Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Quản lý hoạt động chuyên môn ở trường mầm non quận bắc từ liêm thành phố hà nội theo phong cách lãnh đạo của hiệu trưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.24 KB, 35 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
.....ỉoCBca....

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN Ở TRƯỜNG MẦM
NON QUẶN BẮC TỪ LIÊM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO PHONG
CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA HIỆU TRƯỞNG

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HQC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2015


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

.....ỉoCBca....

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN Ở TRƯỜNG MẦM
NON QUẶN BẮC TỪ LIÊM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO PHONG
CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA HIỆU TRƯỞNG

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã sổ: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HQC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Mạnh
Với tất cả sự thành kính và tình cảm chân thành của người học trò,
em xỉn bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sẳc tới các thầy giảo, cô giáo
trường Đại học sư phạm Hà Nôi II. Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn sự
quan tâm chỉ dạy, sự giúp đỡ tận tình, thân thiện của Tiến sĩ Nguyễn Đình
Mạnh người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu


và hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xỉn được trân trọng cảm ơn các đồng chí các đồng chí cán
bộ giáo viên, của các trường mầm non trong quận Bẳc Từ Liêm, gia đình,
bạn bè và người thân, đã tạo thời gian điều kiện cho việc nghiên cứu giúp
tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu chưa nhiều mặc dù bản thân tôi có rất
nhiều cổ gắng song không tránh khỏi những thiểu sót trong nội dung trình
bày luận văn. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý chân thành của
các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp
Xỉn trân trọng cảm ơn ỉ
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hương
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hưong



Trang


DANH MỤC CÁC BẢNG
PHỤ LỤC



NHỮNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN


8
STT

Từ viết tắt

Viết đầy đủ

1

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

2
3

GDMN


Giáo dục mầm non

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5

UBND

ủy ban nhân dân

6
7

csvc

Cơ sở vật chất

MN

Mầm non

8

9

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

QLGD

Quản lý giáo dục

1
0
1
1
1
2
1
3
1
4

GV

Giáo viên

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

CBQL


Cán bộ quản lý

GVMN

Giáo viên mầm non

CSGD

Chăm sóc giáo dục

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.

Bước sang thế kỷ XXI, đất nước ta đứng trước nhiều thời cơ, vận

hội mới, nhưng cũng phải đối mặt vói khá nhiều thách thức. Làm thế
nào để tận dụng được thời cơ thuận lợi và vượt qua mọi thách thức,
đưa đất nước ta sớm thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu?
Chính điều này đã đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với mọi ngành
nghề, trong đó có ngành giáo dục - đào tạo (GD-ĐT).
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành GD - ĐT đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 2


9
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12 - 1996), Đảng ta đã vạch ra các
giải pháp để phát triển GD-ĐT là: “Tăng cường nguồn lực cho giáo dục - đào
tạo. Tiếp tục đổi raởi nội dung, phương pháp giáo dục, tăng cường cơ sở vật

chất cho các trường học và đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo”.
Những giải pháp trên là những giải pháp chung, trong đó có giải pháp về quản
lý nhằm nâng cao chất lượng GD-ĐT. Đảng ta cũng đã nhận định: Giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Ngành giáo dục có một trách nhiệm lớn
lao là đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, có trình độ tay nghề và
phẩm chất nghề nghiệp tốt để góp phần đưa đất nước phát triển lên một tầm
cao mới.
Là ngành học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm
non (GDMN) có nhiệm vụ quan họng là hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên
của con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục tiêu của GDMN là chăm sóc, giáo dục trẻ theo khoa học, giúp trẻ
phát triển nhanh nhẹn, khỏe mạnh, cơ thể phát triển hài hòa cân đối, giàu lòng
yêu thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ người gần gũi, thông minh,
ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi... muốn đạt được mục tiêu đó thì trước
hết hiệu trưởng (HT) phải tăng cường công tác quản lý, đặc biệt là quản lý hoạt
động chuyên môn trong trường. Bởi hoạt động quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng là một trong những yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm chất lượng giáo
dục trong một nhà trường.
Hiệu trưởng là hạt nhân chủ yếu ứng dụng khoa học quản lý, cải tiến các
biện pháp quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng
là người chịu trách nhiệm trước nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả mục
tiêu giáo dục - đào tạo của nhà trường. “Hiệu trưởng là người có trách nhiệm
chủ yếu quyết định trong nhà trường làm cho nó tốt hay xấu” (Phạm Văn


1
0
Đồng).
1.2.


Bắc Từ Liêm là một quận mới thành lập của thành phố Hà Nội

được tách ra từ huyện Từ Liêm. Trong những năm gần đây GDMN
của quận đã chú ý phát triển cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng. Tuy nhiên, chất lượng GDMN của quận vẫn còn nhiều mặt
hạn chế, đặc biệt là các trường trong quận. Hạn chế ấy do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó có nguyên
nhân do cán bộ quản lý nhà trường - Hiệu trưởng chưa có biện pháp
quản lý hoạt động chuyên môn hữu hiệu. Hiện nay, công tác quản lý
chuyên môn đã thực hiện nhưng kết quả thực sự chưa cao. Ngưòi
hiệu trưởng mới chỉ chú ý đến việc kiểm tra, giám sát hoạt động
chuyên môn mang tính hình thức, bề ngoài. Việc quản lý chuyên
môn chưa có một chiến lược rõ ràng và chưa xác định đầy đủ nội
dung của công việc này... Các biện pháp quản lý chuyên môn thiếu
tính hệ thống, đồng bộ...
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động
chuyên môn ở trường mầm non quận Bắc Từ Liêm theo phong cách lãnh đạo
của hiệu trưởng”. Đây là một vấn đề hết sức cấp thiết vừa có ý nghĩa lý luận
vừa có ý nghĩa thực tiễn nhằm từng bước đưa chất lượng GDMN Quận Bắc
Từ Liêm phát triển đáp ứng với yêu cầu đổi mới bậc học mầm non của Quận
Bắc Từ Liêm
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn các trường
mầm non theo phong cách lãnh đạo của hiệu trưởng, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả - giáo dục trẻ trong các trường mầm non nói chung và ở
quận Bắc Từ Liêm nói riêng.


1

1
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động chuyên môn ở trường

mầm non Quận Bắc Từ Liêm thành phố Hà Nội theo phong cách
lãnh đạo của hiệu trưởng.
3.2.

Khách thể nghiên cứu: Hoạt động chuyên môn và phong cách

lãnh đạo của hiệu trưởng.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đe tài nghiên cứu: Quản lý hoạt động chuyên môn ở trường

mầm non quận Bắc Từ Liêm thành phố Hà Nội theo phong cách lãnh
đạo của hiệu trưởng.
4.2.

Khách thể điều tra: Tổng số 308 cán bộ giáo viên, nhân viên của

4 trường mầm non.
4.3.

Đỉa bàn nghiên cứu: Các trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm -

Thành phố Hà Nội.

4.4.

Pham vi thòi gian: Đe tài được nghiên cứu từ cuối năm học

2014-2015 và đầu năm học 2015 - 2016.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng các trường mầm non
quận Bắc Từ Liêm thành phố Hà Nội thường dựa theo phong cách lãnh đạo
khác nhau và chưa phát huy tốt thế mạnh của phong cách lãnh đạo dân chủ.
Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn phù họp với
phong cách lãnh đạo dân chủ sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo
dục ở các trường mầm non hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý, hoạt động, chuyên môn,
quản lí hoạt động chuyên môn, phong cách, phong cách lãnh đạo, hiệu
trưởng trường mầm non, phong cách lãnh đạo của hiệu trưởng trường
mầm non...


1
2
-

Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động chuyên môn theo phong cách
lãnh đạo của hiệu trưởng ở các trường mầm non quận Bắc Từ Liêm
thành phố Hà Nội.

-


Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn phù hợp vói
phong cách lãnh đạo dân chủ của hiệu trưởng các trường mầm non Quận
Bắc Từ Liêm thành phố Hà Nội.

7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
-

Giới hạn về chủ thể quản lý : Hiệu trưởng trường mầm non

-

Nội dung nghiên cứu: Hoạt động chuyên môn và phong cách lãnh đạo
của hiệu trưởng ở các trường mầm non( về hoạt động chuyên môn đề
tài chỉ nghiên cứu hoạt động giáo dục không nghiên cứu vấn đề nuôi
dưỡng, về phong cách lãnh đạo, đề tài chủ yếu nghiên cứu phong cách
lãnh đạo dân chủ)

-

Địa bàn nghiên cứu: Các trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm thành phố
Hà Nội.

-

Khách thể điều tra: là cán bộ quản lý, giáo viên, ở các trường mầm non
nghiên cứu.
Tổng số 308 cán bộ giáo viên của 4 trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm

thành phố Hà Nội.

8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các chỉ thị của
Đảng, của nhà nước của ngành và các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu
-

Phương pháp phân tích, tổng họp lý thuyết.

-

Phương pháp mô hình hóa lý thuyết.

-

Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.

8.2.
-

Nhóm phương pháp nghiên cửu thực tiễn:

Phương pháp quan sát.


1
3
-

Phương pháp điều tra (bằng phiếu hỏi)


-

Phương pháp phỏng vấn.

-

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

-

Phương pháp chuyên gia

-

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.

-

Các phương pháp xử lý số liệu (sử dụng toán thống kê để phân tích, xử
lý các số liệu điều tra từ đó rút ra các kết luận khoa học).

9. Cái mới của đề tài
Đề tài đưa ra biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng
các trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm thành phố Hà Nội, phù họp với phong
cách lãnh đạo dân chủ.
10. Cấu trúc luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2. Thực trạng quản lí hoạt động chuyên môn theo phong cách
lãnh đạo của hiệu trưởng ở trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm thành phố Hà

Nội.
Chương 3. Biện pháp quản lí hoạt động chuyên môn theo phong cách
đạo của hiệu trưởng trường mầm non Quận Bắc Từ Liêm.
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐÈ TÀI
1.1.

Tổng quan vế vấn đề nghiên cứu

Giáo dục là hoạt động cực kỳ quan trọng đã góp phần to lớn thúc đẩy xã
hội loài người phát triển. Nó tác động đến mọi hoạt động khác trong xã hội
như: văn hóa, chính trị, kinh tế... giáo dục chính là kim chỉ nam, là chìa khóa
để giải quyết những mâu thuẫn và dẫn đến sức mạnh ở mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.


1
4
Một xã hội học tập đã nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa toàn
cầu hóa và cục bộ, giữa truyền thống và hiện đại; giữa cách nhìn dài hạn và
ngắn hạn; giữa cạnh tranh cần thiết và quan tâm đối với sự bình đẳng; giữa sự
bành trướng vô hạn của tri thức và khả năng tiếp thu của con người, chính
những mâu thuẫn này đã đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục Việt
Nam.
Nhận định được tầm quan trọng của giáo dục trong thời đại ngày nay,
Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục
là đầu tư cho sự phát triển. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai”
Giáo dục ngày nay không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ lại cho người học
hiểu biết những tri thức, kỹ năng đã có do con người tích lũy được từ ngàn xưa,
mà phải dạy cho người học biết vận dụng những điều đã biết đã hiểu ấy vào các

lĩnh vực khác của đòi sống xã hội. Không những vậy, giáo dục phải khơi dậy,
làm sống lại những tiềm năng sẵn có của con người làm cho người học trở lên
năng động, sáng tạo luôn mong muốn tìm tòi, khám phá và phát hiện thêm
những tri thức mới trên nền những tri thức đã biết.
Giáo dục phải bồi dưỡng để người học có được những đòi hỏi khắt khe
của thời đại mới như: năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; khả năng giao
tiếp, khả năng tiếp thu và cập nhật thông tin... Đây là nhiệm vụ của toàn ngành
giáo dục hay nói cách khác đó là nhiệm vụ của mọi cấp học, bậc học trong hệ
thống giáo dục quốc dân, trong đó có bậc học mầm non. Để thực hiện tốt sứ
mệnh của mình, không còn cách nào khác, giáo dục phải không ngừng đổi mới
đi lên.
Đổi mới sự nghiệp giáo dục liên quan đến rất nhiều vấn đề, trong đó đổi
mới quản lý giáo dục được xem là một trong những khâu then chốt. Đã có
nhiều nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước, các nhà quản lý giáo dục
đầu tư nghiên cứu để tìm ra các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng


1
5
giáo dục. ở phạm vi hẹp hơn, trong các cơ sở giáo dục, các trường học thì Ban
Giám hiệu - các cán bộ quản lý cũng không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để có được
những biện pháp quản lý phù họp mang tính khả thi góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học trong các nhà trường nói chung và chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ trong các trường mầm non nói riêng.
+ Ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu QLGD Xô Viết trong những công
trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà
trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và họp lý các công việc
của đội ngũ giáo viên”
V.A.Xukhômlinxki cùng với nhiều tác giả khác V.P.Xtrêzinxodin, G.I.
Gooscaia,đã đưa ra một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng trong nhà trường

như sau:
-

Phân công họp lý công việc giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng, phối
họp chặt chẽ với nhau để đạt mục tiêu đề ra.

-

Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.

-

Tổ chức hội thảo khoa học nhằm nâng cao trình độ cho giáo viên.

-

Dự giờ và phân tích bài học, tổ chức rút kinh nghiệm
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, với sự xuất hiện của nền kinh tế tri

thức, hình thành xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra một làn sóng
cải cách giáo dục trên thế giới (cải cách giáo dục lần thứ ba). Trong cuộc cải
cách lần này, xuất phát điểm để xem xét các vấn đề chủ yếu của các nước là
tương đối giống nhau. Cụ thể là:
-

Giáo dục đại chúng dần dần thay thế cho giáo dục tinh hoa.

-

Quan tâm đến việc hình thành phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ và

người lao động về ý thức, trách nhiệm, tính tích cực, chủ động, sáng tạo,
thích ứng nhanh với sự đổi mới, phát huy cá tính, bản sắc của người học.

-

Thực hiện chương trình cốt lõi (60%) thống nhất trong toàn quốc, trao


1
6
quyền tự chủ cho địa phương, trường học, nhà trường, học sinh, sinh
biên quyết định vận dụng linh hoạt 40% phần còn lại.
-

Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục, giúp người học tiếp cận với những thành
tựu hiện đại của khoa học công nghệ.
Các nước đều tiến hành cải cách giáo dục theo mấy hướng lớn như:

-

Tăng cường giáo dục nhân văn.

-

Đưa công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống.

-

Đào tạo những con người có năng lực thực sự đóng góp vào sự tiến bộ
xã hội, biết quản lý xã hội và phát triển xã hội. Giáo dục gắn liền với

đào tạo nguồn nhân lực, ...

-

Hiện đại hóa phương pháp và phương tiện dạy học.
Trong xu hướng cải cách và phát triển của giáo dục hiện nay vai trò quản

lý của hiệu trưởng nhà trường càng thể hiện tính quyết định đối với chất lượng
giáo dục của nhà trường. Các tác giả Pam Robbin và Harvay Alvy (người Mỹ)
là những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về QLGD đã xuất bản cuốn “Cẩm
nang Hiệu trưởng”, công bố những kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp đặc thù
của hiệu trưởng như biện pháp quản lý nhân sự và chuyên môn, xây dựng các
tổ chức, môi trường học tập hiệu quả...
“Cẩm nang HT” đã được gới chuyên môn Mĩ đánh giá cao và nhiệt liệt
hưởng ứng, được coi một trong những cẩm nang quan trọng, phổ biến đối với
chuyên gia, các nhà lãnh đạo QLGD trên toàn thế giới
+ Ở nước ta, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu... Giáo dục là nền
tảng cho sự phát triển khoa học kỹ thuật, là động lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, toàn xã hội, tất cả các ngành, các cấp đều quan tâm đến
giáo dục. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề cốt tử, trong đó vấn đề
quản lý giáo dục đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Sau một thòi gian tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi thấy có một số công trình
và tác giả cần phải điểm qua là:


1
7
Đặng Quốc Bảo “Một số khái niệm về quản lý giáo dục” (Trường cán bộ
QLGD- ĐTTƯ 1 - 1977).
Trần Kiểm “Quản lý giáo dục và quản lý trường học” (Viện KHGD Hà

Nội 1990).
Nguyễn Ngọc Quang “Những khái niệm cơ bản về lý luận Quản lý giáo
dục” (Trường cán bộ QLGD - ĐTTƯ 1 - 1989)...
Những công trình nghiên cứu trên đã góp phần phát triển khoa học quản
lý giáo dục ở nước ta.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi mở chương trình đào tạo
cao học QLGD, các nhà quản lý giáo dục, hiệu trưởng, hiệu phó các nhà trường
đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
Nguyễn Thị Bích Thủy (1999): Các biện pháp quản lý chuyên môn của
Hiệu trưởng các Trường Tiểu học ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ QLGD.
Nguyễn Văn Tiến (2000): Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý
chuyên môn của Hiệu trưởng Trường THCS ngoại thành Hải Phòng, Luận vãn
thạc sĩ QLGD.
Phạm Khánh Tường (2002): Các biện pháp quản lý chuyên môn của Hiệu
trưởng đối với giáo viên mới vào nghề của một số Trường THPT ở Hải Phòng,
Luận văn thạc sĩ QLGD.
Đỗ Thế Dĩnh (2002): Một số biện pháp của Hiệu trưởng nhằm tăng cường
công tác quản lý chuyên môn ở Trường TMTWIV. Luận văn thạc sĩ QLGD.
Phan Quỳnh Anh: Hoàn thiện một số biện pháp quản lý chuyên môn của
Hiệu trưởng Trường THPT DL Hà Nội, Luận văn thạc sĩ QLGD 2000.
Trần Thị Minh Nguyệt: “Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng các trường THPT thành phố Thái Nguyên (Hà Nội 2002).
Trần Thị “Một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao năng
lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên THPT thành phố Đà Nang” (Hà Nội


1
8
2002) vv...
Vấn đề quản lí hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho GVMN đã được

các nhà khoa học, các nhà quản lí quan tâm nghiên cứu từ lâu. Theo TS.
Nguyễn Trí [22] việc nâng cao trình độ văn hóa chung, trình độ sư phạm cho
đội ngũ giáo viên nước ta là việc làm chiến lược, có ý nghĩa thế giới và khu
vực. Để có đội ngũ giáo viên ngang tầm thế giói và khu vực, việc đào tạo lại
đội ngũ giáo viên nước ta đòi hỏi một khoảng thòi gian dài hàng thập kỉ, một
sự nỗ lực lớn của nhà nước và của từng cá nhân giáo viên. Để có thể dạy được
các kiến thức mới, vận dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực tự học, tự
nghiên cứu của lóp trẻ. Nếu mỗi giáo viên mầm non không tự vượt lên chính
mình, không tự chiến thắng những thói quen dạy học cũ kĩ, lạc hậu thì bản thân
giáo viên và toàn thể đội ngũ không thể đáp ứng yêu cầu của chương trình mới.
Có một số tác giả nghiên cứu về chương trình GVMN như đề tài “ Nghiên cứu
khoa học cho việc nâng cao chất lượng thực hiện chương trình chăm soc - giáo
dục trẻ 3 - 6 tuổi trong trường mầm non” của tác giả Lê Thị Thu Hương (Viện
chiến lược và chương trình giáo dục)', Đe tài đề cập đến một số vấn đề về quan
điểm, nguyên tắc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình chăm sóc - giáo
dục trẻ, một số định hướng đổi mới chương trình, xây dựng mô hình nâng cao
chất lượng chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mẫu giáo trong trường mầm
non vùng miền núi. Một số luận văn thạc sĩ khoa học quản lí giáo dục nghiên
cứu về vấn đề quản lí giáo viên như: “Giải pháp bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên
mẫu giáo các tỉnh Duyên Hải miền Trung”[18], “Thực trạng công tác quản lí
việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên ở một số trường mầm non thành phố
Hồ Chí Minh” [24], đã tiếp cận nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng chuyên môn
nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên... Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có đề tài nào đề cập đến quản lí hoạt động chuyên môn ở
trường mầm non theo phong cách lãnh đạo của hiệu trưởng như chúng tôi đã
tiến hành.


1
9

1.2.

Một số vấn đề ỉý luận của đề tài

1.2.1. Khái niệm về quản lý và hoạt động
quản lý
a. Khái niệm về quản lý
Quản lí là một thuộc tính gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn phát triển
của nó. Ngay từ thuở bình minh của xã hội loài người, để đương đầu với sức
mạnh to lớn của tự nhiên, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con
người phải lao động chung, kết họp thành tập thể; điều đó đòi hỏi phải có sự tổ
chức, phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động, tức là
phải có quản lí.

c. Mác nói: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạọ để
điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất khác vói sự vận động của các khí quan
độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm thì tự mình điều khiển lấy mình, còn
dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng.”[7]
Quản lí là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ
lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lí,
nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được mục
đíchcủa nhóm về thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với
tư cách thực hành thì quản lí là một nghệ thuật, còn kiến thức tổ chức về quản
lí là một khoa học. Quản lí là một hệ thống mở, hoạt động bên trong môi
trường và tác động qua lại với nó.
Từ những khái niệm trên cho thấy, tuy về mặt cấu trúc khái niệm có
khác nhau, song đều thể hiện những điểm chung đó là:
-


Có chủ thể quản lí: “Ai quản lí”, đó là tác nhân tạo tác động, chủ thể
quản lí có thể là một cá nhân hoặc một tổ chức.


2
0
-

Có chủ thể bị quản lí: “Quản lí ai”, “Quản lí cái gì”, (Hay còn gọi là đối
tượng quản lí; khách thể quản lí).

-

Có mục tiêu quản lí: Là căn cứ để chủ thể quản lí tạo ra các tác động, tác
động lên đối tượng quản lí.
Như vậy, có thể khái quát: Quản lí là cách thức tác động có tổ chức, có

mục đích của chủ thể quản lí nên chủ thể bị quản lí bắng các chế định xã hội,
bằng tổ chức và nhân lực, tài lực và vật lực, bằng năng lực, phẩm chất, uy tín
của người quản lí (Cơ quan quản lí) nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, cơ hội của tổ chức nhằm đạt được mục đích trong điều kiện môi trường
luôn biến động.
Ngày nay quản lí được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế xã hội, đó là vốn; nguồn lực lao động; khoa học kĩ thuật; tài nguyên và quản lí.
b. Hoạt động quản lý
Quản lí giáo dục có nội hàm rộng hay hẹp phụ thuộc vào cách hiểu từ
“giáo dục” trong đó như thế nào. Nếu ta hiểu “Giáo dục’ là các hoạt động tác
động đến thế hệ trẻ diễn ra trong các nhà trường nói riêng và xã hội nói chung
thì “quản lí giáo dục” là quản lí mọi hoạt động giáo dục trong xã hội, và lúc đó
“quản lí giáo dục” được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Còn nếu chúng ta chỉ nói

đến các hoạt động giáo dục có tổ chức, có hệ thống trong ngành giáo dục đào
tạo, diễn ra trong các cơ sở giáo dục đào tạo là nói đến quản lí nhà trường và
quản lí một hệ thống các cơ sở giáo dục đào tạo ở một địa phận hành chính,
huyện, tỉnh...đó là “quản lí một hệ thống giáo dục”.
* Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lí giáo dục
Trần Kiếm cho rằng: Quản lí giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau nhằm
mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức
và vận dụng những qui luật chung của xã hội cũng như các qui luật của giáo


2
1
dục, của sự phát triển tâm lí và thể lực của trẻ em.[l 1]
Theo Phạm Minh Hạc: Quản lí nhà trường (Quản lí giáo dục nói chung)
là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và vói từng học sinh. [8]
Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo
dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người, tuy nhiên trọng tâm vẫn
là giáo dục thế hệ trẻ, cho nên quản lí giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí giáo dục và quản lí trường
học nói riêng và hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch họp qui
luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lí
giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt
Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - Giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ
giáo dục đạt tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mowí về chất”. [15]
Tác giả Phạm Khắc Chương trong bài giảng “Những vấn đề cơ bản về
QLGD” cho rằng: “QLGD theo nghĩa tổng quát là điều hành phối họp các lực

lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã
hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển GD thường xuyên, công tác GD không
chỉ giới hạn cho thế hệ trẻ mà cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là giáo
dục thế hệ trẻ cho nên QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống GD quốc
dân. mặt khác “QLGD là tác động có ý thức của chủ thể quản lí nhằm đưa hoạt
động GD đạt kết quả mong muốn.”
Từ những định nghĩa trên cho thấy: “QLGD là những tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng tới đích của chủ thể quản lí lên đối
tượng quản lí mà chủ yếu là quá trình dạy học và giáo dục ở các trường học.”
-

Khách thể của quản lí giáo dục tổng thể là hệ thống giáo dục quốc gia.


2
2
-

Đối tượng của quan lí giáo dục tổng thể là tất cả những thành tố của hệ
thống giáo dục nhân sự, chương trình giáo dục, hoạt động giáo dục,
người học, nguồn lực giáo dục và học liệu, môi trường giáo dục và có sở
giáo dục, các quan hệ giáo dục.

-

Mục tiêu của quản lí giáo dục là phát triển các thành tố của hệ thống
giáo dục trên các mặt qui mô, cơ cấu và chất lượng của chúng.

-


Chủ thể quản lí giáo dục là nhà nước từ trung ương đến địa phương và
cơ quan quản lí, là ngưòi chịu trách nhiệm trướ Nhà nước về giáo dục
như các nhà giáo, các cán bộ giáo dục khác và chính cả người học.
Giữa chủ thể và khách thể quản lí có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn

nhau, vật chất và tinh thần, có giá trị sử dung trực tiếp đáp ứng như cầu của con
người, thỏa mãn mục tiêu quản lí.
Trong hệ thống GD, con người là yếu tố trọng tâm trong công tác quản
lí. Con người vừa là chủ thể quản lí, vừa là khách thể quản lí. Hơn thế nữa mọi
hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục đều hướng vào đào tạo và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ. Do vậy, nhân tố con ngưòi là nhân tố quan trong nhất
trong QLGD.
1.2.2.

Khái niệm hoạt động và hoạt động chuyên môn

Chuyên môn là tổ họp các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thực hành mà con
người tiếp thu được qua đào tạo để có khả năng thực hiện một loạt công việc
trong phạm vi một ngành nghề nhất định theo phân công của xã hội.
Chuyên môn sư phạm là một ngành khoa học về lĩnh vực giáo dục, đào
tạo có nội dung và phương pháp sư phạm riêng biệt, chuyên môn sư phạm đòi
hỏi các nhà giáo dục của mình còn phải biết truyền thụ tri thức nghề nghiệp cho
học sinh.
Đối với GVMN, ở góc độ chuyên môn, GVMN là người hiểu rõ về công
việc, giáo dục trẻ mà mình phụ trách ở trường mầm non, yêu trẻ, yêu nghề, có


2
3
kĩ năng lựa chọn những phương pháp giảng dạy, chăm sóc có hiệu quả. Ngoài

ra, GVMN còn biết quan tâm đến những vấn đề mà ngành học của mình đang
cố gắng giải quyết, ở góc độ khoa học giáo dục, GV tốt là người có hiểu biết về
tâm lí học, giáo dục học, hiểu và ý thức được rằng nếu không co những trí thức
khoa học về giáo dục thì sẽ không thể cộng tác được vói học sinh. GV tốt là
người nắm vững những kĩ năng đến mức hoàn thiện trong một lĩnh vực hoạt
động lao động nào đó, là người lão luyện trong công việc của mình. [9] Những
GV như vậy, ngoài hiệu quả đào tạo của nhà trường sư phạm và tự bồi dưỡng,
rèn luyện bản thân, còn phụ thuộc không ít vào vai trò quản lí trường học của
Hiệu trưởng trong việc chú ý tổ chức hoạt động bồi dưỡng chuyên môn của
GV.
1.2.3.

Khái niệm về phong cách và phong cách lãnh đạo

Hoạt động quản lý là hoạt động quan trọng của hoạt động xã hội. Mỗi
cán bộ quản lý trong quá trình tác động đến đối tượng của mình đều có cách
thức hay biện pháp, lề lối ứng xử, xử lý một tình huống nhất điịnh nào đó. Sự
định hướng về mục tiêu, lề lối ứng xử, cách thức ra quyết định được lặp đi lặp
lại nhiều lần trở nên ổn định sẽ tạo nên một kiểu hoạt động hay phong cách
lãnh đạo, quản lý.
Phong cách lãnh đạo là do hai cụm từ phong cách và lãnh đạo tạo nên,
để hiểu hơn, ta tìm hiểu về các khái niệm cụ thể. a. Phong cách là gì?
Trong tiếng anh, phong cách là style và còn có nghĩa là loại, hạng, kiểu,
văn phong, lối nói, phẩm chất tốt, mốt thời trang...
Vào công ty, mọi người làm việc một cách rất trật tự, năng động, chấp
hành tốt quy định từ cấp trên, nhân viên ứng xử hoà thuận với nhau. Đó được
gọi là phong cách làm việc hay còn gọi là phong cách công sở.
Phong cách làm việc của moi nơi hoàn toàn khác nhau, sự khác biệt đó
phân theo vị trí địa lý, phong tục, tập quán, ngành nghề và ngay cả việc cấp



2
4
trên đề ra nhằm mục đích tạo ra sự khác biệt trong phong cách đối với các đối
thủ của mình.
Chỉnh chu trang phục vài phút trước gương trước khi ra khỏi nhà, tới sở
làm, hội họp, gặp bạn bè sẽ tạo cho bạn một sự tự tin vô cùng lớn. Đó cũng
chính là phong cách ăn mặc hay còn gọi là phong cách thời trang.
Trong tiếng Việt khái niệm phong cách được hiểu theo một số nghĩa sau:
-

Những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động và ứng xử
tạo nên cái riêng của mỗi người, một loại người nào đó.

-

Những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật biểu
hiện trong sáng tác của một nghệ sỹ hay trong các sáng tác nói chung
của cùng một thể loại.

-

Dạng nông ngữ trong những hoàn cảnh xã hội điển hình nào đó khác vói
những dạng về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm.
Nói tóm lại, phong cách là tính phổ quát, ổn định về cách thức để thực

hiện một hoạt động nào đó của một cá nhân hay một nhóm người có cùng tính
chất hoạt động. Mỗi cá nhân khi thực hiện bất kỳ một hoạt động nào đều theo
một phong cách nhất định. Mỗi một tình huống khác nhau, con người thường đi
theo một hướng ứng xử nhất định mà bản thân người đó đã định hướng rõ ràng

để thực hiện những mục tiêu và dần trở thành một lối sống cho riêng mình, tạo
ra phong cách riêng. b. Lãnh đạo là gì?
Khái niệm lãnh đạo là thuật ngữ dùng khi đối tượng quản lý là con
người. Chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý là con người thì quá
trình này có thể gọi là quá trình quản lý xã hội hay còn gọi là lãnh đạo.
Lãnh đạo là việc định ra chủ trương, đường lối, mục đích, tính chất,
nguyên tắc hoạt động của một hệ thống và tổ chức động viên thực hiện chúng
trong những điều kiện, môi trường nhất định.
Lãnh đạo là một hệ thống tổ chức gồm các yếu tố: người lãnh đạo,


2
5
người bị lãnh đạo, mục đích, các nguồn lực (ngoài con người) và môi trường
(hoàn cảnh)
Người lãnh đạo (hoặc tập thể lãnh đạo) là chủ thể quản lý, giữ vị trí vạch
ra đường lối, mục đích của hệ thống, khống chế và chi phối hệ thống. Người bị
lãnh đạo là cá nhân, tập thể có nhiệm vụ phục tùng và thực hiện các mục tiêu,
nguyên tắc tổ chức mà người lãnh đạo đề ra.
Mục đích của hệ thống là những mục tiêu dài hạn mang tính định hướng
lâu dài mà hệ thống phải phấn đấu đạt tới trong tương lai xa.
Lãnh đạo là một quá trình nó diễn biến tùy thuộc vào mối quan hệ và
cách xử lý các yếu tố: người lãnh đạo, người bị lãnh đạo, mục đích, môi
trường, các nguồn lực. Đó là quá trình người lãnh đạo thông qua quyền lực và
ảnh hưởng của mình để tạo ra bộ máy và tiến hành các hoạt động quản lý.
Lãnh đạo gắn liền với sự phục tùng của người dưới quyền một cách tự
nguyện.
Vậy, hoạt động lãnh đạo là một hoạt động quan trọng trong xã hội. Mỗi
người lãnh đạo đều có một cách thức làm việc riêng tạo nên một phong cách
lãnh đạo.

c. Phong cách lãnh đạo
Phong cách lãnh đạo là một nhân tố quan trọng trong việc thành bại của
người lãnh đạo, quản lý. Trong tập thể lao động, phản ứng đầu tiên của mọi
người đối với việc quản lý là phản ứng phong cách người lãnh đạo. Phương
pháp, cách thức làm việc của người lãnh đạo có thể làm cho mọi người tham
gia hoạt động chung, bỏi vì họ xác định được mục đích chung. Phương pháp,
cách thức làm việc đó làm cho mọi người đoàn kết, khuyến khích họ nâng cao
bồi dưỡng chuyên môn. Chính vì phong cách lãnh đạo có ý nghĩa quan trọng
như vậy, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về nó để tìm ra đặc trưng, biểu
hiện, cũng như lựa chọn một phong cách lãnh đạo thích hợp cho mình.


×