Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Dấu ấn thi pháp văn học dân gian trong thơ tố hữu ( qua một tiếng đờn và ta với ta)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.76 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

PHẠM PHƢƠNG CHI

DẤU ẤN THI PHÁP VĂN HỌC
DÂN GIAN TRONG THƠ TỐ HỮU
(QUA MỘT TIẾNG ĐỜN VÀ TA VỚI TA)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Văn học dân gian

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

PHẠM PHƢƠNG CHI

DẤU ẤN THI PHÁP VĂN HỌC
DÂN GIAN TRONG THƠ TỐ HỮU
(QUA MỘT TIẾNG ĐỜN VÀ TA VỚI TA)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Việt Hƣơng



Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Dấu ấn thi pháp văn học dân gian
trong thơ Tố Hữu (qua “Một tiếng đờn” và “Ta với ta”) là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung
thực. Nếu có gì sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015
Ngƣời cam đoan

Phạm Phƣơng Chi


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành luận văn này, tôi xin được gửi lời cảm ơn trân
trọng đến quý thầy cô trong Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp tôi hoàn thành
khóa học và luận văn này. Nhờ có sự tận tình chỉ bảo, dạy dỗ, truyền đạt
kiến thức và kinh nghiệm của các thầy cô, tôi đã tiếp thu được nhiều ý kiến
đóng góp và hoàn thiện luận văn của mình.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Việt
Hương, người đã trực tiếp định hướng đề tài, dành nhiều thời gian và công
sức để hướng dẫn, giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến gia đình và cơ quan
nơi tôi công tác đã tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành tốt mọi công
việc trong quá trình thực hiện luận văn. Bên cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn
các đồng nghiệp, bạn bè đã quan tâm, động viên, chia sẻ với tôi trong suốt

thời gian qua.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn
không thể tránh được những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của
quý thầy cô cũng như các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp!
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Phạm Phương Chi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 5
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 6
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài ..................................................... 7
1.1.1. Thi pháp .......................................................................................................... 7
1.1.2. Thi pháp học ................................................................................................... 7
1.1.3. Thi pháp văn học dân gian ............................................................................ 10
1.2. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu ..................................... 12
1.2.1. Vài nét về cuộc đời nhà thơ Tố Hữu ............................................................ 12
1.2.2. Những chặng đường thơ Tố Hữu ................................................................. 13
CHƢƠNG 2: “MỘT TIẾNG ĐỜN” VÀ “TA VỚI TA” – MỘT CHẶNG
ĐƢỜNG MỚI TRONG NGHIỆP THƠ CỦA TỐ HỮU. ........................................ 22
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta”. .................. 22

2.1.1. Cảm hứng về vẻ đẹp của Tổ quốc, quê hương, con người ........................... 22
2.1.2. Khát vọng cống hiến cho đất nước. .............................................................. 33
2.1.3. Niềm tin vào Đảng, vào con đường Cách mạng........................................... 37
2.1.4. Cảm hứng về Bác Hồ.................................................................................... 41
2.1.5. Cảm hứng về thế sự, nhân sinh..................................................................... 45
2.2. Quan niệm nghệ thuật của Tố Hữu trong hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta
với ta”. ........................................................................................................................... 48
2.2.1 . Quan niệm nghệ thuật về con người. ........................................................... 48
2.2.2. Quan niệm về thơ.......................................................................................... 52
2.2.3. Tình cảm cá nhân trong sáng tác của Tố Hữu .............................................. 54
2.3. Phong cách thơ Tố Hữu trong hai tập thơ Một tiếng đờn và Ta với ta. ................. 58
CHƢƠNG 3: NHỮNG DẤU ẤN CỦA THI PHÁP VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG “MỘT TIẾNG ĐỜN” VÀ “TA VỚI TA” ................................................. 64
3.1. Thể thơ dân tộc và những biến thể ......................................................................... 64


3.2. Ngôn ngữ, nhạc điệu .............................................................................................. 71
3.3. Kết cấu.................................................................................................................... 77
3.4. Thời gian, không gian nghệ thuật .......................................................................... 80
3.4.1. Thời gian nghệ thuật ..................................................................................... 80
3.4.2. Không gian nghệ thuật .................................................................................. 81
3.5. Các hình ảnh, biểu tượng quen thuộc của thi pháp văn học dân gian .................... 84
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 102


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và
phát triển nền văn học dân tộc. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn

học viết là một mối quan hệ gắn bó mật thiết. Tuy hai loại hình này có
những điểm khác nhau nhưng đều có chung một đối tượng phản ánh là hiện
thực xã hội. Văn học dân gian là sản phẩm của nhân dân và có thể coi văn
học dân gian như tấm gương phản ánh tâm hồn của dân tộc, những đặc
điểm tâm lí, tình cảm, tâm thức của dân tộc. Văn học dân gian là cội nguồn,
là bầu sữa nuôi dưỡng nền văn học của dân tộc. Nhiều thể loại văn học viết
được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa và phát triển các thể loại
văn học dân gian. Mỗi thời đại lịch sử bao giờ cũng để lại những dấu ấn
đậm nét lên mối quan hệ giữa văn chương dân gian và văn học viết. Trong
những sáng tác của rất nhiều nhà văn, nhà thơ trung đại và hiện đại, người
ta đều có thể tìm thấy dấu ấn của thi pháp văn học dân gian. Có thể nói văn
học dân gian là nền tảng của sự phát triển, kết tinh của nền văn học dân tộc.
Chính vì vậy, các sáng tác sau này của các nhà thơ, nhà văn, muốn có sức
sống lâu bền và thấm sâu trong lòng người đọc thì đều có sự vận dụng các
thi pháp dân gian trong sáng tác của mình. Trong đội ngũ các tác giả đó, có
nhà thơ Tố Hữu, lá cờ đầu của thi ca cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu được biết đến thông qua các giải
thưởng cao quý. Ông đã nhận được giải thưởng văn học lớn: Giải nhất giải
thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955 (Tập “Việt Bắc”);
Giải thưởng Văn học ASEAN (1996); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn
học - Nghệ thuật (đợt I - 1996). Các tác phẩm của ông cũng được đưa vào
chương trình văn học bậc phổ thông.
Tố Hữu là một nhà thơ có ảnh hưởng lớn trong nền thi ca hiện đại
Việt Nam. Tố Hữu chính là người “nửa thế kỉ lĩnh xướng hùng ca”, từ khi
ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản (1936) đến lúc ông rời chính
trường (1986), vừa tròn nửa thế kỷ. Một trong những yếu tố làm nên sức
sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc được thể hiện qua
1



nhiều khía cạnh, trong đó phải kể đến các yếu tố của thi pháp dân gian luôn
đậm nét trong tác phẩm của ông. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn
Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với
công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn
nhuyễn”. Ông là một trong số các nhà thơ luôn có ý thức kế tục truyền
thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển. Bởi vậy,
tìm hiểu tính thi pháp dân gian trong thơ Tố Hữu, chúng ta sẽ thấy được đời
sống con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc
Việt Nam.
Trong cuộc đời sáng tác, Tố Hữu đã để lại cho đời rất nhiều những
tác phẩm có giá trị như các tập thơ: “Từ ấy” (1946), “Việt Bắc” (1954),
“Gió lộng” (1961), “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1977), “Một
tiếng đờn” (1992), “Ta với ta” (1999); các tiểu luận “Xây dựng một nền
văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta” (tiểu luận, 1973),
“Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật” (tiểu luận, 1981).
Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu trên
nhiều phương diện khác nhau, tuy nhiên hầu hết mới chỉ là khai thác ở năm
tập thơ đầu (gắn với con đường chính trị, hoạt động cách mạng của ông),
mà chưa có công trình nào nghiên cứu thật đầy đủ hai tập thơ cuối cùng
“Một tiếng đờn” và “Ta với ta” của Tố Hữu, đặc biệt trên phương diện thi
pháp văn học dân gian. Vì vậy, việc tìm hiểu hai tập thơ “Một tiếng đờn”
và “Ta với ta” từ góc độ các phương thức biểu đạt để thấy được dấu ấn thi
pháp văn học dân gian sẽ đóng góp một phần vào việc tìm hiểu thơ Tố Hữu
được toàn diện hơn.
Ngoài ra, tác giả luận văn là giáo viên dạy bậc phổ thông, việc
nghiên cứu dấu ấn thi pháp văn học dân gian trong thơ Tố Hữu sẽ phục vụ
cho quá trình giảng dạy, giúp cho các bài dạy sâu sắc và ý nghĩa hơn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thơ Tố Hữu giữ vị trí quan trọng trong nền thi ca nước nhà, đặc biệt
là nền thi ca thời kì kháng chiến cứu quốc. Chính vì vậy, các nhà nghiên

cứu cũng đã tốn không ít giấy mực để bàn luận, nghiên cứu về các tác
phẩm thơ của ông.
2


Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về Tố Hữu như: “Thơ Tố
Hữu” của Lê Đình Kỵ (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1979);
“Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói của đồng chí” của
Nguyễn Văn Hạnh, (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1985), “Thi pháp thơ Tố Hữu”
của Trần Đình Sử (Nxb Tác phẩm mới, 1987).
Công trình nghiên cứu “Thơ Tố Hữu” của Lê Đình Kỵ được coi là
xuất hiện sớm và có những đóng góp lớn trong việc khảo sát, đánh giá một
cách toàn diện cả về nội dung và nghệ thuật thơ. Trong cuốn sách, tác giả
khảo cứu 5 tập thơ đầu của Tố Hữu và khái quát những chủ đề lớn trong
thơ cùng với đặc điểm về phong cách, tư tưởng, nghệ thuật của ông.
Trong “Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng
chí”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh đã nghiên cứu tìm sự tương đồng
giữa tác phẩm văn học và đời sống trong phản ánh, làm rõ những đặc sắc
về nội dung, tư tưởng và phong vị đậm đà trong thơ Tố Hữu qua ngôn từ,
hình ảnh, nhịp điệu, thể loại.
Trong “Thi pháp thơ Tố Hữu”, Trần Đình Sử cho thấy hình ảnh một
nhà thơ lớn của dân tộc qua các bình diện từ tác giả - chủ thể sáng tạo cho
đến các yếu tố nghệ thuật cơ bản của thơ: Đỉnh cao thơ trữ tình chính trị
Việt Nam, kiểu nhà thơ, thể tài; quan niệm nghệ thuật về con người; không
gian nghệ thuật; thời gian nghệ thuật; chất thơ và phương thức thể hiện.
Ông đã định danh cái tôi trong thơ Tố Hữu: “Cái tôi nhiệt huyết, tình nghĩa
truyền thống nhưng có thêm sức cảm nhận cảm tính, cá nhân của thơ mới
truyền vào, trong đó hàm chứa cái tôi nghệ sĩ (thi nhân), cái tôi tiểu sử với
nhiều hình thức biểu hiện đa dạng như nhập vai, nhiều vai”. Với thơ Tố
Hữu, một quan niệm mới mẻ về con người đã được xây dựng - con người

chính trị Việt Nam với những phẩm chất tiêu biểu: Con người giác ngộ
quyền lợi giai cấp, dân tộc, tự giác trên con đường đấu tranh, vững tin ở
tương lai, lý tưởng. Không chỉ đơn thuần là những người công dân khô
khan, con người trong thơ Tố Hữu cũng rất người với những tình cảm cao
đẹp: Tình đồng bào, đồng chí, tình cảm gia đình thiêng liêng, tình anh em,
bạn bè… Chương hấp dẫn nhất trong tác phẩm có lẽ là “Chất thơ và
phương thức biểu hiện”. Ở chương này, bằng những lập luận hết sức sắc
3


sảo và khoa học, tác giả Trần Đình Sử đã khẳng định chất thơ của những
tác phẩm thuần viết về cách mạng, khẳng định sức hấp dẫn và sự truyền
cảm của những vần thơ sử của Tố Hữu. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp ngôn
ngữ trữ tình điệu nói với điệu ngâm, sử dụng nhuần nhuyễn những thủ pháp
của thơ ca dân gian, những điệu hát, câu hò, đặc biệt là những vần thơ lục
bát của dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu cũng hòa hợp được chất thơ bay bổng, say
mê hiện đại với lối thụ cảm thơ có tính chất trực quan cổ truyền và đưa lời
nói chính trị vào những câu thơ rất đỗi trữ tình nhờ lối ví von ca ngợi, hô
ứng và trùng điệp làm cho thơ âm vang luyến láy. Nhờ thế, thơ Tố Hữu trở
thành một tinh phẩm độc nhất vô nhị trong làng thơ Việt.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu đó, còn có các nghiên cứu khác
như: “Tố Hữu, nhà thơ cách mạng” của Phan Trọng Thưởng và Nguyễn Cừ
(Nxb Khoa học và Xã hội, 1985) “Tố Hữu, thơ và cách mạng” của Mai
Hương – Vân Trang và Nguyễn Văn Long (Nxb Hội nhà văn, 1996); Cuốn
“Cuộc thảo luận (1959 – 1960) về tập thơ “Từ ấy”” (Nxb Hội nhà văn
1998); “Bình luận và chọn lọc về thơ Tố Hữu” của Đỗ Quang Lưu (Nxb Hà
Nội, 1998).
Báo chí cũng đã tốn không ít giấy mực khi nói về thơ Tố Hữu. Nhà
thơ Chế Lan Viên trong lời nói đầu “Tuyển thơ 1938 – 1963” của Tố Hữu,
NXB Văn Học, Hà Nội, 1964 đã chỉ ra những đặc điểm phong cách và

những cống hiến lớn của Tố Hữu cho nền văn học nước nhà. Cũng trên báo
Nhân dân số tháng 5/1968, Chế Lan Viên đã viết bài nghiên cứu về “Tổ
quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu”. Tạp chí Văn học
năm 1968 đã in bài viết nghiên cứu “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố
Hữu” của Nguyễn Phú Trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh sau đó
cũng có bài viết “Hình ảnh Bác Hồ qua các chặng đường thơ Tố Hữu”, in
trên Tạp chí Văn học năm 1969. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong bài
viết “Khi nhà nghệ sĩ “tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất cả tâm hồn
mình” được in trên báo Văn nghệ ngày 6/3/1976 đã phân tích và chỉ rõ sự
nhất trí của Tố Hữu trong đời sống và nghệ thuật, giữa tư tưởng, tình cảm
và hành động. Chính vì thế, thơ Tố Hữu đã được đánh giá cao trong cả nội
dung và nghệ thuật.
4


Một số công trình thời gian sau này nghiên cứu về thi pháp trong các
tập thơ được sáng tác trong thời kì hòa bình là “Một tiếng đờn” (xuất bản
năm 1972) và “Ta với ta” (xuất bản năm 1999) như đề tài nghiên cứu về
thơ Tố Hữu trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ như “Thế giới nghệ thuật thơ
Tố Hữu thời kì đổi mới” của Th.s Phạm Thị Hoàng Lan, “Đặc điểm nghệ
thuật của thơ Tố Hữu từ Việt Bắc đến Một tiếng đờn” của Th.s Lê Anh
Tuấn.
Tố Hữu đã để lại cho đời một khối lượng thơ không nhỏ và kèm theo
đó, các công trình nghiên cứu, bình luận về thơ ông cũng không kém phần
phong phú. Các nhà nghiên cứu, phê bình đã khai thác thơ ông một cách
triệt để trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, với hai tác phẩm sau này (“Một
tiếng đờn” và “Ta với ta”) dường như chưa được đề cập tới nhiều như các
tác phẩm của ông thời trước đó, đặc biệt những dấu ấn của thi pháp văn học
dân gian trong hai tác phẩm chưa được khai thác một cách hệ thống. Vì
thế, chúng tôi mong muốn bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học dân

gian trong hai tập thơ cuối của nhà thơ Tố Hữu để thấy được dấu ấn của thi
pháp văn học trong thơ ông, từ đó có thể tiếp cận và cảm nhận thơ ông một
cách toàn diện và sâu sắc hơn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu những dấu ấn của thi pháp văn học dân
gian được thể hiện qua hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” của Tố
Hữu.
b. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sử dụng hai tập thơ “Một tiếng
đờn” và “Ta với ta” của Tố Hữu làm tư liệu chính để phục vụ cho việc
nghiên cứu. Ngoài ra, chúng tôi cũng dùng các tập thơ khác là “Từ ấy”,
“Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa” để so sánh và làm rõ dấu
ấn của thi pháp dân gian trong các tập thơ sau đã có sự tiếp nối và phát
5


triển như thế nào so với các tập thơ trước đó.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tìm hiểu những dấu ấn thi pháp dân gian trong hai
tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” của Tố Hữu nhằm tái khẳng định
ảnh hưởng to lớn của thi pháp dân gian trong thơ ông.
Bằng việc so sánh, đối chiếu những dấu ấn thi pháp dân gian trong hai
tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” với những tập thơ ở thời kì trước
của ông, luận văn một lần nữa khẳng định mạch thơ, hồn thơ đậm chất dân
gian thống nhất của thơ Tố Hữu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu.
Phương pháp thống kê để có những số liệu cụ thể giúp so sánh, đối

chiếu việc sử dụng các yếu tố dân gian trong sáng tác thơ của Tố Hữu qua
các thời kì. Từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá có tính thuyết phục hơn.
Bên cạnh đó, luận văn kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp so
sánh, chỉ ra được những dấu ấn của thi pháp văn học dân gian trong thơ Tố
Hữu, từ đó góp tiếng nói khẳng định giá trị không thể phủ nhận trong thơ
ông.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về đề tài.
Chƣơng 2: “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” - chặng đƣờng mới
trong nghiệp thơ của Tố Hữu.
Chƣơng 3: Những yếu tố của thi pháp văn học dân gian trong
“Một tiếng đờn” và “Ta với ta”

6


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài
1.1.1. Thi pháp
Trong chuyên luận “Thi pháp thơ Tố Hữu”, GS. Trần Đình Sử khẳng
định “Thi pháp là câu chuyện về hình thức bên trong, hình thức mang tính
quan niệm, có tác dụng mở đường cho những cách nhìn, cách biểu hiện và
sáng tạo ngôn ngữ. Đó là đặc điểm của thi ca xét trên phương diện chủ thể,
tính chỉnh thể và hệ thống” [33, tr.11]
Nói rõ hơn thi pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật chi phối
sự tạo thành của một hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp
là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật, hình thành cùng
nghệ thuật.

1.1.2. Thi pháp học
Thi pháp học là một yếu tố quan trọng giúp người đọc nâng cao năng
lực cảm thụ tác phẩm nhờ việc đã nắm bắt được các công cụ để tìm hiểu
văn bản nghệ thuật đã kể trên. Nhưng khác với việc xem xét hình thức văn
học như những hiện tượng ngẫu nhiên, rời rạc thì thi pháp học đòi hỏi
nghiên cứu hình thức nghệ thuật cũng như những hiện tượng có quy luật.
Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa bao quát được hết nội hàm
của khái niệm “Thi pháp học”. Tuy nhiên, các định nghĩa khác nhau luôn
có điểm chung ở một phạm vi nhất định của bộ môn chuyên ngành này là
nghiên cứu hình thức và ngôn ngữ của văn học. Thi pháp học là khoa học
nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật, là khoa học về
cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mĩ được sử
dụng trong đó. Trong cách hiểu rộng hơn, thi pháp học trùng với lí luận văn
học, khi hiểu hẹp thì trùng với nghiên cứu ngôn ngữ thơ hay ngôn từ nghệ
thuật. Thi pháp học đại cương nghiên cứu các phương thức có thể có trong
việc thể hiện cấu tứ nghệ thuật của nhà văn văn và các quy tắc kết hợp, các
phương thức phụ thuộc vào thể loại, loại hình văn học. Các phương tiện
nghệ thuật có thể được phân loại theo các cấp độ khác nhau giữa cấu tứ
7


nghệ thuật, coi như cấp độ cao nhất và sự thể hiện cuối cùng của văn bản
ngôn từ. Thi pháp học miêu tả đặt mục đích tái hiện con đường từ cấu tứ
đến văn bản cuối cùng, qua đó nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn thâm nhập
vào cấu tứ của tác giả. Ở đây, các cấp độ và bộ phận của tác phẩm được
xem xét như một chỉnh thể. Thi pháp học lịch sử nghiên cứu sự phát triển
của các biện pháp nghệ thuật riêng lẻ (định ngữ, ẩn dụ, vần,…); nghiên cứu
các phạm trù (thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, các đối lập cơ
bản), cũng như cả hệ thống các thủ pháp hay phạm trù vốn có của những
thời đại văn học; Thi pháp học - khoa học về hệ thống các phương tiện biểu

hiện trong tác phẩm văn học. Trong nghĩa rộng thi pháp học trùng với lí
luận văn học, trong nghĩa hẹp trùng với một trong các lĩnh vực của thi pháp
lí thuyết. Là lĩnh vực của lí luận văn học, thi pháp học nghiên cứu đặc
trưng của các loại hình, thể loại văn học, các dòng và trào lưu, các phong
cách, phương pháp, nghiên cứu quy luật liên hệ nội tại và tương quan các
cấp độ của chỉnh thể nghệ thuật. Bởi vì tất cả các phương tiện biểu hiện
trong văn học suy đến cùng đều quy về ngôn ngữ, vì thế có thể định nghĩa
thi pháp học như là khoa học nghiên cứu cách sử dụng các phương tiện
ngôn ngữ. Văn bản ngôn từ của tác phẩm là hình thức tồn tại vật chất duy
nhất của nội dung. Mục đích của thi pháp học là chỉ ra và hệ thống hóa các
yếu tố của văn bản tham gia vào việc tạo thành ấn tượng thẩm mĩ của tác
phẩm. Thông thường người ta phân biệt thi pháp học đại cương (hay lí
thuyết), thi pháp học bộ phận (miêu tả) và thi pháp học lịch sử; Thi pháp
học là khoa học về các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương
thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại
tác phẩm văn học. Nó muốn bao quát không chỉ ngôn từ thơ, mà còn cả các
khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân gian.
Nhiệm vụ của thi pháp học là nghiên cứu phương thức cấu tạo của tác
phẩm văn học. Đối tượng của thi pháp học là các sáng tác có giá trị.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp là tiến hành miêu tả, phân loại và giải
thích các hiện tượng được nghiên cứu”.

8


Từ các định nghĩa trên, ta thấy thi pháp học chủ yếu là một lĩnh vực
nghiên cứu về đặc trưng, tổ chức, các phương thức, phương tiện, nguyên
tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của văn bản.
Đó là lĩnh vực nghiên cứu quy luật nội tại của tác phẩm, cấu tạo và phong
cách, nó phân biệt (chứ không đối lập) với các lĩnh vực nghiên cứu

khác. Thi pháp về thực chất là hệ thống ngôn ngữ (kí hiệu) nghệ thuật,
mang tính mở. Thi pháp học bao gồm các bộ phận lí thuyết, miêu tả và lịch
sử, gồm cả phong cách học, và ngày nay bao gồm cả tự sự học, tu từ học mỗi bộ phận có đối tượng riêng, nhưng đều không ra ngoài phạm vi nói
trên. Có nhà nghiên cứu đã ví thi pháp của văn học như là ngữ pháp trong
ngôn ngữ, cho đến nay đã có nhiều lí thuyết và cách miêu tả ngữ pháp,
nhưng không có một lí thuyết duy nhất miêu tả đầy đủ, trọn vẹn về ngữ
pháp của một ngôn ngữ cụ thể nào. Tình hình đó cũng giống như thi pháp
học.
Theo các nhà nghiên cứu Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc
Phi thì “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống các
phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác
văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố
của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn
tượng thẩm mĩ, chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật. Khi nghiên cứu
về thi pháp, chúng ta có thể tìm hiểu về đặc trưng thể loại, phương pháp,
kết cấu, không gian, thời gian, ngôn ngữ, các biện pháp ngữ âm (ngữ âm, từ
vựng và hình tượng) trong tác phẩm để tìm hiểu sự tác động của nó đến các
sáng tác văn học” [35, tr. 258].
Theo GS. Nguyễn Xuân Kính, hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi
pháp học. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám
vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn
bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị
hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình
thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật - không gian - thời gian, kết cấu 9


cốt truyện - điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải
được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính nội dung”.
1.1.3. Thi pháp văn học dân gian
Theo các nhà nghiên cứu Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc

Phi thì "Văn học dân gian còn gọi là văn chương (hay văn học) bình dân,
văn chương truyền miệng hay truyền khẩu là toàn bộ những sáng tác nghệ
thuật ngôn từ của nhân dân" [13, tr. 344]. Văn học dân gian có nhiều đặc
điểm và thuộc tính quan trọng, đáng chú ý như tính truyền miệng, tính
nguyên hợp, tính tập thể, tính vô danh... trong đó tính truyền miệng được
coi là thuộc tính quan trọng nhất, có quan hệ nhiều nhất với các thuộc tính
và đặc điểm khác của văn học dân gian. Văn học dân gian cùng với văn học
viết đã góp phần tạo thành nền văn học của dân tộc và giữa chúng có mối
quan hệ ảnh hưởng qua lại.
Tác phẩm văn học dân gian khi tồn tại ở dạng văn bản chữ viết, nó
có nhiều nét chung với văn học viết. Điều đó có nghĩa là nghiên cứu thi
pháp văn học dân gian vẫn phải dựa vào lí luận, phương pháp, khái niệm
công cụ của thi pháp văn học nói chung. Tuy văn học viết và văn học dân
gian có điểm giống nhau nhưng nếu chúng ta xét kĩ thì văn học dân gian
vẫn có những nét đặc thù mà văn học viết không có được. Văn học dân
gian là sản phẩm mà ngôn từ làm chất liệu cơ bản, nhưng nó không chỉ có
yếu tố ngôn từ mà còn kết hợp với nhiều yếu tố của văn nghệ dân gian như:
nhạc, vũ đạo, biểu diễn,… và các thành phần phi nghệ thuật khác, gắn với
môi trường diễn xướng, quá trình hình thành, tồn tại, lưu truyền và biến đổi
của nó. Vì thế, nếu tách một tác phẩm văn học dân gian khỏi môi trường
diễn xướng, sinh hoạt của nó thì tác phẩm đó không có ý nghĩa, chỉ còn là
một cái xác khô cứng.
Trước hết, khi nói đến thi pháp văn học dân gian là phải nói đến
những đặc điểm của hình thức, những cách thức thể hiện và biểu hiện riêng
của từng nghệ nhân, của đặc điểm dân tộc
Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu xem ý kiến của nhà nghiên cứu
Folklore Chu Xuân Diên như một định nghĩa. Theo ông, “Thi pháp văn
10



học dân gian là toàn bộ những đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về
phương thức và thủ thật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt
truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người”.
Từ ý kiến trên, ông còn nêu những bình diện nghiên cứu cụ thể của
việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian, bao gồm từ việc khảo sát những
yếu tố thi pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ,
các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lí
bên trong của nhân vật,… đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp
chung của từng thể loại; và những đặc điểm dân tộc của thi pháp văn học
dân gian nói chung,…
Như vậy, đối tượng khảo sát của hướng nghiên cứu thi pháp văn học
dân gian là khá đa dạng, thuộc nhiều bình diện khác nhau. Người nghiên
cứu thi pháp văn học dân gian không chỉ nghiên cứu trên văn bản chữ viết
của các tác phẩm văn học dân gian đã được sưu tầm, ghi chép mà còn
nghiên cứu cả quá trình diễn xướng, lưu truyền trong môi trường mà tác
phẩm tồn Đó mới là hướng nghiên cứu bám sát đặc thù văn học dân gian và
là hướng nghiên cứu có hiệu quả cao.
Từ định nghĩa và hướng nghiên cứu thi pháp văn học dân gian nêu
trên, ông còn xác lập hệ thống thi pháp của bộ phận văn học này. Nói
chung chúng ta có thể nghiên cứu văn học dân gian dưới nhiều cấp độ khác
nhau như: Cấp độ thành tố của từng thể loại như ngôn ngữ, thể thơ, nhân
vật, kết cấu, thời gian, không gian nghệ thuật,…; cấp độ thể loại như thi
pháp thần thoại, thi pháp truyền thuyết, thi pháp truyện cổ tích, thi pháp
truyện cười, thi pháp truyện ngụ ngôn, thi pháp ca dao, thi pháp sử thi dân
gian, …; cấp độ loại hình như thi pháp thơ ca dân gian, thi pháp truyện kể
dân gian,…; …
Thơ Tố Hữu mang nhiều dấu ấn thi pháp văn học dân gian trong
sáng tác, nhưng ảnh hưởng lớn hơn cả đến thơ ông là thi pháp ca dao. Theo
“Giáo trình văn học dân gian” (NXB Giáo dục Việt Nam, GS. TS. Vũ Anh
Tuấn chủ biên) thì ngôn ngữ trong ca dao là sự kết tụ của ngôn ngữ nghệ

thuật giàu chất thơ với ngôn ngữ của đời sống, với lời ăn tiếng nói hàng
11


ngày của quần chúng nhân dân [40, tr. 211]. Nó còn là sự kết hợp giữa tính
dân tộc và tính địa phương. Trong ngôn ngữ ca dao, những đặc trưng chủ
yếu về từ ngữ (việc sử dụng các tính từ, đại từ…); kết cấu ngắn gọn, lối đối
đáp thường gặp, kết cấu tương đồng, tương phản hay lối trần thuật; thủ
pháp nghệ thuật (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, biểu tượng, lối miêu tả trực tiếp,
thời gian và không gian nghệ thuật…), thể thơ (lục bát, song thất lục bát…)
được thể hiện rất rõ. Và khi nghiên cứu thơ Tố Hữu, chúng ta có thể thấy
những yếu tố đó trở nên quen thuộc, tạo nên dấu ấn đậm nét của thi pháp
văn học dân gian, đặc biệt của thi pháp ca dao.
1.2. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu
1.2.1. Vài nét về cuộc đời nhà thơ Tố Hữu
Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920
tại làng Phù Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên
Huế) trong một gia đình có cha là một nhà nho nghèo nhưng rất yêu thơ,
ham sưu tầm ca dao, tục ngữ. Từ nhỏ, ông đã được cha dạy làm thơ theo lối
cổ. Mẹ Tố Hữu là con của một nhà nho cũng rất yêu ca dao, dân ca xứ Huế
và giàu tình thương con. Chính truyền thống văn hóa, văn chương của quê
hương và gia đình là những nhân tố quan trọng trong sự hình thành hồn
thơ Tố Hữu.
Năm Tố Hữu lên 12 tuổi, mẹ mất. Năm 13 tuổi, ông vào trường
Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng Cách mạng
qua sách báo tiến bộ của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, Goocki... kết
hợp với sự vận động, giác ngộ của các Ðảng viên ưu tú bấy giờ (Lê Duẩn,
Phan Ðăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), ông sớm nhận ra lý tưởng đúng đắn.
Gia nhập Ðoàn thanh niên, Tố Hữu hăng hái hoạt động, được kết nạp Ðảng
năm 1938.

Tháng 4/1939, Tố Hữu bị giặc Pháp bắt, bị tra tấn dã man và đày đi
nhiều nhà lao. Trong tù, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi luôn giữ vững khí
tiết, tiếp tục hoạt động cách mạng ở mọi hoàn cảnh. Cuối 1941, ông vượt
ngục về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc - Thanh Hóa. Khi Cách mạng tháng
Tám bùng nổ, Tố Hữu giữ chức vụ Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa của thành
12


phố Huế. Năm 1946, là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt
Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông luôn giữ những trọng
trách trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Ðảng và nhà nước
(1948: Phó tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; 1963: Phó Chủ tịch Hội
Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam; tại đại hội Ðảng lần II/02-1951:
Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức; tại đại hội Ðảng
lần III/9-1960: vào Ban Bí thư; tại đại hội Ðảng lần IV/1976: Ủy viên dự
khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên
truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương; từ 1980: Ủy viên
chính thức Bộ Chính trị; 1981: Phó Chủ Tịch Hội đồng Bộ Trưởng). Ông
từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái
Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn
Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu
Quốc hội khoá II và VII. Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1).
Ông mất ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông, các nhà nghiên cứu
đã chỉ rõ ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và
cuộc đời thơ. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả
một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng
chiến.
1.2.2. Những chặng đường thơ Tố Hữu

Thơ Tố Hữu có thể chia thành 3 giai đoạn: Trước Cách mạng tháng
Tám, sau Cách mạng tháng Tám đến thời kì đổi mới, thời kì sau đổi mới.
1.2.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám
Tập thơ “Từ ấy” (1937 – 1946)

Tập thơ chia làm ba phần, phản ánh quá trình giác ngộ và trưởng
thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Với riêng tác giả Tố Hữu, giai đoạn này cũng là lúc bước vào tuổi
thanh niên, được gặp gỡ lý tưởng cộng sản và trở thành một người chiến sĩ
hăng hái, một người lãnh đạo phong trào thanh niên dân chủ ở Huế.
13


Phần Máu lửa cho thấy nội dung chủ đạo là tiếng lòng đồng cảm với những
thân phận bị đọa đày, hắt hủi của những người lao động nghèo khổ ở thành
thị. Đó là em bé mồ côi (bài “Hai đứa trẻ”), chị vú em phải bỏ con ở quê
nhà đói lạnh để ôm con của chủ (bài “Vú em”), ông lão đầy tớ, cô gái giang
hồ trên dòng Hương Giang (bài “Tiếng hát sông Hương”)… Niềm cảm
thông, xót xa, đồng cảm với những thân phận nghèo hèn trong xã hội thực
dân nửa phong kiến luôn đi đôi với tiếng nói khơi gợi trong họ ý thức phản
kháng, đem đến cho họ niềm tin vào một cuộc đổi đời. Bên cạnh đó, những
tình cảm trắc ẩn và niềm cảm thông đó đã những đã tiếp sức cho nhà thơ
trên bước đường đến với cách mạng.
Không chỉ có tình cảm với người lao động trong nước, lý tưởng cộng
sản quốc tế phản ánh trong phần “Máu lửa” thông qua cả những tiếng nói
chống chiến tranh phát xít, có ý nghĩa ở tầm nhân loại.
Với riêng nhà thơ, “Máu lửa” biểu hiện tiếng reo ca náo nức của một
tâm hồn trẻ khát khao lẽ sống đã gặp lý tưởng cách mạng, mà bài thơ “Từ
ấy” là một điển hình.
“Xiềng xích” gồm 30 bài sáng tác trong thời gian tác giả bị giam tại

nhà tù đế quốc từ tháng 4 năm 1939 đến tháng 3 năm 1942. Phần này như
một bản quyết tâm thư của người chiến sĩ trẻ tuổi tự nhủ với lòng mình
không khuất phục trước súng đạn và sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù, không
nản chí trước mọi khó khăn trở ngại. Đó là những cuộc tuyệt thực trong nhà
lao, những cuộc chiến đấu gay go với bản thân để vượt qua những cám dỗ
thấp hèn (bài “Con cá chột nưa”, “Tranh đấu”); là những lời trăng trối của
bạn tù gửi lại khi ra pháp trường (bài “Trăng trối”); là xúc cảm xao động
trước tiếng vọng của cuộc đời bên ngoài qua song cửa nhà tù (bài “Một
tiếng rao đêm”, “Nhớ người”, “Nhớ đồng”); là ý chí hướng về những tấm
gương hy sinh của đồng bào và chiến sĩ trong khởi nghĩa Nam Kỳ (bài “Bà
má Hậu Giang”); là tiếng nói đấu tranh góp phần với phong trào đấu tranh
bên ngoài và những tiếng thơ kêu gọi tâm huyết (bài “Dậy mà đi”, “Dậy lên
thanh niên”)…

14


“Giải phóng” gồm 14 bài, sáng tác trong những năm từ 1942 đến
1946. Đây là những năm tháng khi nhà thơ vượt ngục và sống trong không
khí sục sôi cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Thơ Tố Hữu trong giai
đoạn này là tiếng thét căm thù đối với sự áp bức của hai đế quốc Pháp Nhật (bài “Tiếng hát trên đê”, “Đói! Đói! Đói!”); là sự dự cảm tin lành
chiến thắng (bài “Xuân đến”); là niềm say sưa ca niềm vui bất tuyệt của
độc lập, tự do (bài “Huế tháng Tám”, “Vui bất tuyệt”)…
1.2.2.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến thời kì đổi mới
Tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954)

Tập thơ được sáng tác chủ yếu trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
gồm chủ yếu những bài thơ sáng tác trong thời kì kháng chiến từ sau Thu
Đông thắng lợi 1947 và một số bài thơ sáng tác sau khi hòa bình thắng lợi.
Chủ đề bao trùm tập thơ “Việt Bắc” là tinh thần thiết tha yêu nước, ý chí

quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Trong tập thơ, nổi bật
nhất là hình tượng Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của
cuộc kháng chiến và hình ảnh của các anh bộ đội cụ Hồ. Bên cạnh đó là
hình ảnh của những bà mẹ, những em thiếu nhi, những chị phụ nữ cũng nói
lên tình cảm yêu mến, thiết tha, gắn bó của nhà thơ.
Trong tập thơ, người đọc có thể nhận thấy tinh thần lạc quan cách
mạng, lòng tin vững chắc ở tương lao, niềm tin về sự thống nhất nước nhà.
Tập thơ đã khẳng định Tố Hữu chính là một thi sĩ cộng sản và Việt Bắc trở
thành tập thơ tiêu biểu nhất cho thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến
chống Pháp bởi nó phản ánh hướng đi lên và bước phát triển thắng lợi của
cuộc kháng chiến từ những ngày đầu gian khổ đến kết thúc, đỉnh cao là
thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong lần in đầu tiên năm 1954, tập thơ “Việt Bắc” gồm 24 bài với
bài đầu tiên là “Cá nước”, sáng tác năm 1947, và kết thúc với bài “Lại về”,
sáng tác năm 1954. Tập thơ “Việt Bắc” phản ánh đầy đủ con đường chiến
đấu gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn,
hình ảnh về cuộc kháng chiến. Đó là tiếng hát mở đường (bài “Phá
đường”); tiếng hò kéo pháo lên chiến dịch (bài “Voi”); nỗi lòng bà mẹ nhớ
15


con (bài “Bầm ơi”); niềm thao thức nơi anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê
(bài “Bà bủ”); chiến thắng Việt Bắc (bài “Cá nước”); nguồn sáng nơi căn
nhà của Bác (bài “Sáng tháng năm”); bước chân người chiến sĩ vào trận
tuyến nơi núi rừng Tây Bắc (bài “Lên Tây Bắc”); niềm hân hoan trước
chiến công lừng lẫy tại Điện Biên Phủ (bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”);
niềm vui chiến thắng và hòa bình trên bước đường đi tới (bài “Ta đi tới”)…
Một trong những điểm nổi bật của tập thơ “Việt Bắc” là sự khắc họa
chân thực những nhân vật văn học đại diện cho các tầng lớp nhân dân Việt
Nam kháng chiến, những con người mới của thời đại mới, mà nổi bật trong

đó là hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh - hiện thân cho tinh hoa và trí tuệ của
dân tộc. Tuy vậy, tập thơ vẫn còn thiếu những con người cá thể, cụ thể,
những tình cảm riêng tư của cái "tôi" trữ tình. Về mặt nghệ thuật, tuy được
đánh giá là bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu
xuất sắc của thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, yếu tố cách
tân trong tập thơ cũng chưa được nhìn thấy.
Tập thơ “Việt Bắc” được tặng giải nhất về thơ của Giải thưởng văn
học giai đoạn 1954 – 1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.
Tập thơ “Gió lộng” (1955 – 1961)

Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, những kế hoạch 5 năm
xây dựng đất nước được triển khai. Tập thơ “Gió lộng” thể hiện nỗi niềm
phấn chấn của người xây dựng đất nước: "Gió lộng đường khơi rộng đất
trời". Cảm hứng trong “Gió lộng” đã được mở rộng và nâng cao khi đất
nước bước vào thời kì lao động mới, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
chiến đấu lại được biểu hiện trong khí thế lao động quên mình trên khắp
trận tuyến của mọi miền đất nước. Tập thơ “Gió lộng” khai thác những
nguồn cảm hứng lớn, cũng là những tình cảm bao trùm trong đời sống tinh
thần của con người Việt Nam đương thời: niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng
ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, tình
cảm với miền Nam và ý chí thống nhất Tổ Quốc, tình cảm quốc tế vô sản
rộng mở với các nước anh em. Tập thơ thể hiện rõ rệt cảm hứng phơi phới
16


đi lên chủ nghĩa xã hội của cả dân tộc. “Gió lộng” mang âm hưởng lạc quan
của niềm vui, thể hiện sức sống dồi dào và tính chất ưu việt của xã hội mới.
Trong tập thơ, giọng anh hùng ca ngày càng được khẳng định, đề tài
thơ có sức bao quát hiện thực, ý thơ mang tầm tư tưởng cao. Tập thơ mở ra
niềm vui lớn vì nửa đất nước được giải phóng nhưng niềm vui đó còn chưa

trọn vẹn. Nhà thơ cũng thể hiện lòng tri ân, nghĩa tình với Đảng, với Bác
Hồ, với nhân dân.
Tập thơ “Ra trận” (1962 – 1971)

“Ra trận” là tập thơ thứ tư của Tố Hữu. Tập thơ gồm 31 bài, sáng tác
trong 10 năm kháng chiến chống Mĩ. Lúc này, thơ Tố Hữu là khúc ca ra
trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân tộc
trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc.
Trong tập thơ, Tố Hữu vẫn giữ được giọng thơ đằm thắm. Đề tài
rộng mở như đánh dấu những sự kiện chính trị, quân sự của đời sống. Ông
hướng tới những tình cảm mang tính phổ quát, đề tài thời sự. “Ra trận”
được đánh giá là tập thơ chứa đựng những lẽ sống thiêng liêng của dân tộc
ta trong giờ phút lịch sử khi trận chiến đấu, chống lại đế quốc Mỹ xâm lược
được bắt đầu. Trong trận chiến ấy, những con người Việt Nam nhỏ bé
nhưng thông minh, kiên cường và bất khuất đã trở thành người chiến thắng,
cắm lá cờ đỏ sao vàng trên đỉnh vinh quang.
Với “Ra trận”, quá khứ chủ yếu được khai thác qua truyền thống anh
hùng của một dân tộc quật cường có hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại
xâm đầy sôi nổi. Trong thơ, Tố Hữu đã thể hiện thế trận trùng điệp, tiến
công kẻ thù. Truyền thống và sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử đang
góp phần làm nên những giá trị lớn lao cho dân tộc.
Trong tình cảm đối với đất nước, Tố Hữu dành phần tha thiết nhất
cho miền Nam anh hùng:
Máu đọng chưa khô, máu lại đầy
Hỡi miền Nam trăm đắng nghìn cay
Hăm lăm năm chẳng rời tay súng
Đi trước về sau đã dạn dày.
17



(Theo chân Bác, 1970)
“Ra trận” có rất nhiều bài thơ hay về miền Nam, tình cảm của ông
với miền Nam thật thiết tha, dạt dào, đăc biệt là những hình ảnh quen thuộc
như anh giải phóng quân, chiếc mũ tai bèo trong trận chiến, những người
mẹ, những anh hùng đã xả thân vì nghĩa lớn.
“Ra trận” đánh dấu một bước phát triển mới trong thơ Tố Hữu, mang
đến chiều cao tầm vóc mới cho thơ ông với những chủ đề lớn, những vấn
đề cốt lõi của thời đại. Trong tập thơ cũng đã thể hiện những dấu hiệu thay
đổi về hình thức với lối ngắt nhịp, giãn nhịp và một số câu thơ có hướng
tiếp cận với văn xuôi.
Tập thơ “Máu và hoa” (1971 – 1977)

Tập thơ gồm 13 bài, sáng tác trong 6 năm, là tổng kết của quá trình
phát triển dân tộc, của cách mạng Việt Nam – một hành trình đầy máu và
hoa. Trong tập thơ có rất nhiều bài thơ trường thiên với cảm xúc tổng hợp,
bao quát hơn nửa thế kỉ chiến đấu, đấu tranh. “Máu và hoa” ghi lại chặng
đường cuối cùng của cuộc chiến đấu trong lịch sử dân tộc thời kì chống Mỹ
cứu nước, chặng đường vẻ vang rất quyết liệt và nhiều gian truân. Thắng
lợi đang đến gần, những cảm xúc của tác giả đan xen lẫn đi về giữa quá
khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai. Nổi lên là niềm tin tươi sáng và
lòng quyết tâm đi đến thắng lợi cuối cùng.
“Máu và hoa” là bài ca về Tổ quốc chiến thắng và niềm vui của
người con của dân tộc hân hoan đón chào niềm vui lớn, niềm vui trọn vẹn,
niềm vui của đỉnh cao thắng lợi diệu kì. Trên đỉnh cao ấy, tác giả đã nhìn
lại một chặng đường dài bao quát lịch sử. Và từ đây, nhân dân ta bước sang
một thời kì mới, dân tộc ta đến với chặng đường mới trong không khí ấm
cúng, sum họp quê hương, đằm thắm nghĩa tình và niềm vui trọn vẹn.
1.2.2.3. Thời kì đổi mới:
Tập thơ “Một tiếng đờn”


Tập thơ xuất bản vào năm 1993 – thời kì đất nước đã hòa bình. Đây
là những sáng tác trong khoảng hơn 10 năm từ 1978 – 1992. Trong tập thơ,
bóng dáng của nhà thơ vẫn vô cùng quen thuộc trong vai trò nhắc nhở con
18


người hướng vào những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả
của cách mạng. Ông vẫn thủy chung với nguồn đề tài của đời sống cách
mạng, của toàn đất nước. Trước một hiện thực mới mẻ, đã có một tiếng nói
mới, một giọng điệu mới nơi Tố Hữu, đó là những dòng tâm tư, trăn trở từ
mạch cảm xúc trong thời hòa bình. Đây là thời kì sau chiến tranh máu lửa
nên thơ ông đã xuất hiện những dòng thơ tươi xanh – mang đậm cảm hứng
thế sự. Đề tài trong thơ phong phú: ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, con
người; công cuộc xây dựng đất nước đầy phức tạp; tình yêu và số phận con
người… Âm hưởng thơ giai đoạn này cũng đã bớt vang xa (hướng ngoại)
mà vọng sâu hơn (hướng nội), đôi khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư
của tuổi cuối đời nhìn lại. Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm,
rất gần với thời kì Từ ấy. Bút pháp thơ Tố Hữu thời kì này không tung
hoành, hào sảng mà trầm xuống trong chiêm nghiệm.
Em ơi nghe đó, trong đêm lạnh
Ðằm thắm bên em một tiếng đờn
Ngoài giọng anh hùng ca vốn có, thêm giọng trầm lắng, đôi khi xót
xa:
Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Ðang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Ðời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn!
(Một tiếng đờn, 1991)
Những bài thơ tiêu biểu trong tập thơ là: “Một khúc ca”, “Ðêm cuối
năm”, “Ðêm thu quan họ”, “Ðảng và thơ”, “Một tiếng đờn”, “Lạ chưa?”,

“Xuân hành 92”, “Ta lại đi”, “Anh cùng em”.
Tập thơ “Ta với ta”

Cùng nguồn cảm hứng trong thời kì hòa bình, đổi mới của đất nước,
vào tuổi 80, tác giả khẳng định hồn thơ vẫn rạo rực, thổn thức suy tư của
mình trong tập thơ “Ta với ta”. Đây cũng là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu,
được sáng tác trong khoảng gần chục năm cuối đời (1993 – 2002). Giọng
thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn
19


×