PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu
vốn đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết
bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã
trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ
hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại
hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh
tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh còn có các ngân
hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,… Các nghiệp vụ cũng đổi mới và
từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín
dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách
hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, sự hội nhập vào
kinh tế quốc tế. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành
nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân
hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,
tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô đang trong thời kỳ chưa ổn
định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của
các NHTM đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà
biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi còn lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa
học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, để từ đó đề ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến
lược lâu dài và được nhiều người quan tâm tới. Nói như vậy bởi lẽ, trong điều kiện
hiện nay hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ các
hoạt động của NHTM. Hoạt động đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong tổng tài sản của
1
các NHTM và là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính của mỗi NHTM dưới hình
thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có
thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng thanh toán hay phá sản ngân hàng. Chính
vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề "sống, còn" trong hoạt động kinh
doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan tâm trong suốt quá trình tồn
tại và phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến
thức đã học tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết
định chọn đề tài "Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Lê Chân" để làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn thạc sĩ của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu chung
Chất lượng tín dụng có quan hệ mật thiết đến rủi ro trong hoạt động tín dụng,
nó ảnh hưởng quyết định tới tài sản có của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng
cũng là góp phần quan trọng làm giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
Do đó, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh
Lê Chân và tìm các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng và phòng ngừa rủi ro phát sinh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá và bổ sung lý luận về chất lượng tín dụng của NHTM.
- Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam – Chi nhánh Lê Chân
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi
nhánh Lê Chân đến năm 2016.
2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Lê Chân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chất lượng tín dụng là một khái niệm rất rộng được nhìn nhận từ nhiều góc
độ khác nhau, từ phía ngân hàng thương mại, từ phía khách hàng và từ phía Nhà
nước. Trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung xem xét từ hai góc độ chính đó là: thực
trạng chất lượng dư nợ tín dụng của ngân hàng và sự đánh giá của khách hàng về
chất lượng sản phẩm tín dụng do ngân hàng cung cấp.
Đề tài chọn địa điểm nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Lê Chân.
Về mặt thời gian đề tài sẽ phân tích đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động
tín dụng tại Chi nhánh trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2015 và đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng giai đoạn 2016.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm các phương pháp như:
duy vật biện chứng, các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, đi từ cơ sở lý
thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết, làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo kết cấu
luận văn có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam - Chi nhánh Lê Chân.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam - Chi nhánh Lê Chân.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNGTÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM ra đời cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Với chức năng là
nhà trung gian tài chính, làm cầu nối giữa người gửi tiền và người vay tiềnnên hệ
thống ngân hàng đã trở thành một ngành kinh tế huyết mạch, là động lực thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
Đứng trên nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta có các định nghĩa
khác nhau về NHTM.
Xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, Giáo
sư Peter S.Rose định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế” [02].
Xét trên các hoạt động chủ yếu của NHTM, theo luật các tổ chức tín dụng
năm 2010 quy định: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác xã.” [01].
Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể thấy ngân hàng thương mại là doanh
nghiệp hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với các nghiệp vụ chủyếu là huy
động vốn và cho vay. Ngoài ra NHTM còn thực hiện chức năng thanh toán và cung
cấp nhiều dịch vụ khác.
Ngày nay, trên thị trường tài chính, tiền tệ các loại hình tổ chức tham gia
hoạt động đan xen một cách đa dạng và phong phú, một số loại hình tổ chức tín
4
dụng khác(tổ chức tín dụng phi ngân hàng) cũng thực hiện một số nghiệp vụ của
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các tổ chức này không nhận tiền gửi không kỳ
hạn và không làm dịch vụ thanh toán. Đó chính là tiêu chí để phân biệt NHTM với
các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu, quan trọng
nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện
các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng. Ngân hàng thường huy động vốn từ:
- Nguồn vốn tự có: Đây là nguồn hình thành ban đầu từ mỗi ngân hàng, tuỳ
theo loại hình ngân hàng mà nguồn hình thành khác nhau. Trong quá trình hoạt
động, ngân hàng sẽ gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào
điều kiện cụ thể như: nguồn từ lợi nhuận không chia, nguồn bổ sung từ phát hành cổ
phiếu...
- Nguồn vốn từ huy động tiền gửi: “Nguồn vốn quan trọng nhất của một
ngân hàng- tài sản nợ của nó là từ tiền gửi của khách hàng” [03]. Khi một ngân
hàng bắt đầu hoạt động thì nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ
và thanh toán cho khách hàng, cũng nhờ đó ngân hàng huy động tiền của các doanh
nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản
tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và
giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng trả lãi tiền gửi như là phần thưởng
cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh tiêu dùng trước mắt để cho ngân hàng sử
dụng tạm thờinguồn vốn để kinh doanh.
1.1.2.2. Hoạt dộng tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
5
tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các
hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn
dưới các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống.
- Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân
hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo
lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một ngân
hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương
mại.
Chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài
chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức
và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua
ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và
ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân
hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng
Nhà nước nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi
dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được
6
mở tài khỏan tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ
sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng thương
mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh tóan liên
ngân hàng trong nước
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.1.2.4.Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung
cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện
một số hoạt động khác bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần – Ngân hàng thương mại được dung vốn điều lệ
và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín
dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại
còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành
lập ngân hàng liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ - Ngân hàng thương mại được tham gia thị
trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức
mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
7
Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được pháp kinh doanh hoặc
thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong
nước và thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác – Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy
thác làm đại lý trong các lính vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc
quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng
ủy thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm – Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch
vụ bảo hiểm, đươch thanh lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo
hiểm theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính – Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư
vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập
công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
Bảo quản vật quý giá – Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ
bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên
quan theo quy định của pháp luật.
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại rất lâu đời trong xã hội loài người. Tín
dụng theo gốc Latinh“Creditum”, là sự tin tưởng, tín nhiệm, tên gọi này xuấtphát từ
bản chất quan hệ tín dụng. Trong quan hệ tín dụng người cho vay sẽ cho người cần
vốn vay theo các điều kiện được thỏa thuận trước như thời gian hoàn trả, lãi suất tín
dụng… Trong quan hệ đó, người cho vay tin tưởng người cho vay sẽ sử dụng vốn
đúng mục đích, đúng thỏa thuận, làm ăn có lãi và có khả năng trả đủ cả gốc và lãi
đúng thời hạn. Một cách đơn giản có thể hiểu Tín dụng là quan hệ vay mượn trên
nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay.
Quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là các tổ chức, cá
nhân trong xã hội gọi là tín dụng ngân hàng, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là
8
người đi vay vừa là người cho vay. Với vai trò là người đi vay, ngân hàng sẽ thực
hiện tìm kiếm, thu hút vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trên phạm vi toàn xã
hội, là người đi vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức cá nhân khi có
nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dung. Ngân hàng đã thực hiện phân phối lại vốn tiền tệ từ nơi tạm thời thừa vốn đến
nơi tạm thời thiếu vốn.
Theo Luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 06/06/2010, cấp tín dụng là
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng, các nghiệp vụ tín
dụng khác. [01]
Như vậy, tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng,đó
là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các
TCTD với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có
lãi.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng và
đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Trên cơ sở các căn cứ phân loại
khác nhau ta có các hình thức tín dụng khác nhau.
1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho ngân
hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng thường
luôn dự tính được những biến động đó. Tín dụng ngắn hạn bao gồm chiết khấu, thấu
chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
9
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín
dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm được sử dụng
để cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các nhà máy mới, các
công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay…).Loại tín
dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lường trước được những biến độngcó
thể xảy ra.
1.2.2.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành hai loại:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cấp tín dụng phục vụ
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh, nó được áp
dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm nhà cửa,
các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường
của đời sống. Với hình thức cấp tín dụng này ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả
nợ và thu nhập của khách hàng mà ít quan tâm đến việc sử dụng khoản tín dụng có
hiệu quả hay không do đó loại tín dụng này có mức độ rủi ro cao hơn.
1.2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Căn cứ theo tiêu thức này tín dụng được chia thành hai loại:
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền
vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
- Cho vay không có bảo đảm(tín chấp):là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
1.2.2.4. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia tín dụng thành 4 loại:
10
- Chiết khấu thương phiếu.Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá
trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người
bán(người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người
mua(người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân
hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân
hàng thường ký với khách hàng hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu khách hàng
chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất
lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả
tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của chiết khấu thương phiếu tương đối cao(trừ
trường hợp ngân hàng thực hiện chiết khấu miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn
nữa, NHTM có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp.
- Cho vay: là loại hình thông dụng nhất trong hoạt động tín dụng, nó có
nghĩa là ngân hàng cho khách hàng vay tiền để phục vụ cho những mục đích khác
nhau của khách hàng.Cho vay có các loại sau:
+ Thấu chi:“là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng theo đó ngân hàng
cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để
thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời
sống” [04].
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín
dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc
biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn
nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
11
+ Cho vay theo hạn mức:là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ,đó là số dư tín dụng tối đa mà ngân hàng cấp cho khách hàng.
+ Cho vay luân chuyển:là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng chodoanh nghiệp vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp thu tiền bán hàng.
+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả làm nhiều lần gốc và lãi trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho tài sản
cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán phù hợp với khả năng
trả nợ.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Phần lớn các ngân hàng áp dụng hình thức cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân
hàng cũng phát triển thêm hình thức này.
-Cho thuê tài sản (thuê- mua):Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để
khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ
(hoặc chưa đủ điều kiện) để vay vốn. Để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các tài
sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc
sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác
thuê khi người thuê không trả được nợ, điều này sẽ giảm bớt thiệt hại cho ngân
hàng.
- Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.Bảo lãnh có 3 bên: bên nhận bảo lãnh,
bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng
là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là bên được bảo lãnh và người nhận bảo
lãnh là bên thứ ba.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
12
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.Hoạt động
tín dụng có chất lượng sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra
sự ổn định trong lưu thông tiền tệ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò
của tín dụng ngân hàng cũng ngày một tăng lên,thể hiện:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động SXKD dựa trên nguồn vốn tự có và
vốn tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác. Trong đóvốn tín dụng
ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả, bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về số
lượngvà thời hạn, đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thường thấp
hơn chi phí sử dụngcác nguồn vốn khác.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người
thừa vốn và người thiếu vốn. Vì ngân hàng luôn thu hút tập trung mọi nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản
xuất,tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong
quá trình hoạt động đó, ngân hàng thu được lợi tức từ hoạt động cho vay để duy trì
phát triển hoạt động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường hiện
nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn hay không là vấn đề được đặt lên hàng
đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó, mỗi ngân hàng cần phải có
nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa
nguồn vốn với chi phí thấp nhất để cho vay. Có thể nói, tíndụng ngân hàng góp
phần quan trọng vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất, mở rộng hoạt
động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền. Do đó, để tăng
nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều
13
biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới...Tất cả những công việc
trên đòi hỏi phải có nhiều vốn mà tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho
các nhu cầu đó một cách đầy đủ và kịp thời nhất. Mặt khác, vốn ngân hàng cung
ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với đều kiện phải hoàn trả cả gốc và
lãi theo thời hạn quy định. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều
biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ gốc và
lãi đúng hạn. Chính quá trình này đã góp phần tạo cho nền kinh tế hàng hoá ngày
càng phát triển.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan
hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một
nước phải luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong đó, đầu tư
vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác
thông dụng và phổ biến giữa các nước.Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc
thực hiện quá trình này. Nhýng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một
nhà kinh doanh nào cũng đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là “nhà tài trợ” đắc lực về
vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng
tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào kênh lưu thông qua kênh tín
dụng. Bởi vì, ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền
thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán.Khi ngân hàng mở rộng hoặcthắt chặt
tín dụng sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông. Do đó, khi Nhà nước muốn
tăng khối lượng tiền trong lưu thông thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của
các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu, tín dụng ngân hàng góp phần thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng
đầu tư của nền kinh tế.Qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc
cấp vốn cho các doanh nghiệp đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế, tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh.
14
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được
hết vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng, các cơ quan chức năng phải tạo ra
một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả
người vay và người đi vay trong nền kinh tế.
1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng
Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được hiểu là toàn bộ tính năng của sản
phẩm, dịch vụ phù hợp với điều kiện quy định nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu xã
hội. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của các doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh,
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải nâng cao chất lượng
sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Chất lượng tín dụng được hiểu một cách khái quát nhất đó là sự đáp ứng nhu
cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín dụng cung cấp sản
phẩm tín dụng đó.
Theo từ điển Weekipedia thì: “Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh
mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh
về chất lượng tín dụng, có rất nhiều chỉ tiêunhưng nói chung người ta thường quan
tâm đến: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo”.
Trong thực tế, xuất phát từ bản chất của tín dụng là mối quan hệ giữa người
vay và người cho vay, liên quan đến nhiều chủ thể kinh tế và có vai trò cực kỳ to
lớn trong nền kinh tế nên chất lượng tín dụng được đề cập dưới nhiều góc độ khác
nhau:
- Đối với nền kinh tế: Tín dụng có chất lượng nghĩa là phải huy động được
tối đa lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và thực hiện cho vay đầu tư phát triển nền
15
kinh tế theo định hướng của Nhà nước một cách có hiệu quả nhất. Tức là việc đầu
tư tín dụng sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm dịch vụ
có chất lượng cao, giá thành hạ. Đồng thời, thông qua đó sẽ góp phần thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: hợp lý hoá cơ cấu nền kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện cuộc sống người dân, củng cố quan
hệ kinh tế đối ngoại quốc gia, đặc biệt là góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
- Đối với khách hàng vay vốn: Chất lượng tín dụng chính là chất lượng sản
phẩm tín dụng do ngân hàng cung cấp. Chất lượng tín dụng cao đồng nghĩa với với
việc vốn vay được cung ứng đủ về số lượng, đúng thời hạn và lãi suất hợp lý với
thời gian xét duyệt nhanh chóng, thái độ tận tình, chu đáo. Từ đó, tạo điều kiện cho
khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ
vay ngân hàng, giúp khách hàng và ngân hàng phát triển hoạt động kinh doanh của
mình.
- Đối với ngân hàng:Nguyên tắc cơ bản nhất đối với hoạt động tín dụng
ngân hàng đó là vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn. Nên nói đến
chất lượng tín dụnglà nói đến khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng
mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng
thời hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp,tăng khả năng
cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục
vụ tăng trưởng và phát triển.
Như vậy, chất lượng tín dụng là mức độ thoả mãn nhu cầu và hiệu quả của
nền kinh tế, của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng.
1.3.2. Đặc điểm của chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền
và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại,
phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và bảo đảm từ hai
phía là ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy chất lượng tín dụng ngân hàng không
16
những phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh của khách hàng.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu
có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…), vừa trừu tượng (thể
hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…). Chất lượng tín
dụng vừa chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ,
đạo đức của cán bộ ngân hàng và khách hàng…) và khách quan (sự thay đổi của
môi trường kinh tế xã hội như khuynh hướng phát triển kinh tế, môi trường pháp
lý…).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng, các cơ quan quản lý, các nhà
quản lý ngân hàng khi đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng đã sử dụng rất nhiều
các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung, khi đánh giá chất lượng tín dụng người ta
thường dùng các chỉ tiêu định tính và định lượng.
1.3.3.1.Chỉ tiêu định tính
Là những chỉ tiêu mang tính tương đối, rất khó xác định thường đượcdùng để
đánh giá chất lượng tín dụng một cách khái quát. Các chỉ tiêu định tính thường bao
gồm:
Thứ nhất, đó là việc đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc cho vay nhằm
hạn chế đến mức tối đa rủi ro cho ngân hàng và thực hiện tốt các chính sách của Nhà
nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai, đó là uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, sự hài lòng của khách
hàng đối với các sản phẩm tín dụng mà ngân hàng cung cấp về quy mô, lãi suất, phí,
thời gian phục vụ…
17
Thứ ba, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, khả năng
ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong quá trình cung cấp tín dụng nhằm rút
ngắn thờigian phục vụ nhưng vẫn đảm bảo thu thập, lưu trữ đầy đủ thông tin để giúp
ngân hàng có thể khai thác, phát hiện và ngăn ngừa rủi ro.
Thứ tư, là việc phối hợp tốt với các cơ quan chức năng như: công chứng, trung
tâm giao dịch đảm bảo, các tổ chức, đoàn thể để làm tốt công tác cho vay.
Các chỉ tiêu định tính rất khó xác định và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của
cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ của họ với khách hàngvì
vậy trên thực tế khi nói đến chất lượng tín dụng thường người tachú ý nhiều đến các
chỉ tiêu mang tính định lượng.
1.3.3.2. Chỉ tiêu định lượng
- Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh
tế, là chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một khoảng
thời gian. Do đó, nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên tiếp thì có thể
thấy được xu hướng hoạt động tín dụng của NHTM.
- Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cũng tương tự như chỉ tiêu doanh số cho vay, tuy nhiên nó là chỉ
tiêu phản ánh khối lượng tiền cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất định. Tổng
dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng được mạng lưới khách
hàng, hoạt động tín dụng yếu kém, khả năng tiếp thị khách hàng chưa tốt. Tuy nhiên
không phải chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt bởi lẽ khi ngân
hàng cho vay vượt quá mức giới hạn cũng là lúc ngân hàng bắt đầu chấp nhận
những rủi ro về tín dụng. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng đồng thời
cũng phản ánh uy tín của ngân hàng. Khi so sánh tổng dư nợ của ngân hàng với thị
phần tín dụng của ngân hàng sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao
hay thấp.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
18
Tỷ lệ nợ quá hạn= Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của
NHTM ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quí, cuối năm. Đây
là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM. Tỷ lệ nợ
quá hạn thấp biểu hiện chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng có độ an toàn
cao tức là mức độ rủi ro thấp. Tuy vậy, trên thực tế để đánh giá chính xác hơn chất
lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng thì người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn
thành hai loại: tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá hạn không có
khả năng thu hồi.Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó bao nhiêu
phần trăm là nợ có khả năng thu hồi và bao nhiêu phần trăm là nợ không có khả
năng thu hồi, khi đó ta mới có thể đánh giá chính xác được chất lượng tín dụng
của ngân hàng.
- Nợ xấu và tỷ lệ nợxấu trên tổng dư nợ.
Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Thông
tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Namthì: “Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là hệ thống gồm các bộ chỉ tiêu tài
chính và phi tài chính, các quy trình đánh giá khách hàng trên cơ sở định tính và
định lượng về mặt tài chính, tình hình kinh doanh, quản trị, uy tín của khách hàng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được xây dựng cho từng đối tượng khách
hàng khác nhau, kể cả các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng và những người có liên
quan của đối tượng này; Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được Xây dựng
trên cơ sở số liệu, thông tin của tất cả khách hàng đã thu thập được trong thời gian ít
nhất 01 (một) năm liền kề trước năm xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ.”[07].
Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 cũng quy định về việc phân loại
nợ đối với các tổ chức tín dụng thực hiện theo điều 10(các tổ chức tín dụng đã có
hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ) như sau:
19
+ Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả năng trả nợ.
+ Nhóm 3(Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản
nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và
lãi.
+ Nhóm 4(Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng tổn thất cao.
+ Nhóm 5(Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó các khoản nợ từ nhóm 3 trở lên được xem là các khoản nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ
- Thu nhập từ hoạt động cho vay
Hoạt động tín dụng tuy chứa nhiều rủi ro nhưng là hoạt động mang lại thu nhập
chính cho ngân hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng.Thu nhập từ hoạt
động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động
tín dụng mang lại. Chính vì vậy, ngoài việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu ngân
hàng còn phải tăng được thu nhập từ hoạt động cho vay.
- Hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy động. Nó
xem xét, đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn của
bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh tế hay chưa.
Hiệu suất sử dụng vốn = tổng dư nợ/ tổng vốn huy động.
20
Tỷ lệ này trên thực tế giao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào khoảng trên
80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên mức đó, thậm chí xấp xỉ 100% có thể sẽ gây ảnh
hưởng không tốt tới ngân hàng. Lúc đó tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa
do khối lượng dự trữ không được đảm bảo.
1.3.4. Các nhân tốảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng
Có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng
chung quy lại có thể phân thành 3 nhóm nhân tố chủ yếu là: các nhân tố về môi
trường hoạt động, các nhân tố từ phía khách hàng vay vốn và các nhân tố từ ngân
hàng.
1.3.4.1. Các nhân tố về môi trường hoạt động
- Môi trường kinh tế
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế,
từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động của ngân
hàng.Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp, không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả, doanh nghiệp sẽ hoàn trả được vốn vay
ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong thời kỳ suy
thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm phát
cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng không được đầu tư hiệu quả,ảnh hưởng
đến khả năngtrả nợcủa khách hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về quy
mô và chất lượng.
Sự phù hợp giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với mức lợi nhuận của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh
hưởng lớn đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Với mức lãi suất cao, chi phí trả lãi lớn
sẽlà yếu tố làm cho giá thành sản phẩm dịch vụ tăng cao(nhất là đối với các doanh
nghiệp sử dụng nhiều vốn vay ngân hàng), trong khi đó giá bán thì lại phụ thuộc vào
cung cầu trên thị trường nên rất khó tăng theo, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn
trong hoạt động kinh doanh nên sẽ khó khăn trong việc trả nợ vay ngân hàng do đó
21
mà chất lượng tín dụng cũng giảm sút.
- Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai
trò quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách trôi chảy. Với vai trò
đảm bảo cho việc chuyển từ một nền kinh tế thị trường tự phát, kém tổ chức sang
một nền kinh tế thị trường văn minh, pháp luật chính là hàng rào pháp lý tạo ra một
môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể kinh tế. Vì vậy pháp luật có ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng nói
chung và chất lượng tín dụng nói riêng.Một hệ thống pháp luật đồng bộ cộng với ý
thức tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia trong
quan hệ tín dụng chính là cơ sở đảm bảo cho chất lượng tín dụng được nâng cao.
Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu,
chính sách khuyến khích, hạn chế đầu tư đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, của ngân hàng và từ đó tác động đến chất lượng tín
dụng.
1.3.4.2. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay ngân hàng để phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu đời sống của mình do vậy mà chất
lượng tín dụng ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ phía khách hàng.Một khách
hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập ổn định
sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của ngân hàng khi đến hạn, qua
đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượngtín dụng. Các khách hàng lớn của ngân
hàng thông thường là các doanh nghiệp. Những nhân tố thuộc về phía khách hàng
tác động đến chất lượng tín dụng bao gồm:
- Vốn và khả năng tài chính của khách hàng
Vốn và khả năng tài chính của khách hàng là cơ sở nền tảng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn
22
lớn, có sự tự chủ, ít phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng sẽ có khả năng trả nợ ngân hàng
cao hơn doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng.
-Trình độ khả năngcủa đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của các doanh nghiệp là khách
hàng vay vốn
Đây là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị
trường để doanh nghiệp đứng vững được đòi hỏi phải giải quyết tốt 3 vấn đề: sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Trong điều kiện trình độ sản
xuất phát triển nhu cầu tiêu dùng thường xuyên thay đổi, môi trường cạnh tranh gay
gắt với những nguồn lực hạn chế thì quyết định trong kinh doanh càng khó, nó đòi
hỏi tập thể người lao động mà đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phải có kiến thức, kinh
nghiệm và trình độ để có thể đưa ra được quyết định đúng đắn, đảm bảo hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Trên cơ sở nhận định một cách khách quan, chính xác khả năng phát triển
sản xuất của doanh nghiệp, thị hiếu của người tiêu dùng với sản phẩm của doanh
nghiệp mình cùng với những yếu tố thuận lợi, khó khăn của môi trường, doanh
nghiệp sẽ quyết định kế hoạch chiến lược mở rộng, thu hẹp hay ổn định sản xuất, từ
đó xây dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng
các kế hoạch kinh doanh đúng đắn quyết định đến sự thành công hay thất bại của
một doanh nghiệp.
- Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp và hoạt động marketing
Doanh nghiệp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khoa học sẽ nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Sản phẩm sẽ được nhiều người biết đến và đến tay người tiêu dùng một cách dễ
dàng là cơ sở nền tảngđể doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch đã đề ra giúp sản phẩm
của doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường. Khi đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện
23
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng vòng quay
và hiệu quả sử dụng vốn.
- Tư cách, đạo đức của người vay
Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn hoàn trả khoản nợ vay. Trong
nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt vốn, không hoàn trả nợ vay mặc
dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng.
1.3.4.3. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự
phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng gồm:
chiến lược phát triển, chính sách tín dụng, mô hình tổ chức quản lý, năng lực, đạo
đức cán bộ, quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm tra, kiểm soát và trang thiết bị.
- Chiến lược phát triển của ngân hàng
Chiến lược phát triển của ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Một chiến lược phát triển đúng
đắn, phù hợp sẽ đảm bảo cho ngân hàng phát triển một cách bền vững. Ngược lại
một chiến lược không phù hợp sẽ làm chậm tiến độ phát triển hoặc có thể dẫn đến
khó khăn như kinh doanh thua lỗ, phá sản…
- Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống các biện pháp liên quan
đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, định hướng tín dụng theo ngành nghề…Chính
sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Một chính
sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời
của hoạt động tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều
phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của mình và xu hướng của thị
trường.
- Mô hình tổ chức quản lý của ngân hàng
Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng,
24
giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan liên
quankhác,tạo điều kiện cho ngân hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng
đồng thời giúp ngân hàng theo dõi, quản lý tốt các khoản vốn huy động cũng như
các khoản cho vay từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan
hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt thì yêu cầu trình độ của
người lao động ngày càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ
giỏi, có đạo đức, có năng lực trong việc quản lý đơn xin vay, thẩm định, đánh giá tài
sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi
nợ vay của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng ngăn ngừa được những rủi ro khi thực hiện
cấp tín dụng.
- Quy trình tín dụng
Đây là trình tựnhững giai đoạn, những bước công việc cần phải thực hiện
theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ.Bắt đầu từ việc xét đơn xin
vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng
tín dụng tuỳ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học và
việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng giữa các bước. Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính:
+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay:Trong giai đoạn này
chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng, thẩm định dự
án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và việc chấp hành các quy định về điều kiện,
thủ tục cho vay của ngân hàng.
+ Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay: Việc thiết lập hệ thống kiểm
tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ giúp ngân
hàng giám sát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng từ đó hạn chế các
khoản vay không sử dụng đúng mục đích - là những khoản vay tiềm ẩn nhiều rủi ro.
25