÀNG CHƯƠNG


Tổng Biên Tập
TS. PHẠM VIỆT LONG

Phó Tổng Biên Tập Thường Trực
NB. NGUYỄN THẾ KHOA

Phó Tổng Biên Tập
TS. NGUYỄN MINH SAN
NB. TRẦN ĐỨC TRUNG

VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI TP. HCM
ĐC: 288B AN DƯƠNG VƯƠNG. Q. 5, TP. HCM

VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI MIỀN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊN
ĐC: 117 LÊ ĐỘ, ĐÀ NẴNG

Chủ Tịch Hội Đồng:
GSTS. HUỲNH NGỌC PHIÊN
Các thành viên
GSTS. TRẦN VĂN KHÊ
GSTS. THUYẾT PHONG
GSTS. MẠC ĐƯỜNG
KS. TRẦN QUANG TUẤN
TS. TRẦN NHU
Cố Vấn Chính Trị
NB. PHẠM ĐỨC LƯỢNG
Cố Vấn Kinh Tế
ĐOÀN TƯỜNG TRIỆU
NB. NGUYỄN THẾ BẢO


Hội Đồng Biên Tập

6
12
15
20
29
31
33

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
NGƯỜI BẠN THÂN TÌNH CỦA NHÂN DÂN VÀ GIỚI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC ĐƯƠNG THỜI
KHẢI ĐỒNG THUYẾT ƯỚC
SÁCH DẠY CẤP TIỂU HỌC XƯA VÀ TẤM BẢN ĐỒ VIỆT NAM GHI CHÚ ĐẢO HOÀNG SA
QUỐC GIA BIỂN
VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HOÁ BIỂN
TRẦN THƯỢNG XUYÊN
VỚI CÔNG CUỘC KHAI PHÁ & PHÁT TRIỂN ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH
ĐÌNH BỒ BẢN
CHUYỆN CHÓ KÉO XE Ở LÝ SƠN
VĂN BIA TƯỞNG NIỆM LÃNH BINH NGUYỄN ĐỨC ỨNG
VÀ 27 NGHĨA BINH TỬ TRẬN TẠI LUỸ KHÍ GIANG NĂM 1861

35

NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
ĐƯỢC THƯƠNG TIẾC KHẮP THẾ GIỚI

40

45
54
58
60
63
67
71
72
73

PLEIKU - NHỮNG NHÁT CẮT CHẬP CHỜN

Chủ Tịch Hội Đồng:
ThS. NGUYỄN VĂN TẤN
Trưởng Ban Biên Tập - Thư Ký Toà Soạn
CN. NGUYỄN THỊ HẢI VÂN
TS. TRẦN ĐỨC ANH SƠN
NT. THANH THẢO
NT - NB. BÙI QUANG THANH
PGS -TS. NGUYỄN VĂN HẠNH

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ - MIỀN ĐẤT TÂM LINH

Ban Trị Sự

BÁNH PHỒNG SƠN ĐỐC

NGUYỄN THỊ HÀ LINH
NGUYỄN VĂN HÙNG
NGUYỄN THÌN


Thiết Kế
NGUYỄN HUỲNH PHƯƠNG DUNG

Bìa 1:
THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

Tài Trợ Phát Hành:
DOANH NGHIỆP SÁCH THÀNH NGHĨA TP. HCM

In Tại
CÔNG TY CỔ PHẦN IN GIA ĐỊNH
ĐC: 9D NƠ TRANG LONG, P.7, Q.BÌNH THẠNH, TP. HCM

NGÚT NGÀN LAU TRẮNG
CUỐNG RẠ CẮM VÀO ĐẤT QUÊ

LỆ CHÂU
NHÀ THỜ TỔ NGHỀ KIM HOÀN

BỨC TRẤN PHONG Ở XỨ LƯU CẦU
VĂN HOÁ GIAO THÔNG
CHUYÊN MỤC HÀNG KHÔNG
ĐỌC - SUY NGẪM


6

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM


CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

7

NGƯỜI BẠN THÂN TÌNH CỦA
NHÂN DÂN VÀ GIỚI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC ĐƯƠNG THỜI
- TS. TRẦN NHU -

Người bạn thân tình của nhân dân
lao động các dân tộc Trung Hoa
Từ châu Âu, sau khi tìm hiểu thực trạng
nước Pháp thực dân (và các nước tư bản
thực dân hàng đầu thế giới); tìm hiểu giá trị
thực của các cuộc cách mạng 1776 ở Hoa
Kỳ và 1789 tại Pháp; tìm hiểu và tiếp thu
những giá trị nhân văn của cuộc cách mạng
tháng Mười Nga mà đặc biệt là Bản Luận
cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lênin, Người trở lại châu Á. Trước tiên
Người chọn miền Nam Trung Quốc (Quảng
Đông – Quảng Tây – Vân Nam) tiếp giáp với
toàn bộ các tỉnh cực Bắc nước ta, từ Quảng
Ninh ở cực Đông đến Lai Châu ở cực Tây Tổ
quốc với chiều dài biên giới trên ngàn ki lô
mét. Đó là một vùng núi non trùng điệp, nơi
cư trú chủ yếu của nhiều dân tộc thiểu số
Trung Hoa, những dân tộc nghèo, tuyệt đại
đa số hiền lành, chung thuỷ với bạn bè, có

tầm lòng rộng mở với những người láng
giềng Việt Nam cùng cảnh ngộ, gắn bó, tối
lửa tắt đèn có nhau…
Ở vùng đất có hàng triệu người bạn tốt
ấy, Hồ Chí Minh, với hiểu biết sâu sắc về
ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử và truyền thống
tốt đẹp của dân Trung Hoa, với tấm lòng
bao dung của một bậc hiền triết, luôn được
đón tiếp ân cần như người bạn, người anh
em thân thiết, được giúp đỡ nhiều mặt dù
người dân nơi đây còn nghèo. Người tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
bên cạnh Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa, và các lớp huấn luyện cán bộ cách

mạng (Theo một số nhà nghiên cứu thì
những cán bộ được cử sang dự các lớp
huấn luyện đều do cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc trực tiếp tuyển chọn). Các dân
tộc địa phương hết lòng giúp đỡ Người
trong sự nghiệp cực kỳ quan trọng này.
Nói như vậy là vì rất nhiều cán bộ được
Người huấn luyện trong những năm ở
Trung Quốc sau này trở thành những
cán bộ lãnh đạo cốt cán của Đảng và Nhà
nước ta, trong đó có những sĩ quan cao
cấp được Người gửi đào tạo tại Trường
Quân sự cao cấp Hoàng Phố. Ngày nay,
tại các địa phương thuộc ba tỉnh Quảng
Đông – Quảng Tây – Vân Nam vẫn còn

lưu giữ những dấu tích mang tính lịch
sử về những năm tháng hoạt động của
Người, có một số địa điểm trở thành nhà
lưu niệm và bảo tàng những kỷ niệm
về Người, về tình hữu ái chân tình giữa
Người, nhân dân Việt Nam với nhân dân
các dân tộc Trung Hoa.
Cũng trên vùng đất lành này, Người
tiến hành một số hoạt động lịch sử, liên
quan đến vận mệnh đất nước: Hợp nhất
ba “nhánh” Cộng sản thuộc ba kỳ Bắc –
Trung – Nam; thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam thống nhất, ngày 3-2-1930 tại
Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc. Từ
đó, Đảng nhận sứ mạng lịch sử của dân
tộc: lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản,
giải phóng dân tộc và giai cấp cần lao
khỏi nô lệ và mọi áp bức bất công trên
quê hương ngàn lần yêu dấu của 54 dân


8

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

tộc anh em trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam.
Nhưng, cũng chính tại vùng đất Nam
Trung Quốc này, chính quyền phản động
Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch và

nhà cầm quyền thực dân Anh vô cớ bắt
và cầm tù Người, lúc ấy mang tên Tống
Văn Sơ (1931-1932) tại Hồng Kông. Nhờ
vào các cộng sự và một số đảng viên
cộng sản Trung Hoa, Người được vị luật
sư người Anh Lô-dơ-bai tài giỏi và đáng
kính giúp đỡ rời Hồng Kông an toàn.
Cũng tại Quảng Tây, năm 1942, chính
quyền của bọn phản động Quốc dân
đảng Tưởng Giới Thạch một lần nữa vô
cớ bắt giam Hồ Chủ Tịch, giải qua 13
nhà tù tỉnh Quảng Tây trong gần 2 năm

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

(1942-1943). Nhờ sự thông tuệ, khôn khéo
và linh hoạt cùng vốn kiến thức uyên bác
về Trung Quốc mà Người đã thuyết phục
những kẻ cầm quyền để cuối cùng bọn
chúng phải trả tự do cho Người.
Trong hoạ có phúc. Sau khi được vị luật
sư tổ chức an toàn rời Hồng Kông, Người
có dịp đến Thượng Hải - một trong những
thành phố lớn và tấp nập nhất Trung Quốc,
nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức chính trị
quan trọng của Quốc tế và quốc nội, thực
hiện một số nhiệm vụ của Quốc tế cộng
sản uỷ nhiệm thời kỳ Quốc Cộng hợp tác.
Người đã có dịp tiếp xúc và cộng tác với
nhiều nhân vật quan trọng trong chính

giới và đảng cộng sản Trung Quốc đương
thời. Tại đó, Người gặp gỡ và thiết lập mối

quan hệ đồng chí với một số vị lãnh đạo cao
cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc (về sau
đều là những trụ cột trong bộ máy Đảng và
Nhà nước CHND Trung Hoa sau ngày 1-101949, ngày ra đời của nước CHND Trung
Hoa), đặc biệt Người trở thành người bạn
cố tri của bà Tống Khánh Linh. Bà Tống đã
giúp đỡ Người rất nhiều trong những ngày
tháng ở Thượng Hải. Có một chi tiết khẳng
định tình bạn thuỷ chung này: Hồi ấy, bà
Tống tặng Người một cái mũ. Người đã giữ
vật kỷ niệm ấy hơn 20 năm và đầu năm
1950, trong chuyến thăm Trung Quốc sau
khi khai thông biên giới Việt Trung (mùa
xuân 1950), Hồ Chủ tịch gặp lại cố nhân,
một lần nữa cảm ơn và trao lại bà Tống món
quà vô giá ấy như một minh chứng cho sự
thuỷ chung sâu sắc, lúc bấy giờ bà Tống là
Phó Chủ tịch danh dự Nước Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa.

Mối quan hệ trong sáng với Chủ
tịch Mao Trạch Đông và các nhà
lãnh đạo Đảng Cộng sản và nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Năm 1934, Nguyễn Ái Quốc trở lại
Mátscơva, sau khi sự hợp tác giữa Quốc Dân
Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc có sự

tham gia cố vấn của đại biểu Quốc tế Cộng
sản tan vỡ do hành động phản bội của
Tưởng Giới Thạch. Liên Xô bấy giờ là nước
xã hội chủ nghĩa duy nhất, là nơi dừng
chân của hàng trăm chiến sĩ cách mạng và
cộng sản của nhiều nước tư bản chủ nghĩa
cũng như các nước thuộc địa... Người, sau
khi rời Hồng Kông, đến Thượng Hải, được
bà Tống và các cán bộ lãnh đạo Đảng Cộng

Tống Khánh Linh (1893 -1981)

9

sản Trung Quốc giúp đỡ, Người không thể
trở về nước (Toà án binh Pháp tuyên án tử
hình vắng mặt Người từ năm 1929) vì vậy
đích đến tiếp theo của Người chỉ có thể
là quê hương cách mạng tháng Mười. Ở
đó Người đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện các
phương án chiến lược và sách lược cho
cuộc cách mạng giải phóng đất nước khi
điều kiện mở ra.
Tuy nhiên, tình hình Liên Xô và Quốc
tế Cộng sản kể từ sau năm 1924 đã có
nhiều thay đổi theo hướng không thuận
lợi cho các lực lượng cách mạng tại các
nước trên thế giới, nhất là ở các nước
thuộc địa, thậm chí cũng không thuận lợi
ngay cả cho sự phát triển của Liên Xô. Theo

các nguồn tin đã được thẩm định, việc trở
lại Liên Xô của Nguyễn Ái Quốc bị nghi
là có vấn đề, cụ thể có một số nghi vấn:
do dâu Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc)
có thể “dễ dàng” thoát khỏi nhà ngục của
một chính quyền thuộc hàng tốt nhất của
chủ nghĩa tư bản – thực dân (tức chính
quyền Anh ở Hồng Kông). Hệ quả là suốt
từ năm 1934 đến năm 1938, Hồ Chủ Tịch
không được giao bất cứ một công việc,
một nhiệm vụ gì trong bộ máy của Quốc
tế Cộng sản. Người phải tự kiếm sống
bằng các khoản nhuận bút dịch thuật ít ỏi.
Không ai cứu xét nguyện vọng được phân
công công tác của Người. Người trở thành
lữ hành cô đơn và những ngày tháng đó sẽ
kéo dài chưa biết đến khi nào nếu không
có một sự ngẫu nhiên có hậu xảy ra năm
1938. Nhiều lần Người đề nghị được trở về
nước chuẩn bị cho công cuộc giải phóng
dân tộc, đất nước. Lần cuối cùng, đề nghị


CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Hồ Chủ Tịch và Mao Trạch Đông

của Người được chấp nhận. Và Người lên
đường trở về Trung Quốc qua khu vực Tân
Cương, tiến sâu vào miền tây tới căn cứ

Lan Châu tỉnh Cam Túc, trở thành chính uỷ
một đơn vị cấp Trung đoàn. Tại căn cứ này
ở Cam Túc, toà nhà Bộ Chỉ huy Bát Lộ quân
ngày nay trở thành Bảo tàng quân sự của
Giải phóng quân Trung Quốc, trong đó có
một gian trưng bày và bảo tồn những hiện
vật của chính uỷ Nguyễn Ái Quốc thời gian
hoạt động trong Bát Lộ quân. Đến căn cứ
địa cách mạng Trung Quốc ở tỉnh Cam
Túc rồi Thiểm Tây đến Tây An vào Diên An,
Người gặp thêm nhiều bạn chiến đấu mới,
trong đó có Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ,

Chu Đức, Đổng Tất Võ… và nhiều người
khác. Tất cả đều là cán bộ chủ chốt của
Đảng Cộng sản Trung Quốc và 10 năm sau
( năm 1949) hầu hết họ trở thành chính
khách và tướng lĩnh của Nhà nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa (01-10-1949).
Là người có trí thức uyên bác, thông
tuệ, am hiểu nền văn hoá – văn minh cổ
đại Trung Quốc, hiểu nhiều ngoại ngữ,
nhất là Hán Văn qua đó lĩnh hội những
tư tưởng lớn của tam giáo và những
tinh hoa văn hoá của các dân tộc Trung
Hoa… Nguyễn Ái Quốc được Mao Trạch
Đông và các nhân vật hàng đầu Trung
Quốc kính trọng, ngưỡng mộ trong tư

cách là một chính khách lớn, một

bậc hiền triết. Mối quan hệ ấy từng
là nền tảng của một tình hữu nghị
phát triển nở hoa không chỉ từ khi
Nguyễn Ái Quốc trở thành một cán
bộ chính trị trong hàng ngũ Bát Lộ
quân, mà trong cả những năm tiếp
theo trong ngọn lửa của Đại chiến
thế giới thứ hai và mãi sau này…
Một người Trung Quốc (ông Hồng
Tả Quân) từng trực tiếp chứng kiến
mối quan hệ thân tình giữa Hồ Chí
Minh và nhà lãnh đạo cao nhất đương
thời Trung Quốc Mao Trạch Đông, kể
lại: Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh
có một tình bạn và mối quan hệ mật
thiết được xây dựng trên cơ sở tin cậy
và sự tôn trọng nhau. Ông nói: “Hồ
Chí Minh là người sáng lập kỷ nguyên
mới của lịch sử Việt Nam. Đích thân Hồ
Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Việt Nam là tấm gương duy
nhất về cuộc cách mạng dân tộc do
Đảng Cộng sản lãnh đạo thành công.”
Vào thập niên 60 thế kỷ XX xảy ra bất
đồng nghiêm trọng giữa hai đảng
cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, hậu
quả là phong trào cộng sản quốc tế
bị chia rẽ, ảnh hưởng đến phong trào
cách mạng và dân chủ của hàng tỷ

người lao động trên thế giới. Người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc Hồ Chí Minh
không đành lòng chứng kiến những
mâu thuẫn đó. Với tinh thần trách
nhiệm cao cả của một chiến sĩ cộng
sản lão thành, Người không quản ngại
tuổi già sức yếu, lặn lội đi lại nhiều lần

giữa hai nước Trung – Xô, khuyên giải hai
đảng gìn giữ đoàn kết và phong trào cộng
sản quốc tế. Trong một lần gặp Mao Trạch
Đông thời gian ấy, Hồ Chí Minh không
che đậy quan điểm của mình, nói: “Tôi có
quan hệ đã lâu hơn 30 năm, ngoài ra còn
có mối quan hệ thân thiết như bạn và anh
em với các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc,
nên có thể nói hết mọi chuyện”. Khi biết Hồ
Chí Minh nhiều lần đi Mátscơva trong sứ
mệnh hoà giải, Mao Trạch Đông nói với
Người: “Các đồng chí đi hoà giải, làm việc
lành, thật sự là sứ giả của hoà bình. Cảm
ơn đồng chí (Hồ Chí Minh), cảm ơn các
đồng chí (Việt Nam) vì đoàn kết đã bôn ba
hàng vạn dặm”.
Trong cuộc đàm đạo ấy, Mao Trạch
Đông hiểu thêm một khía cạnh nữa về
nhân phẩm vĩ đại của Hồ Chí Minh, cộng
với đóng góp vĩ đại cho dân tộc và nhân
loại cần lao trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp…

đã khiến Mao Trạch Đông khẳng định:
“Ở Trung Quốc chúng tôi chỉ sung bái Tôn
Trung Sơn thôi, bởi vì ông có công lãnh
đạo cuộc Cách mạng Tân Hợi. Ở nước
ngoài những người được chúng tôi sùng
bái là Mác, Ăng ghen, Lê nin.” Và ngay sau
đó, ông quay sang phía Người, thốt lên:
“Chúng tôi cũng sùng bái Hồ Chí Minh”.
Vốn là người rất mực khiêm tốn, giản dị
Người vội chối từ: “Không, đừng sùng bái
Hồ Chí Minh!” Như vậy, dù Người nhận hay
không thì lời nói của Mao Trạch Đông vẫn
cứ là một sự thật lịch sử không ai có thể
phủ nhận.
TS.T. N

11


12

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

KHẢI ĐỒNG THUYẾT ƯỚC
SÁCH DẠY CẤP TIỂU HỌC XƯA
VÀ TẤM BẢN ĐỒ VIỆT NAM GHI CHÚ
ĐẢO HOÀNG SA
- TRẦN VĂN QUYẾN -


Sách Khải đồng thuyết ước được phát hiện là kết quả của quá trình sưu tầm thư tịch cổ
có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa trong khuôn khổ đề tài “Font tư liệu về chủ quyền
của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng” do TS. Trần Đức Anh Sơn,
Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng làm Chủ nhiệm
đề tài. Theo TS. Trần Đức Anh Sơn: “Đây là một tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa. Khải đồng thuyết ước là sách giáo khoa in dưới triều Tự Đức,
dùng để dạy cho trẻ em, trong đó có in hình bản đồ Đại Nam và trên đó ghi rõ địa danh
Hoàng Sa chử (bãi Hoàng Sa). Điều này chứng tỏ triều Nguyễn đã ý thức rất rõ về chủ
quyền biển đảo của tổ quốc và đưa vấn đề này vào sách giáo khoa để giáo dục trẻ em.
Với việc phát hiện sách Khải đồng thuyết ước, lần đầu tiên chúng ta biết được có một
cuốn sách giáo khoa của chế độ phong kiến đã đề cập đến chủ quyền của nước ta đối
với quần đảo Hoàng Sa. Vì thế, tôi cho rằng phát hiện này rất có ích, nhất là đối với việc
tuyên truyền giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo Việt Nam cho thế hệ trẻ”.

Khải đồng thuyết ước Tác giả và tác phẩm
Sách Khải đồng thuyết ước là một
quyển sách dạy trẻ em bắt đầu học
vỡ lòng, bằng chữ Hán. Sách dạy
về nhiều môn, dựa trên quan điểm
tam tài (thiên, địa, nhân), đại khái
từ thiên văn, địa lý, rồi đến nhân
sự. Nghĩa là gồm các tri thức trong
vũ trụ. Sách viết theo lối văn tứ tự
có vần, mỗi câu có bốn chữ, bốn
câu hai vần, các thanh bằng, thanh
trắc thay đổi nhịp nhàng nhằm để
người mới học đọc thuận miệng
dễ học thuộc lòng. Nội dung sách
cung cấp nhiều kiến thức thuộc

nhiều lĩnh vực. Đặc biệt sách có
viết nhiều về các sự việc trong lịch
sử Việt Nam, thiết thực cho trẻ em
Việt Nam thời đó.
Sách bao gồm 2 quyển thượng,
hạ do Phạm Vọng soạn, Ngô Thế
Vinh hiệu là Trúc Đường, Khúc
Giang và Dương Đình (1802 - 1856)
quê xã Bái Dương, huyện Nam
Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định nhuận sắc, sách in trên
ván gỗ, giấy bản thường, gồm 44
tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang có 6
dòng, mỗi dòng 16 chữ, khắc to rõ
ràng. Trong bài tựa in sách tác giả
nói rõ mục tiêu viết sách là: “sưu
tập nhiều sách, xem được ít nhiều,
bèn trích lấy những điều đại lược về
thiên văn địa lý, thế thứ các đời, biên
thành một tập, chia làm ba phần,
mỗi câu bốn chữ, bốn câu có hai vần,
thanh bằng thanh trắc thay đổi, để

tiện cho trẻ em dễ học thuộc lòng;
đặt tên gọi là Khải đồng thuyết ước,
khiến cho các con cháu trong nhà
học tập, may ra biết được qua loa về
tam tài, điều cốt yếu là muốn nói về
nước nhà, điều ấy cũng còn tự mở
rộng thêm kiến văn cho tôi học được

từ xưa.”
Tác giả Phạm Vọng, tên tự là
Phục Trai, hiệu là Kim Giang, người
làng Kim Đô, huyện Võ Giàng tỉnh
Bắc Ninh, đậu Cử nhân năm Thiệu
Trị Tân Sửu (1841). Hiện nay chưa rõ
năm sinh năm mất.

Bản đồ trong Khải đồng
thuyết ước có vẽ Hoàng Sa

13

Bản đồ được khắc in trong sách
có tên là Bản quốc địa đồ thuộc
các trang 15-16 của sách. Trên bản
đồ ghi vị trí của các tỉnh và các
ngọn núi lớn từ cửa Nam Quan
đến Biên Hòa, Vĩnh Long. Sau đó
là những ghi chú số phủ, huyện,
tổng, xã, phường, ấp, giáp, thuộc
từng tỉnh. Phần ngoài biển đối
diện với địa phận của Thừa Thiên
và Quảng Nam trong bản đồ có ghi
chú về quần đảo Hoàng Sa với ba
chữ: Hoàng Sa Chử có nghĩa là Bãi
(hay quần đảo) Hoàng Sa.
Khải đồng thuyết ước là một
cuốn sách giáo khoa thời xưa có
nhiều ưu điểm như dạy sử Việt



14

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

QUỐC GIA BIỂN

15

VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA BIỂN
- TRẦN ĐỨC ANH SƠN -

Ảnh 1: Trang bìa sách Khải đồng
thuyết ước
Ảnh 2: Bản quốc địa đồ trong sách (phần
chú thích Hoàng Sa chử đã khoanh đỏ)
Ảnh 3: Bản quốc địa đồ (bản đồ nước ta)
in trong sách Khải đồng thuyết ước (tờ
trái), bản lưu trữ tại Thư viện Quốc gia
Ảnh 4: Bản quốc địa đồ (bản đồ nước ta)
in trong sách Khải đồng thuyết ước (tờ
phải), bản lưu trữ tại Thư viện Quốc gia

Nam, những ghi chép về sản vật,
các kiến thức về xã hội (nhân sự,
niên hiệu nước Việt Nam qua các
đời); thiên nhiên (thiên văn, địa lí);

cách tu dưỡng bản thân, có hình
vẽ bản đồ Đại Nam (tên nước Việt
Nam thời Nguyễn), mặt trời, mặt
trăng, thân thể con người. Các bí
quyết về việc xem vận số. Đọc bài
tựa của tác giả, ta thấy từ sau khi
sách Khải đồng thuyết ước ra đời
năm 1853, có một sự chuyển biến
lớn về phương pháp sư phạm ở Việt
Nam, chuyển biến về giáo dục tư
tưởng, về tri thức khoa học nhiều
hơn văn chương cử nghiệp.
Hiện nay tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm còn lưu giữ rất nhiều bản
sách này, cụ thể gồm: 6 bản in, 5 bản
viết, có chữ Nôm và chữ quốc ngữ.
Tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, ngoài
bản in năm Duy Tân thứ 6, in theo
bản in năm Tự Đức thứ 6 (1853), ký
hiệu R.562, còn có 3 quyển khác ký
hiệu R.1892, R.2031 và R.2032 có

nội dung tương tự nhưng xuất bản
năm Tự Đức Tân Tị (1881).
Sách Khải đồng thuyết ước được
khắc in lần đầu vào năm Quý Sửu
Tự Đức thứ 6 (1853). Vì là sách giáo
khoa nên đã được khắc nhiều lần
trải qua các triều vua. Bản sách mà
bài này giới thiệu được khắc in năm

Tự Đức Tân Tị (1881). Chính vì điều
đó nên ở trong dân gian vẫn còn rải
rác nhiều sách này. Khải đồng thuyết
ước là sách được sử dụng trong tất cả
các trường học của nước ta ngay từ
đầu đời Tự Đức cũng giống như sách
giáo khoa ngày nay, với ghi chú về
quần đảo Hoàng Sa cho thấy ý thức
chủ quyền về quần đảo Hoàng Sa đã
được xác nhận vững chắc và được
nêu lên ngay trong sách học từ bậc
tiểu học. Đọc Khải đồng thuyết ước và
tấm bản đồ quý chúng ta lại có thêm
một chứng cứ về chủ quyền ở quần
đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn.
T. V. Q

Với 3.260 km bờ biển trải dọc theo chiều dài đất nước và hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm
được tuyên bố chủ quyền, cùng với 29 triệu cư dân có cuộc sống gắn liền với biển, Việt Nam
thực sự là một quốc gia biển
Người Việt với biển
Biển giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế, xã hội của người Việt từ bao đời
nay. Không chỉ mang lại nguồn sống, biển còn
ảnh hưởng đến diễn trình lịch sử của dân tộc
Việt Nam, đến đời sống văn hóa, tâm linh và
tín ngưỡng của người Việt. Dấu ấn của biển đã
hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt
từ thời kỳ tiền sử. Những di chỉ “đống vỏ sò” hay
“cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ

như: văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn
hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu
tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp
nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng người
tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn
năm trước. Những hoa văn “dấu vỏ sò” trên đồ
gốm chính là dấu vết của biển trong đời sống
kinh tế - xã hội của chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh
ở Trung bộ Việt Nam. Những tàn tích thức ăn và
công cụ lao động được thu nhặt, chế tác từ sản
phẩm của biển đã cho thấy từ hàng ngàn năm

trước, tổ tiên của người Việt đã xác định được
vai trò “kinh tế biển” đối với đời sống của họ.
Người Việt đã biết dùng nước biển để làm
muối từ hàng ngàn năm trước và kỹ thuật làm
muối của người Việt cũng vô cùng độc đáo: nấu
nước biển để lấy muối. Chính vì thế, mà trong
khi người Hoa gọi dân làm muối là diêm dân,
thì người Việt lại gọi người làm muối là táo hộ
hay táo công. Cách thức làm muối độc đáo ấy
không chỉ được phản ánh trong sách Đại Việt sử
ký toàn thư mà còn được chứng thực bởi nghề
làm muối ở làng Nại Hiên (thành phố Đà Nẵng)
với những dấu vết còn lưu giữ trên thực địa và
cả trong ký ức dân gian.
Không chỉ khai thác biển, người Việt còn
biết chế biến những sản phẩm của biển thành
những “đặc sản” để phục vụ cho nhu cầu ẩm
thực của mình, nước mắm là “thành tựu” vĩ đại

nhất mà người Việt đã phát minh trong quá
trình sống chung với biển.


16

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Người Việt còn chinh phục biển
bằng cách “quai đê, lấn biển”, “thau
chua, rửa mặn” để biến những đầm
lầy hoang vắng hoặc những vùng
đất khô cằn ven biển thành những
làng quê trù phú. Sự hình thành hai
huyện Kim Sơn, Tiền Hải (tỉnh Thái
Bình) vào thời Nguyễn (1802 - 1945)
gắn liền với tên tuổi của Doanh điền
sứ Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là
một minh chứng điển hình.
Từ thế kỷ XVI - XVII, các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong đã cử những
đoàn thuyền vượt biển đi giao lưu,
buôn bán với các lân bang như
Trung Hoa, Nhật Bản, Lưu Cầu, Nam
Dương, Xiêm La… Chúa Nguyễn
Phúc Chu (1675 - 1725) đã thành
lập đội Hoàng Sa, dong thuyền đến
các quần đảo Hoàng Sa và Bắc Hải
(Trường Sa) để khai thác nguồn lợi
hải sản, đo đạc hải trình, xác lập chủ

quyền của Tổ quốc trên những vùng
biển đảo xa xôi. Cư dân Việt từ các
làng quê ven biển đã không quản
ngại gian khó, vượt biển tìm đến
những hòn đảo nằm giữa muôn
trùng sóng dữ, vừa để khẩn hoang,
lập làng làm nơi cư trú và mưu sinh
muôn đời, vừa tạo nên những phên

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

dậu vững chắc để bảo vệ chủ quyền
của Tổ quốc.
Những chuyến vượt biển ấy
chính là tiền đề cho một ngành
đóng thuyền phát triển mạnh
mẽ vào thời chúa Nguyễn (1558 1786), thời Tây Sơn (1771 - 1802)
và thời Nguyễn. Các chúa Nguyễn
đã xây dựng một đội thuyền hùng
hậu, đảm bảo cho các nhu cầu
quốc phòng, giao thông và thương
mãi. Theo Thomas Bowyear, một
nhà buôn người Anh đến Đàng
Trong trong 2 năm 1695 - 1696, thì
lực lượng thủy quân ở Đàng Trong
dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu
có đến 200 chiến hạm, mỗi chiếc
có từ 16 đến 22 khẩu đại bác, 500
chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay
chèo; 100 chiếc thuyền lớn từ 50

đến 75 tay chèo… và những chiến
thuyền này đều do xưởng thuyền
của phủ chúa đóng. Nhờ vào lực
lượng thủy quân hùng mạnh này
mà quân đội của chúa Nguyễn
Phúc Lan đã đánh bại một đội tàu
của Hà Lan ở cửa Eo (cửa Thuận
An) vào năm 1644.
Người Việt không chỉ đóng
thuyền để lưu thông và chinh phục

biển khơi mà còn đóng thuyền
để xuất khẩu sang các nước láng
giềng. Năm 1789, Nguyễn Ánh
đã sai người đóng 40 đại chiến
thuyền và hơn 100 ghe bầu cung
cấp cho Xiêm La để đổi lấy vũ khí
và sắt thép. Từ nửa sau thế kỷ XVIII,
thương nhân người Hoa đã đến
Đàng Trong thuê người Việt đóng
thuyền để chở lúa gạo từ Nam Bộ
đưa về Trung Quốc bán cả thuyền
lẫn gạo. Thuyền đóng ra không chỉ
để bán cho thương nhân người
Hoa, mà bán cho cả thương nhân
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tàu
thuyền do người Việt đóng lúc ấy
đã đạt trình độ kỹ thuật cao khiến
người phương Tây phải khâm phục.
Viên trung úy hải quân người Anh

John White đến Việt Nam vào năm
1819 đã nhận xét trong cuốn hồi
ký A Voyage to Cochinchina (Hành
trình đến Nam Kỳ) rằng: “một đất
nước có những chuyên gia tài giỏi,
có thể đóng những con tàu tốt là
thế, thì phải là một dân tộc đi biển
rất cừ khôi”.
Biển đã đi vào đời sống văn hóa
và tâm linh của người Việt với những
lễ hội cầu ngư, với tục thờ cúng cá

17

ông, với những vị thần có gốc gác
từ biển khơi hiện diện trong hệ
thống thần linh của những cộng
đồng cư dân ven biển. Biển cũng
in đậm dấu vết trong kiến trúc nhà
ở, trong việc chọn hướng nhà và cả
trong việc gọi tên một số chi tiết
kiến trúc nhà ở của người Việt.

Một quốc gia biển phải
có chính sách bảo tồn văn
hóa biển
Các quốc gia láng giềng của
chúng ta như Thái Lan, Indonesia,
Nhật Bản, Hàn Quốc… đều có
những chính sách bảo tồn và

phát huy giá trị văn hóa biển
tích cực và hữu hiệu. Xin đơn cử
một vài dẫn chứng sinh động mà
tôi được biết: Tháng 10.2010, tôi
sang Okinawa (Nhật Bản) tham
dự hội thảo Nghiên cứu so sánh về
tàu thuyền trong thời cận đại ở Lưu
Cầu, Việt Nam và Triều Tiên do Viện
Nghiên cứu về Tương tác Văn hóa
(Đại học Kansai) phối hợp với Đại
học Ryukyu tổ chức. Tại hội thảo
này các học giả Nhật Bản và Hàn
Quốc đã trình bày những tham
luận cho thấy từ nhiều thế kỷ qua,
Nhật Bản và Triều Tiên (sau này là
Hàn Quốc) đã có chính sách nhất
quán và đắc dụng trong chinh
phục và khai thác biển, cũng như
trong bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa biển. Các chính sách này
góp phần tạo nên tâm lý “hướng
biển”, kích thích hoạt động khai
thác biển và nuôi dưỡng lòng tự
hào về thành tựu chinh phục biển
cho các thế hệ người dân Nhật
Bản và Hàn Quốc.
Trong thời gian diễn ra hội thảo,
ban tổ chức đã mời các học giả đi
tham quan các bảo tàng và di tích
lịch sử liên quan đến nghề đi biển


và văn hóa biển ở Okinawa để hiểu
thêm về lịch sử chinh phục và khai
thác biển ở đảo quốc này. Tại Bảo
tàng Okinawa, người hướng dẫn
tham quan đã mở đầu bài thuyết
minh bằng một câu nói rất ấn
tượng: “Một quốc gia biển phải có
những bảo tàng về văn hóa biển. Bảo
tàng Okinawa là một bảo tàng như
thế. Và chúng tôi rất tự hào về nền
văn hóa biển của vương quốc Ryukyu
được trưng bày và bảo tồn trong bảo
tàng này”.
Ryukyu (Lưu Cầu) là tên gọi
trước đây của quần đảo Okinawa,
một vương quốc tồn tại độc
lập với đế chế Nhật Bản. Người
Ryukyu coi hải thương và khai thác
biển là những nghề chính để mưu
sinh. Hàng trăm năm trước, người
Ryukyu đã dong thuyền đi lên các
vùng biển Hoa Nam và Hoa Đông,
biển Nhật Bản và biển Hoàng Hải,
xuống tận vùng biển Đông Nam Á
để buôn bán và đánh bắt hải sản.
Họ sống nhờ vào biển cả nên ý
thức chủ quyền của họ đối với biển
được xác lập từ rất sớm (thông qua
các văn kiện được trưng bày trong

Bảo tàng Okinawa). Biển in đậm

dấu vết lên đời sống kinh tế - xã
hội, lên nền văn hóa vật thể và
phi vật thể của đảo quốc Ryukyu.
Tất cả đều được tái hiện một cách
sống động, thông qua các hiện
vật, tư liệu thành văn, phim ảnh và
những tổ hợp kiến trúc phục dựng
trong Bảo tàng Okinawa.
Nhưng Bảo tàng Okinawa
không phải là nơi duy nhất bảo lưu
dấu vết văn hóa biển của người
Ryukyu. Nơi đây còn có Công viên
Hải dương học và Bảo tàng Tàu
thuyền, là những nơi trưng bày tất
cả những gì liên quan đến biển
và cách thức người Ryukyu “sống
chung” với biển. Chúng tôi cũng
được mời đi khảo sát các bến cảng
cổ ở Okinawa, thăm các ngôi mộ cổ
của cư dân Ryukyu nằm trên triền
một ngọn núi sát bến cảng Unten,
thăm các ngôi nhà truyền thống của
người Ryukyu có tường rào bằng đá
bao quanh và có bức bình phong án
ngữ phía trước để ngăn những cơn
gió chướng trong mùa biển động
khỏi thốc vào nhà…
Cũng trong hội thảo này, tôi còn

được nghe TS. Lee Chul-han, đến từ
Viện Nghiên cứu Quốc gia về Văn


18

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

1

3

Ảnh 1: Gốm Chu Đậu của VN phát hiện
tại Okinawa, trưng bày tại Bảo tàng
Nakijin Castle
Ảnh 2: Trưng bày thuyền của người
Lưu Cầu tại Công viên Hải dương học ở
Okinawa
Ảnh 3: Mô hình geobukseon (thuyền rùa)
của Triều Tiên trưng bày tại Viện Nghiên
cứu Quốc gia về Văn hóa Hải dương ở
Mokpo (Hàn Quốc)
Ảnh 4: Mô hình ghe thuyền trưng bày tại
Bảo tàng Đà Nẵng
Ảnh 5: Trưng bày tái hiện lễ cầu ngư tại
Bảo tàng Đà Nẵng

2

hóa Hải dương ở Mokpo (Hàn Quốc)
giới thiệu một loại thuyền cổ của Triều
Tiên, gọi là geobukseon (thuyền rùa).
Đây là loại thuyền chiến bọc sắt đầu
tiên ở châu Á, do Đô đốc Yi Sun-sin của
Triều Tiên phát minh và được sử dụng
trong những cuộc hải chiến chống lại
quân xâm lược Nhật Bản trong các
năm 1592 - 1598. Geobukseon là niềm
tự hào của người Triều Tiên và hình
ảnh loại thuyền rùa này đã được in
trên tờ giấy bạc 10 won của Hàn
Quốc. Ông Chung Ju-yung, người
sáng lập tập đoàn Hyundai, đã sử
dụng hình ảnh chiếc thuyền rùa
trên tờ 10 won như một “bảo chứng
quốc gia” để vay 80 triệu USD của
Ngân hàng Barclays (Anh) để phát
triển công nghiệp đóng tàu của
Hyundai và biến Hyundai thành
một thương hiệu toàn cầu trong
ngành đóng tàu.
Hiện nay, nhà nước Việt Nam
đang chủ trương xây dựng nước
ta thành một “quốc gia biển”. Đó là
một chủ trương đúng, nhưng các
chính sách do nhà nước đề ra nhằm
quảng bá hình ảnh và xây dựng Việt
Nam trở thành một “quốc gia biển”


thì chưa thực sự đắc dụng và hiệu
quả như ở các nước láng giềng.
Tâm lý “sợ biển”, “quay lưng với
biển” là một hiện thực lịch sử trong
thái độ ứng xử với biển của người
Việt. Tâm lý ấy là một trở ngại trong
chiến lược xây dựng Việt Nam trở
thành một “quốc gia biển” hùng
mạnh trong khu vực. Người Việt
chỉ có thể từ bỏ tâm lý “sợ biển” và
thay đổi cách ứng xử với biển theo
hướng tích cực một khi tiềm năng
và nguồn lợi của biển được khai
thác một cách an toàn và hiệu quả,
nghề đi biển được bảo trợ và tôn
vinh. Và quan trọng là, nhà nước
phải có một chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị nền văn hóa biển
một cách thiết thực và hiệu quả.
Ngày trước, các chúa Nguyễn
ở Đàng Trong không chỉ chăm lo
phát triển ngành đóng thuyền mà
còn chú trọng đến vấn đề xác lập
và đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối
với những đảo và quần đảo ở ngoài
khơi như Hoàng Sa, Bắc Hải (Trường
Sa), Côn Lôn, Phú Quốc… Các
chúa Nguyễn cũng đã phái những
thương thuyền đi buôn bán, giao
lưu với các “quốc gia biển” trong khu

vực, vừa để mở rộng bang giao, vừa
để phô trương thanh thế của mình.
Những người có công lao với trong
khai thác, chinh phục và giữ gìn
chủ quyền biển đảo của Tổ quốc thì
được tôn vinh là những “hùng binh”
và được triều đình khen thưởng khi
họ còn sống, được sắc phong và thờ
tự sau khi họ qua đời. Dấu vết của
nền văn hóa biển còn được phản
ánh trong các bộ sách do các học
giả biên soạn và được triều đình
cho in ấn, phát hành và lưu truyền
cho đời sau như các bộ sách: Phủ
biên tạp lục, Lịch triều hiến chương

4

5

loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại
Nam thực lục…
Một “quốc gia biển” chỉ thực sự
hùng mạnh khi chủ quyền đối với
các vùng biển đảo của Tổ quốc được
bảo vệ vững chắc và chiến lược
“phát triển kinh tế biển” phải gắn
liền với “bảo tồn văn hóa biển”.
Hiện tại, ở nước ta chưa có một
bảo tàng nào liên quan đến nghề

đi biển hay truyền thống văn hóa
biển của người Việt. Nhà nước
cũng chưa có chính sách nhằm

bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa biển Việt Nam. Niềm tự hào
về một truyền thống văn hóa biển
của người Việt đang có nguy cơ
mai một trong khi tâm lý “sợ biển”,
“ngại biển” vẫn đang hiện hữu. Đây
là một thực tế đáng buồn.
Theo tôi, không thể chỉ lưu giữ
truyền thống văn hóa biển ở trong
ký ức của cộng đồng các cư dân
duyên hải, mà phải bảo tồn chúng
trong các bảo tàng quy mô và hiện
đại do nhà nước đầu tư và thông

19

qua các chính sách phát triển văn
hóa do nhà nước chủ trương. Vì
thế, tôi đề nghị nhà nước đầu tư
xây dựng ít nhất là ba bảo tàng về
văn hóa biển và lịch sử hàng hải
Việt Nam. Theo đó, cần có một bảo
tàng về ngành hàng hải ở miền Bắc,
một bảo tàng về ngành đóng thuyền
ở miền Nam và một bảo tàng về
văn hóa biển ở miền Trung. Những

bảo tàng này không chỉ là nơi lưu
dấu về lịch sử khai thác và chinh
phục biển của người Việt, mà là
môi trường giáo dục niềm tự hào
về truyền thống văn hóa biển, về
thành tựu khai thác, chinh phục và
giữ gìn chủ quyền biển đảo của các
thế hệ người Việt.
Ngoài ra, nhà nước phải giao
cho các cơ quan hữu quan tổ chức
tổng kiểm kê di sản văn hóa biển
của người Việt (cả văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể) để định hướng
bảo tồn và phát huy các di sản này
một cách hiệu quả. Cần phải ưu
tiên nguồn vốn cho các công trình
trùng tu, tôn tạo những di tích lịch
sử - văn hóa liên quan đến quá trình
khai thác, chinh phục, xác lập và giữ
gìn chủ quyền biển đảo; xây dựng
các chương trình quảng bá di sản
văn hóa biển Việt Nam đến với cộng
đồng trong nước và quốc tế.
Niềm tự hào về một truyền
thống văn hóa biển, về thành tựu
khai thác và chinh phục biển đã
được tiền nhân khai mở và vun đắp,
cần tiếp tục được nuôi dưỡng và
trao truyền cho các thế hệ người
Việt kế cận. Khi ấy thì ước vọng về

một “vị thế đại dương” cho “quốc
gia biển” Việt Nam mới có thể trở
thành hiện thực.
T. Đ. A. S.


20

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

TRẦN THƯỢNG XUYÊN

VỚI CÔNG CUỘC KHAI PHÁ & PHÁT TRIỂN
ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH
- VÕ VĂN HOÀNG -

1. Quá trình định cư của
Trần Thượng Xuyên tại
Đồng Nai - Gia Định.
Trần Thượng Xuyên tên tự là Trần
Thắng Tài, người huyện Ngô Xuyên,
phủ Cao Châu, tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc. Ông sinh năm nào
không rõ nhưng mất khoảng năm
1715[1]. Dưới triều Minh làm Tổng
binh các châu Cao, Lôi, Liêm của tỉnh
Quảng Đông. Khi nhà Minh suy yếu,
loạn lạc giặc giã nổi lên khắp nơi,

một số bộ tộc du mục người Mãn ở
phương Bắc đã liên kết lại với nhau
và tràn xuống chiếm cứ kinh đô, lật
đổ nhà Minh, lập nên nhà Thanh. Vua
Mãn Thanh hạ lệnh bắt buộc toàn
quốc phải cạo tóc, thắt bím và ăn
mặc giống người Mãn, ai không tuân
lệnh sẽ bị chém đầu. Ông không
khuất phục nên cùng Tổng binh trấn
thủ đất Long Môn, tỉnh Quảng Tây là
Dương Ngạn Địch phất cờ “Bài Mãn
phục Minh” nhưng thất bại bèn kéo
hơn 3.000 tướng sĩ và gia quyến, đi
trên 50 chiến thuyền từ Trung Quốc
vượt biển sang Đại Việt, tiến vào cửa
biển Tư Dung và cửa biển Đà Nẵng
dâng sớ xin làm tôi Chúa Nguyễn.
Đó là mùa hạ tháng 5 năm Kỷ Vị
(1679) đời vua Thái Tông Hiếu Triết
Hoàng đế năm thứ 31 (tức năm thứ
18 niên hiệu Khang Hy nhà Thanh Trung Quốc).

Nhận được tờ tấu, các quan
lại trong triều bàn: Bắc Hà lúc này
thường hay loạn mà quân nước ấy
từ xa đến, thực hư chưa rõ, khó có
thể cho họ chức tước trong triều,
huống chi bọn kia lại là người
ngoại quốc, ngôn ngữ bất đồng,
phong tục khác biệt, sai khiến kể

cũng khó khăn. Nhưng nay gặp
bước đường cùng, thực tâm quy
thuận, lẽ đâu lại nỡ từ chối, thôi
thì thu nhận lấy chúng, cho vào
khai khẩn vùng đất phía Nam còn
hoang hoá phì nhiêu, mênh mông
ngàn dặm, từ trước đến nay còn
thiếu nhân công khai thác, thật là
“nhất cử lưỡng tiện”. Hoàng thượng
thấy hợp lý, bèn hạ dụ cho họ vào
Kinh, đặt yến tiệc, an ủi, khen ngợi
và cho các tướng lĩnh giữ nguyên
chức cũ, phong thêm quan tước
mới, rồi sai người đưa vào vùng đất
Nam Bộ để khẩn hoang sinh sống.
Binh thuyền tướng sĩ Long Môn của
Dương Ngạn Địch theo cửa Đại,
cửa Tiểu, đến định cư ở Định Tường
(Mỹ Tho); binh lính tướng sĩ cùng
gia quyến của Trần Thượng Xuyên
tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên
định cư ở vùng Bàn Lân, xứ Đồng
Nai (vùng Biên Hòa ngày nay)[2].
Tháng hai năm Mậu Dần (1698),
Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống
suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Kinh

21

Lược sứ đất Chân Lạp nhằm hoạch

định và phân chia lại địa giới hành
chính, lập nên những quận, huyện,
lân, ấp mới. Ông qui tụ dân chúng
sống rải rác ở những vùng xung
quanh vào từng khu vực cư trú
riêng biệt. Lấy đất Nông Nại đặt
thành phủ Gia Định, lập xứ Đồng
Nai làm huyện Phước Long, dựng
dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa); lập
xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình,
dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh
đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục
để cai trị. Chiêu mộ dân chúng từ
Quảng Bình trở vào, đưa vào Đồng
Nai - Gia Định khai phá đất hoang.
Những người này đều phải ghi tên
vào sổ bộ[3]. Riêng đối với cư dân
người Hoa đang sinh sống ở Trấn
Biên (Phước Long - Đồng Nai) thì
hợp thành xã Thanh Hà (còn gọi là
làng của những người Nhà Thanh),
dành cho những người mới ra
nhập cư và những người vừa mới
đến; còn những người Hoa sinh
sống ở Phiên Trấn (Tân Bình - Sài
Gòn, Bến Nghé) thì hợp thành xã
Minh Hương (còn gọi là làng của
những người nhà Minh), dành cho
những người nhập cư từ trước và
con cháu của họ được xem là trung

thành với triều đại nhà Minh đã
tiêu vong[4].


22

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

2. Những đóng góp của Trần
Thượng Xuyên với vùng đất
Đồng Nai - Gia Định
Vào đầu thế kỷ XVI, Đồng Nai
- Gia Định vẫn là vùng đất còn
hoang hóa. Phủ biên tạp lục viết:
“Từ các cửa biển lớn và nhỏ như cửa
Cần Giờ, cửa Sài Lạp đi vào, toàn là
những đám rừng hoang vu đầy cỏ
rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn
nghìn dặm mà nhà Nguyễn ngày
trước đã chiếm được qua những trận
đánh nhau với nước Cao Miên”[5].
Dân số lúc này vẫn còn thưa thớt,
chủ yếu là cư dân bản địa người
Khmer, người Chơro, người Xtiêng,
người Mạ, v.v… sinh sống.
Đến cuối thế kỷ XVI, đầu thế
kỷ XVII, do điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt, lụt lội, mất mùa; thêm
vào đó, cuộc nội chiến trong nước
diễn ra giữa các thế lực phong kiến

Trịnh - Nguyễn làm cho đời sống
của nhân dân càng lầm than, khổ
cực. Những nông dân nghèo ở
miền Thuận Quảng phải rời bỏ nơi
chôn nhau cắt rốn để “tha hương
cầu thực”, trên bước đường thiên
di, họ đã đến và định cư tại vùng
đất Đồng Nai - Gia Định. Bên cạnh
đó, để phát triển vùng đất phía
Nam, nhà Nguyễn còn tiến hành
thực hiện chính sách “chiêu mộ
những người dân có vật-lực từ các
xứ Quảng-nam, phủ Điện-bàn, phủ
Quảng-nghĩa, và phủ Qui-nhân
thiên-cư vào ở đất Đồng-nai thuộc
phủ Gia-định”. Những người di cư
mới này “ra sức chặt phá cây-cối, cắt

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

cỏ rậm và mở-mang đất-đai thành
những vùng đất bằng-phẳng, thổđịa phì-nhiêu. Nhà Nguyễn lại cho
dân được tự tiện chiếm đất mở vườn
trồng cau và xây dựng nhà cửa. Lại
cho họ thâu những con trai, con
gái người Mọi từ trên đầu nguồn
xuống, để mua làm đầy-tớ, đứa-ở,
sai-khiến hầu-hạ. Bọn người Mọi
này cùng nhau đúc kết thành đôilứa vợ-chồng, sinh-dục thành nhiều
người, đều ra sức làm ruộng để tạolập sản-nghiệp riêng”[6].

Thời kỳ này chủ yếu là các cuộc
khai khẩn đất hoang tự phát, kinh
tế sản xuất nông nghiệp là chính, kỹ
thuật sản xuất còn thô sơ, sử dụng
sức người, sức trâu bò để cày xới,
gieo hạt. Để có thể nhanh chóng
trồng cây lương thực, đảm bảo cuộc
sống nơi vùng đất mới, họ chọn
những vùng đất trũng gần sông,
hồ, ao, suối như Mô Xoài (Bà Rịa) và
Đồng Nai để canh tác. Trong đó, lúa
là cây trồng chính, mỗi năm họ làm
một vụ, ruộng sớm thường được
gieo vào tháng 5 âm lịch, đến tháng
9 thì thu hoạch, ruộng muộn gieo
tháng 6, và đến tháng 11 thì gặt
hái. Bên cạnh đó, họ còn chăn nuôi,
đánh bắt thủy hải sản, khai thác gỗ,
dệt chiếu, làm đồ gốm, thợ mộc,
v.v… Lúc này “nhiều gia-đình có rất
nhiều lúa thóc. Những người giàu có
ở các địa-phương nơi thì có bốn năm
mươi nhà, nơi thì có hai ba mươi nhà,
mỗi nhà có hạng đầy-tớ làm ruộng
hoặc đến năm sáu mươi người. Mỗi
gia-đình có thể nuôi hơn ba bốn trăm

con trâu, bò cày-bừa, trồng-trọt, cấydắm, gặt-hái bận-rộn suốt ngày,
không lúc nào nghỉ-ngơi”[7]. Chính vì
sự phát triển kinh tế của vùng đất

này nên năm 1623, chúa Nguyễn
Phúc Nguyên cho đặt hai trạm thuế
ở khu vực Bến Nghé, Sài Gòn để thu
thuế những người dân đang làm ăn
sinh sống trên lãnh thổ của mình.
Năm 1679, nhóm người Hoa do
Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đến
định cư ở Bàn Lân. Về sau, thấy vị
trí của Cù Lao Phố nằm trên một
giồng đất cao, có sông Đồng Nai
bao quanh, hằng năm đến tháng
8 nước sông dâng cao, cung cấp
cho những dải đất ven sông một
lượng phù sa màu mỡ, thuận tiện
trong sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp. Từ Cù Lao
Phố, theo sông Đồng Nai có thể
xuôi thuyền từ Bắc xuống Nam;
lên tận biên giới, sang Cao Miên và
thông xuống cả miền Tây Nam Bộ,
thuận lợi cho giao thông thương
mại bằng đường thủy, nên họ đã
chuyển về đây định cư.
Nhóm người Hoa của Trần
Thượng Xuyên vốn là những đình
thần, quan lại, tướng sĩ, thương
nhân, thợ thủ công, nông dân, thầy
thuốc, thầy đồ, thầy địa lý, những
tội đồ, v.v… vì không cam tâm “cắt
bím theo giặc” (Mãn Thanh) đành

phải rời bỏ quê hương ra đi. Từ xưa
đến nay người Hoa vốn là một dân
tộc có đức tính cần cù, siêng năng
tháo vát và có đầu óc kinh doanh,
buôn bán; Hơn nữa, họ được Chúa

Nguyễn ban cho nhiều quyền lợi ưu
đãi hơn người bản xứ, nên khi đến
Đồng Nai - Gia Định, họ tìm ngay
chỗ thuận tiện, san lấp mặt bằng,
xây dựng nhà cửa, mở mang đường
ngõ, lập ra phố xá. Tuy nhiên, do số
lượng người không nhiều, nông
nghiệp không phải là phương thức
sinh sống chủ yếu của họ, nên
mức độ khai phá của nhóm Trần
Thượng Xuyên giai đoạn này chưa
có những đóng góp đáng kể. Họ
tham gia khai phá đất đai để sản
xuất nông nghiệp, nhưng đó chỉ là
bước khởi đầu để họ chuyển sang
việc mở phố để kinh doanh buôn
bán. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào
kinh lý phương Nam, dân số Đồng
Nai - Gia Định đã hơn 4 vạn hộ[8],
canh tác hơn 787 mẫu.

Với địa thế thuận lợi, Cù Lao
Phố không những là cửa ngõ giao
thương quan trọng giữa thị trường

trong nước với thị trường quốc tế,
mà còn là vùng đất được thiên nhiên
ban tặng nhiều sản vật phong phú.
Chính vậy, Cù Lao Phố đã sớm trở
thành khu vực tập trung hàng hóa
từ các niền Nam - Bắc, Cao nguyên
cũng như biển cả theo sông, biển đổ
về. Các mặt hàng như: tơ lụa, giấy,
ngà voi, gạc nai, sừng tê giác; các
loại nông sản như: mía, lúa, chuối,
xoài, măng cụt, lựu, cam, quýt, trà,
đường, đậu, dưa, cau, rau, muối,
dầu phộng, dầu rái, dầu trám; các
loại dược thảo, sáp ong, mật ong,
thuốc lá, rượu; các loại lâm sản như:
cây huỳnh đàn, cây gõ, tre, mây, hổ,
beo, nai, voi; các khoáng sản như:

23

đá ong, đá hoa cương, cát; các mặt
hàng mỹ nghệ như: vàng, bạc, sắt,
đồng, đồ gốm; các hải sản như: cá,
tôm, cua, sam, v.v…
Nguồn nhập khẩu ở Cù Lao
Phố chủ yếu là thuốc bắc, vải bô,
gạch ngói tráng men, đá để xây
dựng chùa chiền, đền miếu; và
nhang đèn, giấy tiền, hàng mã
dùng để phục vụ trong các nghi

lễ tín ngưỡng đều được chở đến
từ Trung Quốc. Còn kỳ nam, trầm
hương, nhục quế, ốc hương, cá
mực, gỗ mun thì ở đây không có
nên phải chở từ nơi khác đến[9].
Nguồn xuất khẩu chính ở đây là lúa
gạo, cau, đậu, đường, cá khô, muối,
thảo dược, v.v…
Hằng năm, sau khi thu hoạch,
từng đoàn thuyền lớn nhỏ nối đuôi


24

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

nhau, len lỏi theo kênh rạch, sông,
biển chở lúa gạo tỏa đi khắp nơi. Có
ghe chở lúa gạo đến Gia Định để
sau đó phân phối về các địa phương
khác; hoặc chở trực tiếp lên tận Cao
Miên, xứ người Thượng; hoặc chở ra
tận miền Thuận Hóa, kinh đô Phú
Xuân, v.v… Lúc này, lúa gạo ở Gia
Định là nguồn cung cấp cơ bản cho
nhu cầu tiêu dùng của thị trường
khu vực và trong nước.
Ngoài trồng lúa cư dân Đồng Nai
còn trồng rất nhiều mía dọc theo
các triền đồi để nấu đường. Như

vậy đường cũng là mặt hàng xuất
khẩu rất phổ biến. Ở đây, họ đã xây
dựng nhiều cơ sở nấu đường nằm
dọc theo sông Đồng Nai, đường
sản xuất ở Đồng Nai được rất nhiều
người ưa chuộng. Theo Gaudard
thì đường ở đây “rất tốt, nhiều và rẻ,
mà không một nơi nào ở vùng Ấn Độ
sánh bằng”[10].
Gỗ cũng là mặt hàng xuất khẩu
lớn ở xứ Đồng Nai, bởi nơi đây tập
trung nhiều loại gỗ quí, bền, chắc,
ít bị sâu mọt phá hoại nên được
nhiều địa phương tìm mua để đóng
tàu thuyền và xây dựng nhà ở, đình
chùa, phủ miếu, v.v…. Phủ biên tạp
lục của Lê Quí Đôn chép: “Phủ Gia
Định sản xuất nhiều gỗ tốt. Tra xét sổ
sách của cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên
kê biên hai xứ là nguồn Đồng Môn
cùng thủ Quang Hóa thuộc huyện
Phước Long có các thứ gỗ sao, trắc,
dầu, giáng hương, gụ”[11]. Chính nhờ
nguồn gỗ phong phú và chất lượng
tốt nên nhà Nguyễn đã lập những
công xưởng đóng tàu thuyền ở ven

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

sông Đồng Nai, chiêu mộ những

người thợ có tay nghề và đặt quan
quân triều đình trông coi quản lý.
Bên cạnh đó, Cù Lao Phố là nơi
tập trung hàng hóa của cả khu
vực, nên nơi đây cũng xuất hiện
nhiều ngành nghề thủ công, không
ngành nào là không có sự tham gia
của người Hoa: từ dệt chiếu, dệt tơ
lụa, làm đồ gốm đến đúc đồng, làm
mộc, chế tác nông cụ, nấu đường,
làm bột, làm bánh, làm muối, chế
biến thực phẩm, v.v…
Trong khi người Việt và các tộc
người khác sinh sống ở đây chủ
yếu làm nông nghiệp và khai phá
đất đai thì người Hoa lại dựa vào sự
năng động, khôn ngoan và khéo léo
của mình, để phát huy truyền thống
buôn bán của cư dân ven biển vùng
Nam Trung Hoa vào quá trình phát
triển thương mại ở miền Đông Nam
Bộ. Thêm vào đó, Trần Thượng Xuyên
còn thực hiện những chính sách
tích cực nhằm thu hút thương nhân
ngoại quốc đến định cư và buôn
bán, ông đã “Chiêu nạp người buôn
nước Tàu, xây dựng phố xá đường
xá, nhà ngói vách vôi, lầu quán hai
từng rực rỡ bên bờ sông liền lạc năm
dặm và phân hoạch ra ba đường phố,

đường lớn giữa lót đá trắng, đường
ngang lót đá ong, đường nhỏ lót đá
xanh, đường rộng bằng phẳng, người
buôn tụ tập đông đúc, tầu biển ghe
sông đến đậu neo, chen lấn lẫn nhau,
còn những nhà buôn bán to lớn ở đây
là nhiều hơn hết, làm thành một đại
đô hội”[12]. Chỉ trong một thời gian
ngắn, những người Hoa ở đây đã

xây dựng Cù Lao Phố trở thành
một thương cảng sầm uất, phồn
thịnh vào bậc nhất của miền Đông
Nam Bộ lúc bấy giờ, thương thuyền
trong nước và ngoài nước như:
Trung Hoa, Nhật Bản, Indonesia,
Malaixia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
v.v… kéo đến trao đổi và mua bán
hàng hóa.
Để tăng lợi nhuận, người Hoa
thường tiến hành “mua tận gốc,
bán tận ngọn”. Bên cạnh các cơ sở
buôn bán tại phố, họ còn đặt các
đại lý thu mua nông, lâm, hải sản
tận các địa phương. Thông thường
người nông dân thường thiếu vốn
để sản xuất, chủ các đại lý cho họ
vay tiền tuỳ theo giá trị sản phẩm
để làm vốn, đến mùa thu hoạch họ
phải bán sản phẩm lại cho các đại

lý. Chính vì vậy Hoa thương đã bỏ
qua khâu trung gian của các mối
lái khác, thu mua được nhiều loại
hàng, đáp ứng được số lượng mà
khách hàng yêu cầu. Họ làm chủ từ
khâu thu mua, đóng gói, đến vận
chuyển và phân phối hàng từ miền
biển lên, từ vùng núi xuống, từ
nông thôn ra thành thị. Với phương
thức như vậy, người Hoa ở Cù Lao
Phố đã thu được một nguồn lợi
nhuận khổng lồ.
Kiểu buôn bán ở Cù Lao Phố là
xuất nhập khẩu, cho nên họ tiến
hành xây dựng nhiều kho chứa
hàng và nhà cửa, để những người
mới đến thuê làm nơi cư trú và mở
cửa hàng buôn bán. Ngoài ra, ở đây
còn mở nhiều dịch vụ vui chơi giải
trí, ăn uống, nhà trọ phục vụ cho

thương nhân mỗi khi lên bờ chờ lấy
hàng. Quang cảnh đó được Trịnh
Hoài Đức mô tả: “Từ trước tầu buôn
đến đấy, bỏ neo đã xong, thuê phố
ở trọ, tất đến chủ nhà hàng, kê khai
hàng hóa cả thuyền, đưa nộp giao
cho cửa quan, rồi chủ hàng định
giá mua cả, xấu tốt xô bồ, không
có ứ đọng. Ngày buồm về, gọi là

hồi Đường, cần dùng hàng gì, cũng
phải khai rõ trước kỳ chủ hàng chiếu
theo đơn hẹn mà thu mua thay cho,
chủ khách hai bên cùng tiện, đơn
hàng tính trả xong, người khách
cứ việc đờn ca chơi nhởi. Đã được
nước ngọt trong sạch, lại không hà
sâu gặm khoét ván thuyền. Chỉ đợi
đến kỳ hạn chở đầy, sung sướng mà
quay về thôi”[13].
Khi đến định cư ở đây, người Hoa
đã trải qua những tháng ngày lênh
đênh trên biển, con người thì nhỏ bé,
còn biển cả thì bao la và dữ tợn, nó có
thể cướp đi sinh mạng của con người
bất cứ lúc nào. Trên chặng đường
dài đầy nguy hiểm đó, họ luôn cầu
nguyện Thần, Phật phù hộ độ trì đem
đến sự bình yên. Cho nên, khi đến
được vùng đất mới bình an vô sự,
nhu cầu hướng về các thần linh, tạ ơn
những vị thần đã từng giúp đỡ họ trên
bước đường vượt biển cũng là một
điều cần thiết. Thêm vào đó, với thân
phận ngụ cư nơi đất khách quê người
“hải ngoại cô nhi” (đứa con côi cút ở
nước ngoài), đến một vùng đất còn
nhiều hoang sơ, đầy sơn lam chướng
khí, hùm beo, rắn rết, họ luôn mang
tâm trạng mặc cảm sợ cả những vị

thần núi, thần sông, thần biển, thần

cây, thần đất, thần đá, v.v… Do vậy, khi
đã ổn định nơi ăn chốn ở, người Hoa
tiến hành xây dựng nhiều ngôi chùa,
đền miếu để thờ những vị thần trong
tín ngưỡng dân gian, trong Đạo giáo,
Khổng giáo, Phật giáo - đã bảo hộ, chở
che cho cộng đồng trong suốt hành
trình vượt biển cũng như quá trình lập
nghiệp trên vùng đất mới.
Họ tiến hành xây dựng những cơ
sở tín ngưỡng để bình ổn đời sống
tinh thần, cầu mong các vị thần Phật
phò trợ để tạo ra nhiều của cải, đời
sống ấm êm hạnh phúc, có nhiều con
cái để nối dõi tông đường, giúp diệt
trừ ma quỷ, giúp cho công ăn việc làm
được “thuận buồm xuôi gió”, v.v…
Hiện nay ở Biên Hòa vẫn còn
một số cơ sở tín ngưỡng được
xây dựng dưới thời Trần Thượng
Xuyên làm trấn thủ Biên Trấn,
điển hình như:
Chùa Ông (còn gọi là Thất phủ
cổ miếu) được xây năm 1684 ở phía
nam Cù Lao phố, nay là xã Hiệp Hòa,
thuộc thành phố Biên Hòa. Đây là
ngôi miếu được xây dựng sớm nhất
thờ Quan Công. Quan Công tượng

trưng cho sự rèn luyện nhân cách của
mỗi con người. Đó là đức tính trọng
danh dự, lòng chung thủy, sự hy
sinh, lòng độ lượng nhân từ, nhưng
đầy can đảm, công minh, chính trực.
Tuy nhiên, mỗi giới đều có cách nhìn
khác nhau về Quan Công, chẳng hạn
trong giới nho sĩ xem ông là vị thần
của văn học; giới sản xuất kinh doanh xem ông là thần Tài; giới bình
dân xem ông là vị thần độ mạng cho
nam giới; còn ở các khu dân cư thì

25

người ta xem ông là vị thần bảo hộ
xóm làng, thôn ấp. Ngoài ra, người
Hoa lấy ông làm biểu tượng trọng
“Nhân, Nghĩa, Trí, Tín”, trong đó chữ
“Tín” đã ăn sâu trong tâm khảm của
mỗi người Hoa qua nhiều thế hệ.
Văn miếu Trấn Biên ở địa phận
hai thôn Bình Thành và Tân Lại (nay
thuộc phường Bửu Long – thành
phố Biên Hòa) do chúa Nguyễn
Phúc Chu sai trấn thủ Nguyễn Phan
Long và ký lục Phạm Khánh Dư tiến
hành xây dựng vào tháng 2 năm
1715. Phía trước Văn miếu giáp với
sông Đồng Nai, đằng sau gối lên
núi Long Sơn. Việc thành lập Văn

miếu của chúa Nguyễn ở Trấn Biên
nhằm khuếch trương và phát triển
nền Nho học trong nước. Dưới thời
Pháp thuộc Văn miếu này bị phá
hủy. Đến năm 1998, Ủy ban Nhân
dân tỉnh Đồng Nai tiến hành khởi
công xây dựng lại.
Bửu Phong cổ tự tọa lạc ở
phường Bửu Long, thành phố Biên
Hòa. Nguyên thủy là một am tranh
do Hòa thượng Bửu Phong dựng
lên từ năm 1616. Đến năm 1679,
nhóm người Hoa của Trần Thượng
Xuyên đã xây cất lại và thỉnh Đại sư
Hoàng Long Đường thượng hiệu
Chí Thành, pháp danh Pháp Thông
đến trụ trì và tôn là Tổ khai sơn.
Ngoài việc đưa dân đi khai
hoang lập nghiệp, phát triển Cù
Lao Phố trở thành một trung tâm
thương mại vào bậc nhất ở khu vực
miền Đông Nam Bộ trong các thế kỷ
XVII, XVIII. Trần Thượng Xuyên còn
là một dũng tướng có tài thao lược,


26

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM


dạn dày kinh nghiệm trận mạc, ông
đã nhiều lần cầm quân giúp chúa
Nguyễn dẹp bọn phản loạn, bảo
vệ biên cương, đem lại sự bình yên
cho dân chúng đang sinh sống trên
vùng đất mới. Những đóng góp của
ông trong việc trấn giữ biên thùy
được sử sách chép rằng:
Anh Tôn Hiếu nghĩa Hoàng đế
(Nguyễn Phúc Trăn) năm thứ nhất
(1688) vào khoảng tháng 6, phó
tướng đạo quân Long Môn của
Dương Ngạn Địch là Hoàng Tiến tạo
phản, giết chết chủ tướng của mình
ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn
Dũng Hổ Oai Tướng quân, chiếm cứ
vùng đất Nan Khê (Kiến Hòa - Định
Tường), khẩn trương đóng tàu chiến,
đúc súng đại bác, đào hào đắp lũy,
thả quân đi cướp phá và đánh nhau
với người Chân Lạp. Nặc Ông Thu là
vua chính nước Chân Lạp đem lòng
oán giận nhà Nguyễn vì đã để cho
Hoàng Tiến lộng hành nên cũng đào
hào, đắp lũy Cầu Nam, Lũy Bích và
Nam Vang, lấy dây xích chằng cửa
sông để cố thủ và bỏ triều cống,
không chịu thuần phục nhà Nguyễn.
Trước tình hình đó, Chúa Nguyễn
Phúc Trăn sai phó tướng Mai Vạn

Long cùng Trần Thượng Xuyên mang
quân đi đánh dẹp, dùng mưu bắt và
giết được Hoàng Tiến, tàn quân Long
Môn xin hàng. Mai Vạn Long bèn
giao đạo quân này cho Trần Thượng
Xuyên sáp nhập vào đạo tiên phong,
đóng tại Doanh Châu, nay thuộc
Vĩnh Long.
Vào tháng 7 năm Kỷ Mão, Hiển
Tôn năm thứ 8 (1699), Nặc Ông Thu
đem quân chống lại binh lính của
chúa Nguyễn, Chúa sai Nguyễn
Hữu Cảnh làm Thống suất, Cai bạ
Phạm Cẩm Long làm Tham mưu,

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu
Khánh làm tiên phong, lãnh quân
hai dinh Bình Khang, Trấn Biên và
thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng
Nam cùng tướng sĩ đạo quân Long
Môn do Trần Thượng Xuyên chỉ
huy tiến thẳng sang Nam Vang.
Đến tháng 3 năm 1700, Thống
binh Trần Thượng Xuyên cùng
quân Chân Lạp đánh nhau liên
tục nhiều trận và đều giành thắng
lợi. Khi đạo quân do Nguyễn Hữu
Cảnh chỉ huy tiến đến Lũy Bích Đôi,

Nam Vang thì Nặc Ông Thu ra đón
đánh. Khi thấy Nguyễn Hữu Cảnh
mình khoát nhung bào, tay vung

27

gươm thì Nặc Ông Thu hoảng sợ bỏ
chạy, con của Nặc Ông Nộn là Nặc
Ông Yêm[15] đến trại xin hàng.
Năm thứ 20 (tức 1711), Nặc Ông
Thâm là con của Nặc Ông Thu ở Xiêm
về nghi Nặc Ông Yêm làm phản nên
đem quân từ Xiêm La về âm mưu định
giết Nặc Ông Yêm, Yêm sai người sang
Trấn Biên cầu cứu. Trần Thượng Xuyên
cùng Nguyễn Cửu Vân bèn tâu về Kinh.
Năm 1714, Thâm mượn quân Xiêm về
vây Yêm, triều đình phong Trần Thượng
Xuyên làm Đô đốc Phiên Trấn, tiến vào
Sài Côn, Nguyễn Cửu Vân tiến vào Suối
Lạp, còn thủy binh tiến vào Mỹ Tho, Nặc
Ông Thu cả sợ, cho người đưa thư đến

xin phục tội, và xin lập vua mới để giữ
nước nhà, các tướng không dám giải
quyết, bèn tâu về triều xin mệnh lệnh.
Hoàng thượng lấy làm hài lòng, tha
thứ tội lỗi của Nặc Ông Thu, còn việc
lập vua mới thì không cho phép. Thế
rồi năm thứ 24 (1715) Nặc Ông Thâm

ở thành La Bích vì quá cùng quẫn nên
đã đốt hết dinh thự, phố xá rồi bỏ trốn,
Nặc Ông Thu thấy vậy cũng bỏ trốn
theo. Trần Thượng Xuyên và Nguyễn
Cửu Phú được tin bèn kéo quân vào
thành, một mặt sai quân đi cứu hỏa,
một mặt tịch thu các khí cụ còn lại, rồi
cho người do thám biết rằng Nặc Ông
Thu còn đang ẩn nấp trong tháp Băng
Thủy, Trần Thượng Xuyên sai Nặc Ông
Yêm đi gọi nhưng cha con Nặc Ông
Thu vì quá sợ hãi nên không dám về,
triều đình lại phong cho Nặc Ông Yêm
làm Quốc vương đất Chân Lạp. Tháng

4 năm 1715, Vua Xiêm sai người sang
trách Nặc Ông Yêm về việc gây hấn và
đe dọa rằng: nay mai sẽ đem quân sang
giúp Nặc Ông Thâm, Yêm cả sợ bèn báo
cho Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Cửu
Phú biết, cả hai cùng tấu sớ về triều,
triều đình cho phép hai ông được đặc
quyền xử trí, còn nếu như Nặc Ông Yêm
sợ binh lực kém cỏi thì nên trao y tất cả
số khí giới lương thực vừa tịch thu được,
và bảo vệ cho y cai trị lấy dân. Thế rồi
cách mấy tháng sau thì Trần Thượng
Xuyên bị bạo bệnh rồi qua đời[16].

3. Kết luận

Trần Thượng Xuyên mất đi, nhân
dân Trấn Biên vô cùng thương tiếc vì
ông là con người thẳng thắn, luôn
quan tâm chăm sóc đến đời sống
của nhân dân, bảo vệ và dìu dắt nhân
dân từ những buổi đầu khai hoang

mở đất. Ngoài ra, ông còn là người
có công lớn trong việc phát triển
thương mại cũng như văn hóa của
vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Vì vậy
nhân dân Trấn Biên ghi nhớ công
lao của ông, dựng đền miếu để thờ.
Tại Biên Hòa, dưới thời Minh Mạng
người dân lập một ngôi miếu nhỏ
ở thành Kèn, thuộc thôn Tân Lân,
huyện Phước Chánh, dinh Trấn Biên
(nay là phường Hòa Bình, thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) để bày tỏ
lòng ngưỡng vọng Trấn Biên Đô đốc
tướng quân Trần Thượng Xuyên, sau
này trở thành đình Tân Lân. Ngày 23
tháng 10 âm lịch hàng năm là ngày
khách thập phương đến đình Tân
Lân để vía “Đức Ông”. Tại đình hiện
còn nhiều câu đối ca ngợi công đức
của ông:
“Thánh đức hiển thiên niên dân



28

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

thọ tài phong tứ hải đồng xưng
Thuấn nhựt
Thần quang linh vạn tải quốc long
phú thạnh cửu châu cộng ngưỡng
Nghiêu thiên”
Dịch: “Cái đức của bậc thánh hiển
linh ngàn năm, người dân được sống
lâu, của cải được dồi dào, khắp bốn
biển cùng nhau ca tụng đây là thời kỳ
của vua Thuấn
Cái ánh sáng của thần linh chiếu
rạng muôn đời, đất nước hưng long,
giàu có khắp chín châu đều ngưỡng
mộ như thời vua Nghiêu”[17].
Tại xã Bửu Hòa, ấp Mỹ Khánh
(nay là phường Bửu Hòa, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai), trước
kia là khu vực tụ cư đông đảo của
nhóm người Hoa theo Trần Thượng
Xuyên, họ được chúa Nguyễn cho
thừa hưởng hương hỏa của ông.
Về sau người dân nơi đây dựng
lên chùa Thanh Lương thờ tượng
đồng và linh vị Trần Thượng Xuyên
và tôn xưng ông là “Trần Tướng
công”. Về sau, người Minh Hương ở

Gia Định cũng lập miếu để thờ Trần
Thượng Xuyên (nay dấu tích còn ở
Đình Minh Hương Gia Thạnh, ở Phú
Nghĩa Hội quán - quận 5; ở Đình Phú
Lạc - huyện Bình Chánh, thành phố
Hồ Chí Minh).
Ghi nhớ công lao của Trần
Thượng Xuyên, chúa Nguyễn ban
danh hiệu “Nguyễn vi Vương, Trần
vi Tướng, đại đại công thần bất
tuyệt” (tức Họ Nguyễn làm Vua, họ
Trần làm Tướng, công khanh đời
đời không dứt). Đến đời Minh Mạng
và Thiệu Trị, ông được phong là
“Thượng Đẳng thần” và được nhân
dân vùng Đồng Nai - Gia Định tôn
là “Phúc thần” của làng xã và được
nhân dân ghi tạc, tôn thờ, xem như
vị thần đã khai sáng vùng đất này.

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biên Hòa - Đồng Nai, 300 năm hình
thành và phát triển, Nxb. Đồng Nai, 1998.
2. Tô Nam Nguyễn Đình Diêm, Minh
Hương lược khảo, Văn hóa Á Châu, số 5
năm 1958.
3. Lê Quí Đôn, Phủ biên tạp lục (Lê Xuân
Giáo dịch), tập 2, Tủ sách cổ văn - Ủy ban dịch

thuật Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa
xuất bản, 1973.
4. Địa Chí Đồng Nai, Tập I (Tổng quan),
Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
5. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông
chí, Nxb Giáo dục, 1998.
6. Châu Hải, Các nhóm cộng đồng
người Hoa ở Việt Nam , Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1992.
7. Nguyễn Văn Huy, Người Hoa tại Việt
Nam , Paris, 1993.
8. Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ Chí
Minh, Nam Bộ - đất và người, Nxb. Trẻ, 2002.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt (Tu trai
Nguyễn Tạo dịch), Tập Thượng, Biên Hoà - Gia
Định, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc
trách văn hóa, 1973.
10. Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam
thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, 2001.
11. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng,
Phan Xuân Biên, Văn hóa Đồng Nai (sơ thảo),
Nxb. Đồng Nai, 2005.
12. Tsai Maw Kuey, Người Hoa ở miền
Nam Việt Nam , Pari - Thư viện Quốc gia,
1968.
13. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược,
quyển 2, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1971.
14. Litana, Nguyễn Cẩm Thúy, Bia chữ
Hán trong hội quán người Hoa ở thành phố

Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999.
15. Trần Hồng Liên, Văn hóa người Hoa ở
Nam Bộ - Tín ngưỡng và tôn giáo, Nxb. Khoa
học xã hội, 2005.
16. Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược
toàn biên, quyển 2, Tác giả xuất bản, 1973.
[1] Về năm sinh của Trần Thượng Xuyên,
trên bài vị thờ ông ở chùa Thanh Lương
(phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa) ghi
ông sinh năm 1655. Tuy nhiên, nguồn sử liệu
này chưa đủ độ tin cậy; Còn năm mất của ông
cho đến nay có nhiều nguồn tài liệu ghi chép
khác nhau. Trong công trình biên khảo “Biên
Hòa sử lược toàn biên” của Lương Văn Lựu thì
cho rằng ông mất vào ngày 23 tháng 10 âm
lịch năm Canh Tý (1720) và được an táng ở

phía bắc dinh Trấn Biên, thuộc huyện Phước
Bình (Tân Uyên), phủ Phước Long (Biên Hòa).
Còn theo bài vị thờ ông ở chùa Thanh Lương
ghi ông mất năm Canh Thìn 1700. Còn trong
nhiều tài liệu của tỉnh Đồng Nai: Địa chí Đồng
Nai; Biên Hòa - Đồng Nai, 300 năm hình thành
và phát triển; Văn hóa Đồng Nai sơ thảo; v.v..
đều cho rằng ông mất năm 1720. Trong khi Tô
nam Nguyễn Đình Diêm trong “Minh Hương
lược khảo” đã căn cứ vào nguồn sử liệu của
triều Nguyễn, Minh sử, Thanh sử của Trung
Quốc, v.v… cho rằng ông mất năm 1715, sau

khi cùng với Nguyễn Cửu Phú đi đánh dẹp
quân Chân Lạp, hạ được thành La Bích. Trong
bài viết này, tôi sử dụng nguồn tài liệu của tác
giả Tô Nam Nguyễn Đình Diêm, lấy năm ông
mất là 1715.
[2] Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam
thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, 2001, tr.91.
[3] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược,
quyển 2, Trung tâm Học liệu xuất bản,
1971, tr.81.
[4] Tsai Maw Kuey, Người Hoa ở miền
Nam Việt Nam, Pari, Thư viện Quốc gia,
1968, tr.33.
[5] Lê Quí Đôn, Phủ biên tạp lục (Lê Xuân
Giáo dịch), tập 2, Tủ sách cổ văn – Ủy ban dịch
thuật Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa
xuất bản, 1973, tr.439.
[6] Lê Quí Đôn, Sđd, tr.439-440.
[7] Lê Quí Đôn, Sđd, tr.440.
[8] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông
chí, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.77.
[9] Lê Quí Đôn, sđd, tr.162.
[10] Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ
Chí Minh, Nam Bộ - đất và người, Nxb. Trẻ,
2002, tr.42.
[11] Lê Quí Đôn, sđd, tr.375.
[12] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam nhất thống chí, tập thượng, Biên HòaGia Định. Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh
đặc trách văn hóa xuất bản, 1973, tr.30.
[13] Trịnh Hoài Đức, Sđd, tr.24-25.

[14] Trần Hồng Liên, Văn hóa người Hoa ở
Nam Bộ – Tín ngưỡng và tôn giáo, Nxb. Khoa
học xã hội, 2005, tr.13.
[15] Nặc Ông Nộn là vua thứ của Chân
Lạp, có con là Nặc Ông Yêm; Nặc Ông Yêm là
rể của Nặc Ông Thu.
[16] Tô Nam Nguyễn Đình Diêm, Minh
Hương lược khảo, Văn hóa Á Châu, số 5 năm
1958, tr.25.
[17] Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng,
Phan Xuân Biên, Văn hóa Đồng Nai (Sơ thảo),
Nxb. Đồng Nai, 2005, tr.168.

V. V. H

29

ĐÌNH BỒ BẢN
- TRẦN VĂN QUYẾN -

Đ

ình Bồ Bản thuộc thôn Bồ Bản, xã Hòa Phong,
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, được Bộ
Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia ngày 04.01.1999. Đây là ngôi
đình có giá trị lịch sử và kiến trúc, được xây dựng
vào những năm đầu của thế kỷ XIX, với lối kiến trúc cổ kính
và nghệ thuật điêu khắc tinh xảo của các nghệ nhân làng
mộc Kim Bồng (Hội An).

Làng Bồ Bản được thành lập vào những năm cuối
thế kỷ XV (khoảng năm 1476) cùng với công cuộc Nam
chinh của vua Lê Thánh Tông. Ban đầu có các tộc: Trần, Hồ,
Trương, Nguyễn từ Thanh Hóa, Nghệ An vào khai khẩn và
sinh cơ lập nghiệp. Về sau có các tộc: Tán, Đinh, Nguyễn,
Phạm... đến ở. Khi đất đai được mở rộng, đời sống nhân
dân ngày càng ổn định, dân làng đã xây dựng đình Bồ Bản
vào năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) làm nơi
thờ cúng, tế lễ và hội họp. Ban đầu đình được xây dựng
bằng tranh tre tại gò Miếu Tam Vị, đến năm Tự Đức thứ 5
(1852) đình được xây dựng lại bề thế hơn ở vị trí hiện nay.

Phía trước mặt đình là cánh đồng rộng lớn với con
sông Yên chảy bao quanh, lại có Gò Ổi phía trái; Gò
Miếu Tam Vị bên phải tạo ra thế “rồng chầu hổ phục”.
Trải qua thời gian đình bị hư hỏng nên năm Thành
Thái thứ 18 (1906) đình được trùng tu lại, vẫn giữ
nguyên hiện trạng lúc ban đầu. Trên thượng lương
của đình hiện vẫn còn dòng chữ Hán khắc chìm:
Thành Thái thập bát niên, tuế thứ Bính Ngọ tam nguyệt,
nhị thập ngũ nhật y cựu Nhâm sơn Bính hướng, bổn xã
đồng tu tạo (Thành Thái năm thứ 18, Bính Ngọ, tháng
3 ngày 25, tọa Nhâm hướng Bính, bà con trong xã cùng
trùng tu, tôn tạo).
Từ đó đến nay đình được tu sửa nhiều lần như làm
lại mái, thay một số kèo ở hai gian chái, thay những cây
cột hỏng bằng gỗ mít và kiền kiền... Tuy nhiên, kiến trúc
nghệ thuật của đình thì hầu như không thay đổi.
Đình Bồ Bản được kiến trúc theo kiểu “ba gian hai
chái”. Bên trong phần chính điện đặt bàn thờ hương

án thờ Thành Hoàng làng. Tả ban đề chữ quang tiền


30

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

thờ tiên hiền, hữu ban đề hai chữ dũ hậu thờ hậu hiền.
Ngoài ra chính điện còn thờ: Đại Càn Quốc Gia Nam
Hải Tứ Vị Thánh Nương; Thần Nông Đại Đế; Quan
Thánh Đế Quân; Thiên Y A Na Diễn Phi Ngọc Chúa
Thượng Đẳng Thần; Dương Phi Phu Nhân... 36 cây
cột trong đình đều được làm bằng gỗ mít và gỗ kiền
kiền, được đặt trên kệ đá chạm hình trái bí. Ở phần
mái hiên, các kết cấu “chồng rường giả thủ”, kèo giao
kỷ 4 trụ chạm hình quy cánh quạt, 4 trính giữa chạm
đầu rồng, bụng kèo chạm hình tứ quý, hình đầu
rồng, dây lá... Tất cả đều được chạm trổ thành những
tác phẩm độc đáo, tinh xảo và tài hoa dưới bàn tay
của các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng nổi tiếng
một thời. Phần trang trí bên ngoài, trên nóc đình đắp
hình “lưỡng long tranh châu”; gia thu giữa đắp “lưỡng
phụng tranh ngọc” và hình kim quy cá gáy; cuối mái
ngói đắp cặp kỳ lân chầu vào cùng đồ án “thanh long
- bạch hổ” (còn gọi là “long hổ hội”) tạo cho ngôi đình
dáng vẻ cổ xưa và nghệ thuật khảm sành sứ với kỹ
thuật tinh xảo.
Ngoài giá trị nghệ thuật và điêu khắc, đình Bồ
Bản còn là nơi tập họp đoàn biểu tình của tổng An
Phước, huyện Hòa Vang để giành chính quyền từ tay

thực dân phong kiến, thành lập Ủy ban Hành chính
của xã Bồ Bản vào tháng 8.1945. Nơi đây cũng là địa
điểm hoạt động cách mạng trong suốt thời kỳ kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Hiện trong đình còn giữ được một bộ Long đình
dùng để thỉnh sắc phong của vua cao 2,2m, rộng 1m
xung quanh chạm hình hoa lá, trên nóc chạm lưỡng
long chầu nguyệt, 4 góc chạm 4 hình con lân rất cổ
kính; một văn bia miếu Quan Thánh Đế Quân của
làng, lạc khoản đề năm Tự Đức ngũ niên (1852); một
bệ thờ mới được dân làng thỉnh về đình từ miếu Bà,
vốn là phế tích của một tháp Chăm xưa.
Hàng năm vào mùa xuân và mùa thu (xuân thu
nhị kỳ) làng tổ chức tế lễ cầu mong quốc thái dân an,
mùa màng bội thu. Ngoài ra vào ngày mồng 1 tháng
Giêng âm lịch hàng năm, dân làng còn tổ chức lễ
Minh niên và ngày rằm tháng 8 có cúng tế các vị tiên
hiền cầu an ở đình Bồ Bản.
Đình Bồ Bản hiện đang được nhân dân địa
phương và các cấp chính quyền chung tay giữ gìn
để bảo lưu một ngôi đình cổ còn nguyên vẹn mang
nhiều dấu ấn lịch sử và nghệ thuật điêu khắc của
thành phố Đà Nẵng, như ước nguyện của dân làng
Bồ Bản thể hiện ở đôi câu đối trước đình làng: Lễ lạc y
quan chi tụy. Thanh danh văn vật tương đô (Nơi lưu giữ
lễ lạc y quan. Chốn hội tụ thanh danh văn vật).
T.V.Q

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM


Lý Sơn

CHUYỆN CHÓ KÉO XE Ở

- THANH THẢO -

31


32

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

T

ôi xin gửi tới các
bạn hai tấm ảnh:
một tấm ảnh tôi
lấy trên mạng về
cảnh chó kéo xe
trượt tuyết trong một cuộc đua kỳ
thú trên vùng núi Pyrenees thuộc
Tây Ban Nha. Mỗi xe đua của vận
động viên được 8 chú chó kéo, dĩ
nhiên là chạy với tốc độ chóng mặt
trên những sườn núi tuyết. Một tấm
ảnh khác cũng về chó kéo xe nhưng
trượt…cát, tôi nhận được từ một
nhà báo trẻ rất năng động, anh Mai
Thanh Hải, cũng là một blogger nổi

tiếng. Tấm ảnh này anh Hải chụp từ
đảo Bé-thuộc đảo Lý Sơn, Quảng
Ngãi. Lặn lội ra đảo Bé, một đảo
khá khó đi vốn là “em sinh đôi” của
đảo lớn Lý Sơn, Mai Thanh Hải cùng
nhóm các nhà báo và nhà thơ Văn
Công Hùng đã tình cờ gặp anh Bùi
Huệ( người ngồi trên xe lăn trong
bức ảnh). Anh Huệ vốn là dân thợ
lặn biển khá khét tiếng của đảo Lý
Sơn, nhưng trong một lần lặn biển
tại quần đảo Hoàng Sa để bắt hải
sâm, anh Huệ đã gặp tai nạn từ độ
sâu mấy chục sải nước. Về lại được
đảo Bé, nhưng sau tai nạn ấy, anh
Huệ bị liệt nửa người, không còn
khả năng lao động được nữa.Bây
giờ, anh phải di chuyển bằng xe lăn.
Không có xe lăn tốt, hai cánh tay
lại không còn khoẻ mạnh, anh Huệ
đã xin được một chiếc xe lăn “tã”.
Nhưng chàng trai mới hơn ba mươi
tuổi này dẫu “tàn nhưng không
phế”, anh còn nguyên một cái đầu
rất năng động và nhiều sáng kiến.
Anh Huệ đã huấn luyện hai chú chó

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

VĂN BIA TƯỞNG NIỆM LÃNH BINH

NGUYỄN ĐỨC ỨNG VÀ 27 NGHĨA BINH TỬ TRẬN
TẠI LŨY KHÍ GIANG NĂM 1861
- HUỲNH NGỌC TRẢNG -

nhà, và “thắng cương” cho hai chú
để trở thành hai “vệ sĩ” chuyên kéo
xe lăn cho anh tuần du quanh đảo.
Đảo Bé Lý Sơn theo hộ khẩu thì có
khoảng 500 dân, nhưng hiện tại chỉ
còn hơn một trăm người thường
xuyên sinh sống tại đó. Do đảo chỉ
có bãi ngang suốt ngày đêm bị sóng
đánh, nên rất khó khăn để dân mưu
sinh bằng nghề đi biển, vì thiếu chỗ
đậu thuyền. Anh Huệ bây giờ, mỗi
khi nhớ biển, anh lại đu mình trên
một chiếc thang từ nhà mình để
nhìn ra biển. Nhìn ra với ánh mắt
đầy khao khát và buồn bã. Anh khát
biển, ao ước những chuyến đi khơi,
những lần lặn biển cực nhọc và đầy
nguy hiểm tại quần đảo Hoàng Sa.
Nhưng bây giờ ao ước ấy đã quá xa
vời, đã thoát khỏi tầm tay anh. Bây
giờ, chỉ còn những cuộc “tuần du”
trên những bãi cát quanh đảo Bé,
anh Huệ lúc thì tự mình điều khiển
chiếc “xe trượt cát” có hai chú chó
kéo, lúc thì “du hành” với thêm sự trợ
giúp của thằng em hay thằng cháu

nhỏ chạy theo sau. Hình ảnh lạ lùng
và đặc biệt xúc động này đã không
lọt qua cặp mắt các nhà báo vốn
nặng lòng với Lý Sơn. Các anh sau
khi chụp được nhiều tấm ảnh “lạ”
về cảnh anh Huệ di chuyển trên “xe
trượt cát” do hai chú chó kéo, đã bàn
nhau và quyết định tặng anh Huệ

một chiếc xe lăn “xịn”, để anh Huệ
dễ dàng hơn trong những chuyến
“tuần du” quanh đảo. Tình hình biển
Đông đang “nóng” lên từng ngày do
những hành động cường bạo của
“người anh em” Trung Quốc, nên
đảo Bé vốn nghèo nàn chưa chắc
còn được hai chữ “bình yên” mãi.
Vì thế, người dân đảo Bé phải luôn
căng mình cảnh giác. Trên chiếc xe
lăn do hai chú chó kéo, anh Huệ đã
tự coi mình như “cặp mắt canh biển”
của đảo Bé, dù không ai phân công
cho anh nhiệm vụ vốn dành cho các
chiến sĩ biên phòng đó. Ngồi trên
xe lăn với hai chú chó kéo, nhưng
anh Huệ không phải đi chơi không
không đâu! Anh canh biển. Anh biến
mình thành một niềm vui nhỏ nhoi,
một sự thân thiện dịu dàng mà đảo
Bé muốn gửi tới các du khách, những

người Việt yêu mến Lý Sơn- hòn đảo
nay đã trở nên một cái tên và một
địa chỉ vô cùng thân thương với mọi
người Việt Nam yêu nước. Và, tại sao
không, tôi nhìn hình ảnh người thợ
lặn biển giờ tàn tật ngồi xe lăn chó
kéo này như một biểu tượng của sự
bất khuất, không đầu hàng nghịch
cảnh, một hình ảnh của tình yêu quê
hương đau đáu, hình ảnh của “một
người yêu nước mình”. Yêu đảo Bé
của mình, cũng là yêu nước.
T. T

Từng nghe: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Gặp thời đại định thì
đem tài trí mưu lập lấy điều thành, cốt cho muôn dân được an cư lạc nghiệp. Lúc
hữu sự thì vì nước quên nhà, lúc gặp nguy thì không tiếc mạng. Phàm hào kiệt
xưa nay đều sống chết như vậy nên ngàn đời đều lấy đó làm gương. Đấng trượng
phu dốc lòng trung nghĩa, vì nước vong thân, thì không lấy chuyện thành bại mà
luận bàn hay dở.
Nước Việt Nam ta từ trước…
Trải các triều lịch đại đế vương, thăng trầm có lúc, nhưng chưa bao giờ cúi mặt
làm tôi mọi cho người. Ấy vậy mà kể từ năm Mậu Ngọ, giặc Tây dương đem tàu sắt
súng đồng đánh thành chiếm đất, nước ta thành thuộc địa lâu dài.
Dân ta gặp cảnh ly loàn;
Vận nước đang hồi bỉ cực.
Đường trị loạn cổ kim đà chỉ rõ;
Sự chiến – hoà, vinh – nhục sách sử hãy còn ghi.
Cho nên: Khi giặc bắn đại bác vào đồn Phước Thắng ta đắp hàn cắt đứt
đường sông,

Lúc giặc giăng tàu chiến, pháo hạm tấn công, ta đánh chặn ở đồn Bảo Trâm,
Lương Thiện…
Xông trận giữ đồn Danh Nghĩa, Nhà Bè: bắn thần công đốt cháy tàu Tây;
Mấy phen cố thủ Tả Định, Tam Kỳ: kẻ đâm ngang người chém ngược, liều mình
như chẳng có.
Hỡi ôi!
Có trời chưa thuận: Thành Gia Định, mối oan cừu chưa trả… máu đỏ sông Đồng
Nai, Bến Nghé;
Vận nước đang hồi nghiêng ngã: Đại đồn Chí Hòa thất thủ, chốn sa trường… da
ngựa bọc thây.
Đang hồi lửa dậy, việc chiến việc hòa tưởng rằng tương kế tựu kế tựu mưu, nào
hay quan Khâm sai sợ tàu lớn súng to đã đành lòng toan bề hàng giặc;
Vừa lúc thù đánh tới Biên Hòa, quan tướng binh triều bỏ thành chạy thoát lấy
thân, Tuần phủ, Án sát tỉnh thần rút về Hố Nhỉ mấy ngày cũng tìm đường trốn ra
Bình Thuận.
Sức giặc đương lúc cương cường, được một muốn mười: trên lộ thúc bộ binh,
dưới sông xua tàu chiến hầm hè lấn tới;
Nguyễn Lãnh binh ta, vốn đã trải mấy đồn Lương Thiện, Tam Kỳ, Tả Định, Bảo
Trâm... thù kia quyết chẳng đội trời chung.

33


34

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM


Được thương tiếc khắp thế giới
- TRẦM HƯƠNG Biên Hòa thất thủ, thế lực bất cẩn: về Ký Giang đắp lũy xây đồn, giữ một góc bày
lòng địch khái;
Cắt quan lộ giàn quân ngăn giặc, chọn Vũng Lươn, Bàu Lùng làm căn cứ công thủ
được vừa hai.
Lũy cũ: vùng bàu bày thế hiểm;
Rừng hoang: tre mây mọc kín dựng vách xây thành.
Cờ đại nghĩa vừa treo, trăm người như một rập theo: kẻ gươm giáo sung quân,
người góp lương tiền gạo thóc;
Giàn quân trực diện, đánh thù một trận lẫy lừng: đạp rào lướt tới, thà thác còn hơn
chịu chữ đầu Tây.
Than ôi!
Thành Gia Định, Đại Đồn thuở trước cũng khó bề xoay trở cự đương;
Huống chi cô lũy Ký Giang giờ khác thể ngàn cân treo sợi tóc.
Chí dốc ngăn thù đánh xuống, đắp lũy rào đồn mưu đại sự nào hay đâu trời nỡ phụ
anh hùng;
Lòng những mong theo cờ phấn nghĩa tính kế dài lâu, sao đất vội chiêu hồn nghĩa
binh về âm cảnh.
Gác đầu về núi, ôi vương thổ ba tỉnh còn đâu;
Nhắm mắt xuôi tay, biết bao giờ cờ phất trống rung, giành lại được nước non non
nước cũ!
Trăng lạnh đêm thâu, cỏ cây mãi xôn xao khuya tiếng giáo gươm tướng binh chưa
hề nguôi hận;
Sương sớm mưa mai, hoa rừng khôn ráo lệ gửi tiếc thương theo tiếng chim vịt kêu
chiều.
Mến người trung nghĩa: đá núi tạc bia son một tấm, kẻo ngày qua tháng lại phôi
pha;
Thương bao người vị quốc vong thân: vun đất cỏ đắp mộ giữa rừng… xuân hạ thu
đông yên ấm dưới hai vầng nhật nguyệt.

Nay đất nước yên bình;
Giờ non sông đang đổi mới.
Đốt lọn nhang trầm cáo với các anh linh rằng: hận nước nay cháu con đà rửa sạch;
Xây đền thiêng đặng hương khói trang nghiêm, cốt tỏ tấc dạ kính thành.
Quân dân Long Thành thành kính lập bia.
H. N. T bái bút.

35


36

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Liệt sĩ, Anh hùng LLVT
Lê Thị Riêng

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

T

rong ngày lễ truy tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân cho đồng chí Trần Văn Kiểu và
đồng chí Lê Thị Riêng, bà Đỗ Duy
Liên nghẹn ngào nói: “Chị Riêng hy
sinh đến nay đã hơn 30 năm… mới được truy
tặng danh hiệu anh hùng “là một sự chậm trễ,
một sự thiếu sót đối với người đồng chí đã hy


sinh vô cùng đau thương và anh
dũng như chị Riêng, anh Kiểu…”
43 năm đã trôi qua… Nhân
chứng đêm mùa xuân năm 1968
đầy kinh hoàng vẫn còn hiển hiện
trong ký ức chị Phùng Ngọc Anhnữ biệt động cánh Hoa Vận Sài GònChợ Lớn, người may mắn còn sống
sót trong trận thủ tiêu hèn hạ của kẻ
thù. Hôm ấy, chị trong số 3 người bị
chúng lùa lên chiếc xe bịt bùng. Chị
Ngọc Anh nhớ lại…
Đó là một buổi chiều mùng một
tết Mậu Thân năm 68…
Chiếc xe chở tù ra đến đường
Hồng Bàng tối âm âm… Chiếc xe
bỗng thắng gấp. Bọn cảnh sát ngồi
trước xô nhau nhảy xuống. Khi
ba cái bóng vừa chạy vụt qua bên
đường, chiếc xe “hộ tống” phía sau
bắt đầu bắn tiểu liên vào chiếc xe
chở tù nhân. “Đả đảo tàn sát, đả
đảo tàn sát!”. Chị Hai Riêng la lớn.
Chị khum người chồm tới như để
che chở cho Ngọc Anh. Anh Chín
kiểu trúng đạn, cố dốc tàn lực hô
lớn: “Đả đảo, đả đảo…”. Khói mịt
mùng trong thùng xe, khét lẹt, ngộp
thở. Một tràn đạn ghim vào đùi, vào
mông Ngọc Anh…
Tiếng súng chợt im bặt. Chị
Riêng từ từ hồi tỉnh. Chị ngẩng lên:

“Anh Chín, anh Chín!”. Anh Chín nằm
bất động. Máu anh trào ra nhuộm
đỏ ngực áo chị Riêng và Ngọc Anh,
cánh tay còn bám chặt trên thành
xe như lời vẫy gọi mọi người xông
lên phía trước. “Ngọc Anh, Ngọc
Anh, em có sao không?!”. Chị Riêng
gọi tiếp. Ngọc Anh thì thào: “Em bị
thương rồi, chị ơi!”. Chị Riêng vùng
ngồi bật dậy, dùng chân đập cửa,
kêu cứu. Đáp lại lời chị là hàng loạt

súng kế tiếp. Chiếc xe như chồm lên, lại đạn
bay, khói mù, gió bạt… Một viên đạn lại chệch
qua đầu Ngọc Anh, máu ra lênh láng, chị lịm
đi. Chợt chị Riêng ngồi bật dậy hô lớn, hai tay
đưa thẳng về phía trước: “Đả đảo tàn sát, đả
đảo tàn sát, đả đảo tàn sát! Hồ Chí Minh muôn
năm!” Tiếng giày đinh rầm rập, những khẩu
tiểu liên chỉa về phía chị. Tên mặc áo trắng
cầm khẩu ru-lô rít giọng: “Đ.M. mày vừa la cái
gì, hả?!”. Chị Riêng với thế ngồi đường bệ, ưỡn
ngực về phía hắn, mắt tóe lửa: “Quân khốn
kiếp, bắn tao đi!”. Lời cuối cùng chưa kịp thoát
ra khỏi đôi môi, người chị như bị một bàn tay
vô hình giật mạnh sau ánh lửa xanh dờn phụt
ra từ nòng súng ghim thẳng vào ngực chị. Đôi
mắt chị mở to, kiêu hãnh. Máu từ ngực chị tuôn
như dòng suối đỏ, tóc chị xổ tung. Ánh mắt chị
làm kẻ thù sợ hãi, bỏ chạy vào bóng tối…

Nhờ sự giúp đỡ của ông Nhu- một bác sĩ
có lương tâm, nhờ vào sự đấu tranh của các
bạn tù trong bệnh viện, chị Phùng Ngọc Anh
may mắn được cứu sống. Chị là chứng nhân
cái chết anh dũng của người lãnh đạo Công
đoàn Trần Văn Kiểu và Phó Hội trưởng hội
Liên Hiệp Phụ Nữ Giải phóng Miền Nam Việt
Nam Lê Thị Riêng.
Ký ức về chị Lê Thị Riêng vẫn tươi nguyên
trong lòng bà Đỗ Duy Liên. Đại diện những
người cùng thời với chị Lê Thị Riêng, bà Đỗ
Duy Liên nghẹn ngào kể: “Chị Riêng vừa là
người thủ trưởng của tôi, vừa là đồng chí,
người bạn thân nhất của đời tôi. Chị xứng
đáng được gọi là người anh hùng, ngay trong
những ngày còn sống. Đó cũng là một người
phụ nữ yêu con, yêu quý chồng đến hiếm có
trên đời. Trong những năm ác liệt của chiến
tranh, chị vẫn dành những gì tốt đẹp nhất
cho chồng, cho con. Trong nhật ký người mẹ
của chị còn lưu lại những dòng chữ đầy cảm
động. Chị ghi từng thay đổi nhỏ trong tiếng
cười, tiếng khóc của con… Tôi nhớ năm 1960,
nghe tin chồng chị Riêng hy sinh, chúng tôi nói
với nhau: “Chị Riêng yêu chồng như vậy, tôi e
phen này trước mất mát quá lớn, chị sẽ gục
ngã…”. Nhưng không, mới mấy ngày sau, chị

37


đã khoác ba lô lên đường đi mở lớp đào tạo
cán bộ phụ nữ ở Miền Đông Nam bộ…”
Sau khi chị Riêng bị sát hại, những người
đồng chí cùng thời với chị Lê Thị Riêng
không sao quên được bầu không khí sôi
sục căm thù. Trung ương Hội Phụ nữ giải
phóng miền Nam phát động phong trào
“Phụ nữ miền Nam nỗ lực làm gấp 5, gấp 10
lần thay chị Riêng để tiệu diệt kẻ thù”. Tháng
thi đua lập thành tích trả thù cho chị Riêng
đã được tiến hành rộng rãi ở khắp các cấp,
các địa phương. Các cấp Hội từ Trung Ương
đến xã đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu
chị Lê Thị Riêng. Toàn thể cán bộ được học
tập tiểu sử và gương chiến đấu dũng cảm
của chị, “quyết biến căm thù thành hành
động để phục vụ tổng tiến công thắng lợi”.
Ở miền Bắc, lễ truy điệu chị Lê Thị Riêng
được tổ chức khắp nơi, từ cấp Trung Ương
đến xã, các xí nghiệp, trường học, hợp tác
xã, nông trường… nhằm phát động tháng
thi đua tăng năng suất, hành động vì miền
Nam ruột thịt. Hàng trăm, hàng ngàn bản
kiến nghị, thư từ của chị em hội viên phụ
nữ miền Bắc gởi về Hội phụ nữ giải phóng
miền Nam, hứa hẹn hạ quyết tâm lập thành
tích trả thù cho chị Lê Thị Riêng…
Nhưng điều đặc biệt vinh dự dành cho
chị Lê Thị Riêng chính là tấm lòng, thái độ
chia xẻ với phụ nữ Việt nam, nhân dân Việt

Nam của bè bạn quốc tế. Cái chết bí mật của
chị trong đêm mùa xuân kinh hoàng năm
1968 đã làm phẫn nộ hàng triệu trái tim của
nhân dân tiến bộ khắp thế giới. Trung ương
Hội LHPNVN đã nhận hàng trăm bức điện
chia buồn của các tổ chức, cá nhân các nước
khắp châu lục. Đệ nhất phu nhân nước Mỹ
lúc bấy giờ là vợ của tổng thống Johnson đã
gởi đến PNVN lời chia buồn chân thành. Sau
đây là nội dung một vài bức điện chia buồn
được lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ:
Ngày 26.3.1969- Điện từ Tokyo của Hội
hữu nghị Nhật-Việt:
“Được tin bà Lê Thị Riêng- Ủy viên BCHTW
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt


38

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Thư Liệt sĩ Lê Thị Riêng gởi Đại tá, Anh hùng LLVT Hồ Thị Bi

Nam- Phó chủ tịch Hội LHPN Giải phóng và
những người yêu nước đã bị tàn sát, chúng
tôi vô cùng căm phẫn và nghiêm khắc lên
án Đế quốc Mỹ và bọn tay sai đầy tội ác,
đồng thời thành thật chia buồn với tang
quyến và nhân dân Việt Nam”
Tháng 3.1968, một tổ chức của

Venezuela gủi bức điện đến “Ủy ban Trung
Ương Mặt trận Dân tộc GPMNVN”:
“Các đồng chí thân mến,
Cuộc ám sát hèn nhát đồng chí Lê Thị
Riêng đã gây nên luồng căm phẫn sâu sắc
chẳng những trong hàng ngủ Đảng chúng
tôi, mà còn trong lòng quần chúng rộng
rãi Venezuela đang mỗi ngày lên án hết
sức mạnh mẽ cuộc xâm lược tàn bạo của
đế quốc đối với nhân dân của các đồng chí
và đang càng có quyết tâm cao độ đoàn
kết với cuộc chiến đấu của các đồng chí
chống cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy.
Xin gủi đến các đồng chí lời chia buồn
chiến đấu của chúng tôi, lại thêm một nữ
anh hùng nữa vào bảng kê vô số các nạn
nhân của sự can thiệp Mỹ.
Muôn đời vinh quang cho những người
cống hiến đời mình để bảo vệ đất nước và
nhân loại bị chủ nghĩa phát xít đe dọa”
Những năm tháng ấy, nhiều người
còn chưa biết đến những kỷ vật của chị
Lê Thị Riêng để lại trên thế gian này. Đó là
những trang nhật ký viết cho chồng, cho
con, cho đồng chí bè bạn… Ngày nay, Bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ có được bộ sưu tập
vô cùng quý giá về những kỷ vật của chị
Lê Thị Riêng. Người nữ anh hùng không
chùn bước trước mũi súng kẻ thù lại là
một người vợ hết mực yêu chồng, người

mẹ yêu thương con tha thiết… Năm 1960,
khi nghe tin người chồng, người đồng chí
của chị hy sinh, chị đã viết thư tâm sự với
người bạn:

“… Bảy năm trời chung sống, bao nhiêu tình sâu
nghĩa nặng của vợ chồng tôi đã kết thúc trên đời. Còn
lại hai con đang sống xa mẹ. Chúng là nguồn hạnh
phúc, là sức mạnh chiến đấu giúp tôi hăng hái đi lên
không bao giờ quỵ bước…”. Mùa xuân năm 1963, người
mẹ ấy đã viết cho con những vần thơ thấm đẫm tình
mẫu tử vừa riêng tư, dung dị vừa vô cùng rộng lớn:
“Ước mơ
Tôi ước mơ, một ngày nào đâu đó
Hà Nội ơi! Cho tôi đến thủ đô
Gặp hai con, tôi ôm cả vào lòng
Tôi siết mãi, không bao giờ buông ra nữa
Nhớ lắm rồi, bao năm trời chất chứa
Bóng hình con cứ lảng vảng đêm ngày
Bữa tiệc đời sao lắm vị chua cay
Mẹ đã chịu trong những ngày xa cách
Tôi ước mơ một ngày xuân thống nhất
Được gặp con, được ôm ấp vỗ về
Thèm thuồng nhìn đôi mắt trẻ ngây thơ
Bao hạnh phúc mẹ dồn về con cả
Nhưng con hỡi! Nước non còn chia cắt
Bởi kẻ thù tàn bạo gây nên
Bao gia đình tan nát điêu linh
Bao em bé phải đoạn tình mẫu tử
Màu đen tối sẽ lui về dĩ vãng

Vì toàn dân đã vùng dậy đứng lên
Mẹ nguyện làm một chiến đấu viên
Mẹ chiến đấu cho ngày mai tươi sáng
Cho Bắc Nam thống nhất
Cho đất nước hòa bình
Cho mọi người no ấm, quang vinh
Cho con được hưởng trọn tình thương của mẹ.
Chị Lê Thị Riêng chưa được một lần ra Hà Nội nhưng
cái chết của chị đã trở thành bất tử. Gương chiến đấu
của chị từng tỏa sáng trên nhiều nước. Nhân dân trong
nước và cả thế giới tiếc thương chị Lê Thị Riêng không
chỉ vì chị là phó chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng, mà còn
vì chị là biểu tượng những đức tính cao đẹp của phụ nữ
Việt Nam, vì sự tàn bạo và hèn hạ của kẻ thù đã chạm
đến lương tri toàn nhân loại.
T. H


40

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

41

PLEIKU

NHỮNG NHÁT CẮT CHẬP CHỜN
- VĂN CÔNG HÙNG -


Trước năm 1975, Pleiku là một thị xã nhỏ với rất nhiều thông, dốc và sương
mù. Thành phố lãng đãng trữ tình dìu dặt tiếng thông reo và lãng đãng tóc
thề con gái thoảng hương nao lòng khách lạ. Nhưng nó lại chính là thị xã
của chiến tranh, của các sắc lính đầy khốc liệt một thuở.

N

hỏ thế nhưng Pleiku
chứa trong lòng nó
bộ máy đầu não của
một quân khu và
một quân đoàn với lúc cao điểm
lên đến hàng chục nghìn lính đồn
trú. Thế nên mọi hoạt động của thị
xã đều nhằm phục vụ cho đội quân
vô cùng đông đảo và ô hợp này. Gọi
là thị xã nhưng có vài cái nhà to: cái
thứ nhất là căn biệt thự của tướng
Phú đóng ngay ở ngã tư đường Trần
Hưng Đạo - Quang Trung bây giờ,
cái thứ hai là một ngôi nhà trong
tỉnh ủy và một cái nữa là ngân hàng
chính sách... Còn lại đều là các dãy
nhà xây táp lô hoặc thưng gỗ thông
lợp tôn chạy dọc các con phố nửa
đất đỏ nửa nhựa nửa đá dành cho
gia đình binh lính, gọi là các khu
gia binh. Có mấy cái bar dành riêng
cho sĩ quan, còn lại là các quán bán

hàng lèo tèo. Phương tiện làm hàng
rào ngăn cách chủ yếu là dây thép
gai, địa phận nhà này nhà kia, phố
này phố kia... là các dãy kẽm gai
thấp và thưa. Nhưng hoa dã quỳ thì
nhiều, rờm rợp dã quỳ, rờm rợp gió
và nắng, và bụi đỏ...
Thông nhiều vô kể, và bướm
vàng từng thảm cứ dập dờn trong
chiều dẫu thi thoảng tiếng pháo,
tiếng súng vẫn nổ, xích xe tăng
nghiến đường trèo trẹo và rin rít

tiếng máy bay quân sự rạch nát sân
bay Cù Hanh, và từ biên giới vẫn
những chuyến xe GMC vàng ệch
bụi chở thương binh tử sĩ, chở cả
những đoàn quân thất trận ngang
tàng thất chí công thần ào về đập
phá tơi bời một đêm. Và những đêm
như thế, Pleiku như nổi bão...
Chính trong cái sự đối lập đến
cực đoan, đến thấp thỏm hoang
mang ấy, Pleiku vẫn chứa trong nó
những góc, những khu vườn yên
tĩnh, với thoang thoảng hương
ngọc lan, với những “mâm” bạn,
mâm tri kỷ, những con người làm
nên ký ức Pleiku...
Ấy là tôi muốn nhắc đến Vũ Hữu

Định với bài thơ “Còn một chút gì
để nhớ” nổi tiếng của anh. Bài thơ
ngay từ khi ra đời, được Phạm Duy
phổ nhạc đã lan tỏa khắp nước, trở
thành một trong những bài thơ
hay nhất về Pleiku cho đến bây giờ.
Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang
Trung, sinh năm Nhâm Ngọ, 1942,
tại Huế. Thực ra Vũ Hữu Định không
sống ở Pleiku với tư cách là người
định cư lâu dài. Anh chỉ ghé qua. Hồi
ấy Pleiku mịt mù và xa ngái, nhưng
cũng đầy bí ẩn, như chính người
con gái Pleiku anh quen, là nguồn
cảm hứng cho anh viết bài thơ với
rất nhiều câu tả thực mà lại ảo mờ
như ở cõi bồng lai: Em Pleiku má đỏ

môi hồng/ ở đây buổi chiều quanh
năm mùa đông... Ngày xưa ấy cũng
đã có những chuyến các văn nghệ sĩ
ngẫu hứng đi... thực tế. Thì ra nơi đây
bà Điềm Phùng Thị từng sống, nghe
đâu nhà thiết kế thời trang Minh
Hạnh cũng chào đời ở nơi này. Rồi là
những Trịnh Công Sơn, Phạm Duy...
đã ghé Pleiku. Và một trong những
lần ghé ấy, Phạm Duy đã gặp Vũ Hữu
Định đang lang thang ở Pleiku thăm
người bạn gái, và bài hát phổ thơ ra

đời từ cơ duyên ấy. Ở Pleiku khi ấy
có khá nhiều người hoạt động văn
nghệ đang là lính hoặc trốn lính, là
lao công đào binh... họ vẫn lặng lẽ
viết, lặng lẽ gặp gỡ nhau, thổi hứng
vào nhau để tồn tại và sáng tác.
Tôi không có cơ may gặp Vũ Hữu
Định vì khi tôi lên Pleiku thì anh đã
ở Đà Nẵng. Hồi ấy vô cùng khó khăn
mà tính anh lại lãng tử nên đời sống
gia đình càng vất vả. Sau này anh
mất trong hoàn cảnh cũng rất đáng
thương, ấy là sau một cuộc nhậu
say anh ngủ lại nhà bạn, nhưng nửa
đêm thức dậy lại thấy mình... có lỗi
với vợ (khi tỉnh bao giờ các nhà thơ
cũng đều thấy mình có lỗi với vợ),
thế là bước xuống để về, nhưng
hỡi ôi, anh lại đang ngủ trên gác
xép nhà bạn, cú bước hụt đã khiến
anh rơi thẳng từ gác xép xuống
nền nhà...


42

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Rất nhiều người cùng tâm trạng
với tôi, là thích Pleiku từ bài hát, từ

những câu thơ đẹp nao lòng ấy:
Phố núi cao phố núi mờ sương/ phố
xá cây xanh trời thấp thật gần/ anh
khách lạ đi lên đi xuống/ may mà có
em đời còn dễ thương/... má đỏ môi
hồng thì cô gái nào chả thế, ở đâu
chả vậy, nhưng đến Vũ Hữu Định
thì nó đã chết với “em Pleiku” rồi. Và
tôi đã tình nguyện lên Pleiku từ cái
ảo hoặc của bài hát vừa mộng mị
vừa thắc thỏm ấy ngay khi vừa tốt
nghiệp đại học văn khoa để đến tận
bây giờ thi thoảng vẫn ngơ ngác đi
dưới những vòm thông đầm sương
sớm mà lẩm nhẩm như mộng du:
xin cảm ơn thành phố có em/ xin
cảm ơn một mái tóc mềm...
Tôi chơi với một anh bạn nhà
báo ở Thành phố Hồ Chí Minh, chưa
đủ tuổi để gọi là già, nhưng cũng
không còn non nớt để trẻ. Gã này có
một thói quen rất kỳ quặc, là cứ vui
hay buồn, hoặc có bất cứ một xáo
trộn nào trong tâm hồn, đều chuyển
cho tôi một tin nhắn: Mai em ngược
núi. Và thế là có mặt. Một đêm ngồi
xe, có lần là hơn nửa tiếng bay, y đã
lang thang vỉa hè với chúng tôi. Khi
thì phở Nam Định góc Nguyễn Du,
lúc bánh canh Nguyễn Đình Chiểu,

đoạn cà phê Wừu, khúc ly rượu cỏ
71... cứ thế miên man lãng đãng
trong dốc trong sương và cả trong
những điều khó kiếm hôm nay: Má
đỏ môi hồng. Thì tưởng tượng ra, thì
vẽ ra, thì nhâm nhi nhấm nháp mà
kể, mà hoài niệm, mà dứt ruột: Xin
cảm ơn thành phố có em/ Xin cảm

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

ơn một mái tóc mềm. Hôm rồi tôi
gặp anh ở một quán nhậu Sài Gòn,
hỏi sao lại yêu Pleiku thế, bảo: Em
cũng không biết nữa, nhưng cứ đeo
ba lô lên Pleiku là thấy lòng thanh
thản, mọi vướng bận được trút
sạch. Lên như một sự tẩy rửa thanh
lọc, như tìm lại mình trong bản ngã
uyên sơ, trong ký ức trong veo tươi
đẹp. Lên đấy được sống thật với
mình. Lên xong về lại làm được khối
việc. Mà lạ là anh chả dây mơ rễ má
gì Pleiku ngoài vài người bạn báo
chí văn chương.
Tôi, đã từng trong một phút ngã
lòng cách đây gần mười năm, định
rời nơi đây. Điều ấy rồi đã không
xảy ra, nhưng bây giờ nghĩ lại cứ
như người mắc nợ. Trong nhiều lý

do để ở lại, có một lý do là xấu hổ,
bởi cuộc ấy nếu mà có thật, nó như
một sự trốn chạy, như lừa dối, phản
bội bạn bè và cả mảnh đất mình đã
gắn toàn bộ tuổi trẻ đầy khát khao
ước mơ, cái đoạn đường đẹp nhất
mà cũng cực khổ nhất của cuộc đời
mình vào đấy. Lứa chúng tôi lên đây
giờ còn lại không nhiều. Ấy là cái
lứa lên đây từ đầu những năm tám
mươi của thế kỷ trước từ những
trường đại học của Huế và Đà Nẵng.
Lứa ấy bây giờ đã nhấp nhỉnh năm
mươi, đã trải qua những ngày khốn
khó nhất của Pleiku, đã từng chia
bùi sẻ ngọt, đồng cam cộng khổ
với những thăm thẳm mùa mưa và
dằng dặc mùa khô, với những mịt
mù bụi đỏ và mênh mang nắng, với
những ý nghĩ điên rồ nhất và những
dự định viển vông nhất, với những

khổ đau và hạnh phúc, với quá
vãng và tương lai...
Một chiều mưa tầm tã cách đây
gần hai chục năm, một chàng trai
trẻ tìm đến nhà tôi khi ấy đang ở
trên đường Trần Hưng Đạo. Người
ấy là Nguyễn Xuân Hoàng, đang
học năm thứ 4 khoa văn Đại học

Tổng hợp Huế. Trước đấy tôi về quê,
gặp Hoàng, em nói vu vơ: Em sẽ lên
Pleiku gặp anh. Thế mà rồi tôi lên
mới chưa được một tuần, Hoàng đã
xuất hiện. Tôi đưa Hoàng đi uống
cà phê cóc buổi sáng vỉa hè Hùng
Vương, tối khuya vào quán bánh
xèo góc Nguyễn Văn Trỗi Nguyễn
Thái Học bây giờ uống rượu với
bánh xèo thay cơm chiều. Quán
nghèo, đèn dầu và những cơn ngái
ngủ. Chúng tôi đọc thơ và trầm
ngâm chuyện. Sau đấy Hoàng về
lại Huế và viết: “Những con phố
nhỏ Pleiku thường rực rỡ trong ánh
nắng đầu mùa. Phố vốn nhiều bụi
đỏ chuyển sang màu hồng phấn và
ấm lên trong sương lạnh. Những
căn nhà gỗ dưới nắng như to ra và
nở bung những cánh cửa nhỏ nhiều
màu. Tôi vẫn thường đứng ngẩn
ngơ hàng giờ dưới nắng để ngắm
thứ ánh sáng đẹp như pháo hoa nở
rực rỡ trên trời cao. Nắng như lửa
cháy mà không phải là lửa cháy, cứ
trôi dưới mây trời thành từng vạt
lớn mênh mông. Nhìn những vạt
nắng mà lòng thắc thỏm như chân
đang đi đến chốn hẹn hò, đang chờ
đợi một điều gì đó kỳ diệu sẽ hiện

ra sau màu nắng mới ngọt ngào
như mật ong kia”... Thì ra Hoàng đã

có một thời tuổi thơ sống ở Pleiku.
Bây giờ thì Hoàng đã thành người
thiên cổ ở Huế sau một cơn đột quỵ,
đúng lúc tài hoa đang phát tiết. Sau
Hoàng tôi mới phát hiện ra rằng,
Pleiku đã từng là nơi chốn đi về, lưu
giữ ký ức và cả tuổi trẻ, tuổi thơ của
khá nhiều tao nhân mặc khách. Ai
đi khỏi đây rồi cũng đều đau đáu trở
về, nhờ thế mà tôi đã có những buổi
cà phê sáng sương mù ướt vai vỉa
hè với nhà thơ Hoàng Trần, giờ là
cán bộ giảng dạy đại học sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, đêm salon
với bác sĩ nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc
mà khi xưng tên lên chắc chắn rất
nhiều người biết. Tôi cũng từng
cụng ly với nhà thơ Lê Nhược Thủy,
nguyên thư ký tòa soạn báo Thanh
Niên, dầm dề với nhà văn Trung
Trung Đỉnh, giám đốc nhà xuất bản
Hội Nhà văn và rất nhiều người tài
hoa khác khi họ về với Pleiku, về
với một thời khốn khó họ từng trải
qua ở đất này nhưng đầy lãng mạn

và trong trẻo, để bây giờ họ vẫn coi

những tháng ngày ấy là đẹp nhất,
có ý nghĩa nhất trong đời cầm bút
của họ.
Rất lạ cho cái thành phố Cao
nguyên này. Nó không cho con
người nhiều lắm về vật chất, nhưng
không hiểu sao lại quyến luyến
người đi đến thế. Tôi biết có những
người đã từng dứt áo ra đi, đã có các
thủ tục bảo đảm, thế mà rồi giờ cuối,
họ ở lại như một duyên nợ. Còn ai đã
ra đi thì cứ thắc thỏm trở về. Và về
thì họ hồn nhiên như con trẻ. Nhớ
hôm mới đây ngồi với anh Hoàng
Trần ở vỉa hè Nguyễn Trường Tộ, ríu
rít điện thoại mày tao, ríu rít bắt tay
vồ vập, ríu rít những ly rượu sớm,
những ngắt quãng tên tuổi một thời
người mất kẻ còn thuở trung học
Pleiku, gần như không có dáng dấp
của một ông giảng viên đại học bên
một bà vợ đã lên ông lên bà. Trước
ký ức, con người trẻ như chưa bao
giờ trẻ, trước kỷ niệm, ai cũng trong

43

veo cảm xúc...
Ngay khi lên Pleiku nhận công
tác, tôi đã được làm chung phòng

với một đồng sự là cựu nữ sinh Plei
Me. Lên Pleiku từ xứ có trường nữ
sinh Đồng Khánh nên tôi không lạ
với loại trường chuyên nữ rợp trời
áo trắng dịu dàng mềm mại mờ
mắt mờ tai ấy. Nhưng tôi lạ là cái
tiếng của nó. Té ra nó cũng vang
dội không thua kém các trường
nữ khác, ít nhất là trong hồi ức
của người Pleiku. Đồng nghiệp
cựu nữ sinh Plei Me của tôi hồi
ấy là một người đa tài. Chị vừa rất
xinh đẹp lại hát hay múa giỏi, có
thể tự ôm ghi ta biểu diễn, viết
văn làm thơ rất được, nếu tiếp
tục chịu khó chịu khổ theo nghề
chắc bây giờ chị đã là một cây bút
có hạng của văn đàn Việt Nam.
Đã thế còn ngoại ngữ làu làu cả
tiếng anh và tiếng Jrai... và về sau
kinh doanh cũng cực giỏi, bây giờ
là một bà chủ ở thành phố Hồ Chí


44

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Minh. Thế mà sau này tôi biết, chị
không phải là nhân vật cá biệt của

trường Plei Me. Nghe đồn hồi ấy,
nữ sinh Plei Me đi học có xe Jeep
đưa đón. Chả biết thực hư thế
nào, nhưng nữ sinh như chị đồng
nghiệp tôi kia thì cũng đáng được
như thế lắm...
Pleiku lạ đến nỗi, có hai nhà thơ
nữ ở hai vùng trời khác nhau chưa
từng đến Pleiku mà ngồi ước: Thôi
mặc gió, đầy trời sao của mắt/ Mây
của trời và em của mùa sau/ Dáng
phố nhỏ trong chiều huyền hoặc
hát/ Khúc ca buồn miền nắng nhớ
chênh vênh - (Mường tượng Pleiku, Nguyễn Thị Anh Đào), và Có
một phố núi xa xôi/ Sương giăng
đẫm chiều mắt ướt/ Mơ lắm mà
chưa đến được/ Ngày nào cũng
ngóng mây xuôi - (Gửi người Pleiku, Nguyễn Thúy Quỳnh). Còn đây
là một nhà thơ nam, cách đây mấy

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

năm, một chuyến xuyên Việt, chỉ
một đêm duy nhất Pleiku mà rồi
thao thức: Vây quanh ta trái đồi
nhà bung biêng mộng mỵ/ lối phố
dốc cong thung lũng vòng tay./
Coffee đen nóng ở đâu mà treo
không biển hiệu/ Làm sao bây giờ
để ngắm mắt em/ Làm sao bây giờ

hong khô tóc ướt…
Bài ca Pleiku/ trải nghiệm và
tưởng tượng/ sương như khói sương
bay nhoà hơi thở/ một bóng mềm
dài trắng áo em…/ dài trắng áo
em…
Pleiku/ Ta đến trong đêm rồi rời
trước bình minh/ cùng chiếc xe đò
hằn thương tích đang rã rời dưới
chân tượng đài chiến thắng./ Giã
biệt dã quỳ trong hương dạ lan./
Chợt nhớ, có nhà thơ xứ Bắc mấy
mươi năm gọi Pleiku là nhà... - (Gửi
Pleiku, Nguyễn Tham Thiện Kế)...
Pleiku còn lạ nữa khi tôi biết,

ngay từ ngày trước giải phóng, khi
đô thị này còn đang của Mỹ Ngụy
chiếm đóng, lính đông hơn dân, đã
có hai anh Việt Cộng, sau này là hai
nhà văn nổi tiếng, vào tận trung tâm
thành phố, ngủ ngon lành ở đấy, dù
là ngủ dưới cống Hội Phú như Trung
Trung Đỉnh, ngủ đắm say một đêm
rồi sáng mai đóng khố đeo gùi vác
dao ngậm tẩu cười ngu ngơ theo
đồng bào dân tộc thoát ra ngoài,
hay ngủ đàng hoàng trong nhà
công vụ như anh lính tình báo kỹ
thuật chiến lược Trương Vĩnh Tuấn

hàng nửa tháng trời rồi tự nhiên...
mất hút. Thế nên mỗi lần hai ông
này vào lại Pleiku là một cuộc trở
về, tươi non và hào sảng, như ký ức
không cần nơi neo đậu, cứ ùa về
như nắng tháng tư giữa ngút ngàn
trời xanh mây trắng với nao nao dã
quỳ bung sớm...
Pleiku tối 21/4/2011
V. C. H

Thành cổ Quảng Trị

miền đất tâm linh
- HOÀNG CÔNG DANH -

45


46

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

CHUYÊN SAN PHƯƠNG NAM

Thả hoa trên sông Thạch Hãn ngày 27/07

T

hành cổ Quảng Trị là điểm dừng

chân thu hút nhiều du khách trên
hành trình xuyên Việt vì những câu
chuyện huyền thoại và chứng tích
bi tráng của nơi từng diễn ra trận đánh đẫm
máu 81 ngày đêm năm 1972 giữa quân dân ta
với Mỹ-ngụy.
Di tích nằm ngay trung tâm thị xã Quảng
Trị. Thành cổ Quảng Trị đón du khách bằng
một không gian rất đặc biệt: vừa u buồn trầm
mặc, vừa hào hùng, lãng mạn và bi tráng.
Không gian của thị xã Quảng Trị — đặc biệt
là ở Thành cổ - khiến người ta có cảm giác
luôn phảng phất khói hương tưởng nhớ
những người đã khuất. Được biết, trong trận
đánh 81 ngày đêm năm xưa tại Thành cổ,
14.000 cán bộ, chiến sĩ và đồng bào hy sinh
với vô vàn câu chuyện về lòng dũng cảm, sự
hy sinh quên mình của rất nhiều chiến sĩ tuổi
đôi mươi.

Đến thăm Thành cổ, du khách sẽ
được nghe kể lại những câu chuyện
huyền thoại bởi các hướng dẫn viên
của Di tích Thành cổ. Đặc biệt trong
ngày lễ, kỷ niệm, ngày rằm, mùng
một... sông Thạch Hãn chảy quanh
Thành cổ trở thành dòng sông
hoa tươi và hoa đăng do những
cựu chiến binh và nhiều người dân
của thị xã thả xuống. Từ rất lâu rồi,

việc thả hoa xuống sông Thạch
Hãn đã trở thành một tập quán
đẹp của chính quyền và nhân dân
địa phương. Đến Thành cổ trong
những dịp này, trong lòng du khách
sẽ lưu lại dấu ấn rất sâu đậm. Bạn sẽ
cảm thấy như đang có một sợi dây
vô hình kết nối hiện tại với quá khứ,
hiểu thêm những nét đẹp trong
tình cảm và đời sống tâm linh của
người dân sống quanh Thành cổ.
Đến Thành cổ Quảng Trị, không
thể không chiêm ngưỡng tượng đài
tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trong
trận đánh năm xưa. Tượng đài có
hình tròn tượng trưng nấm mồ của
những người đã khuất. Phía dưới
tượng đài là hành trang người lính
gồm nón, ba lô và một cây thiên
mệnh hướng lên trời xuyên qua ba
áng mây. Phía trên cây thiên mệnh
có một ngọn nến và ánh hào quang,
dưới tầng mây cuối cùng có gắn
hình tượng chung là ba bát cơm
tiễn người đã khuất. Ngoài vòng
tròn gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày
đêm chiến đấu ác liệt của các chiến
sĩ giải phóng quân. Trong khuôn
viên Thành cổ có tháp chuông lớn
được đặt tại quảng trường nối liền

Thành cổ với bờ sông Thạch Hãn
thường xuyên vang lên những hồi
chuông ngân dài với ý nghĩa cầu

mong linh hồn các liệt sĩ được siêu
thoát. Góc phía Tây Nam của Thành
cổ là Bảo tàng với rất nhiều chứng
tích chiến tranh được lưu giữ và
thuyết minh đầy cảm xúc, khiến bất
cứ ai thăm nơi này đều xúc động,
bồi hồi.
Thành cổ được vua Gia Long ra
lệnh xây dựng từ những năm đầu
thế kỷ 19, trên một khu đất cao với
sông Thạch Hãn ở phía Tây, sông
Vĩnh Định ở phía Bắc và vùng dân
cư đồng bằng Triệu Hải ở Đông và
Nam. Từ Thành cổ có thể ra Bắc, vào
Nam bằng đường bộ lẫn thủy thuận
tiện. Theo sử liệu, ban đầu thành chỉ
đắp bằng đất, sau được vua Minh
Mạng cho xây lại với chức năng
quân sự gồm 4 pháo đài, có 4 cửa
ra vào, bao quanh là hệ thống hào

Một góc trong khu Thành cổ

thành sâu hơn 3 mét, rộng hơn 18
mét. Các cửa thành đều được xây
vòm cuốn với vọng lâu, mái cong

lợp ngói âm dương. Bên ngoài mỗi
cửa đều có một chiếc cầu uốn cong
bắc qua hào thành. Bên trong thành
có hành cung được bảo vệ bởi hệ
thống tường cao, dày, có nhà ở của
các vị Vua khi đi kinh lý qua hay dự
lễ thăng chức của các quan.
Dưới thời Nhà Nguyễn, Thành
cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế,
chính trị, quân sự của tỉnh Quảng
Trị, là thành lũy quân sự bảo vệ
kinh đô Huế. Sau trận chiến năm
1972, Thành cổ gần như bị san
phẳng; chỉ còn sót lại một cửa
hướng Đông tương đối nguyên
hình và vài đoạn tường thành cùng
giao thông hào bên ngoài chi chít

47

vết bom đạn. Hiện nay, chỉ có vài
đoạn tường thành và bốn cổng
chính của Thành được phục chế.
Dù không còn những dấu ấn xưa,
nhưng Thành cổ vẫn là “Đất tâm
linh” của người dân Quảng Trị nói
riêng và Việt Nam nói chung, vì nơi
đây mỗi tấc đất đều đẫm máu của
các chiến sĩ.
Cùng với những địa danh như

địa đạo Vịnh Mốc, nhà tù Lao Bảo,
hàng rào điện tử McNamara, căn
cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh,
sân bay Tà Cơn, Đường 9, cầu Hiền
Lương... Thành cổ Quảng Trị là
điểm đến thu hút đông đảo khách
du lịch trong nước và quốc tế của
tỉnh Quảng Trị.
H. C. D


Tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ
đã hi sinh trên biểnĐông

Theo nguồn Internet

Thăm mẹ Việt Nam Anh Hùng
ở Quảng Nam

Ảnh: Nhà thơ - Nhà báo Bùi Quang Thanh


×