Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.56 KB, 61 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
2.2.3.3. Quan hệ giữa nguồn vốn và sử dụng vốn 37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
NHTM Ngân hàng thương mại
TMCP Thương mại cổ phần
TCKT Tổ chức kinh tế
TCTD Tổ chức tín dụng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
VCB Vietcombank
TG Tiền gửi
TD Tín dụng
DN Doanh nghiệp
CLCV Chất lượng cho vay
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ , BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện
không thể thiếu được đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong
qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong


nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến
lược cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Nếu xét ở góc độ của Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ
chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động ngân hàng nói
chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo
uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Vì vậy hoạt động cung cấp vốn cho nền kinh tế là vô cùng quan trọng, mà
hoạt động đó chủ yếu diễn ra tại ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tín
dụng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng,qua quá trình tìm hiểu
và nghiên cứu, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tại
ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thành Công ”, làm đề tài
cho chuyên đề của mình.
Bài viết của em được chia thành 3 phần chính:
Chương1 : Lý luận chung về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM
Chương2 : Thực trạng chất lượng tín dụng tại VCB- Thành Công.
Chương3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của
VCB- Thành Công.

Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I
Lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
của ngân hàng thương mại
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cơ bản:
1.1.1. Khái quát về ngân hàng và ngân hàng thương mại :
NHTM là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
NHTM là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia
đình) và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa phương (thành phố, tỉnh) . Hơn
nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau quả cho tới

người kinh doanh ô tô, NHTM là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho
việc mua hàng hóa dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày. Khi kinh doanh và người tiêu
dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa dịch vụ, họ thường sử dụng séc,
thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay cần lập kế
hoạch tài chính, họ thường tìm NHTM để nhận được lời tư vấn.
Trên toàn thế giới, ngân hàng là loại tổ chức trung gian tài chính cung cấp
các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong mọi
thời kỳ, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín
phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công
trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân bay và đường cao
tốc. NHTM cũng là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan
trọng nhất cho các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, NHTM đã tăng cường
mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp với vốn vay dài hạn để hỗ trợ xây dựng
nhà máy mới hay mua sắm máy móc thiết bị mới. Tài sản do các ngân hàng Mỹ
nắm giữ chiếm khoảng 1/3 tổng tài sản của tất cả các tổ chức tài chính đóng trụ sở
tại Mỹ. Còn ở Nhật Bản các NHTM là một kênh quan trọng trong chính sách vĩ mô
của chính phủ.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội Nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác.”. Trong đó “ tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ,
làm dịch vụ ngân hàng với nội dụng chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gứi để
cấp tín dụng cung ứng các dịch vụ thanh toán.”


Hình 1. Những chức năng cơ bản của NHTM đa năng ngày nay
1.1.2. Hoạt động ( dịch vụ ) cơ bản của NHTM
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
NHTM hiện đại
CN ủy
thác
CN bảo
hiểm
CN môi
giới
CN NH
đtư&bl
CN quản lý tiền mặt CN tiết
kiệm
CN thanh
toán
CN lập kế
hoạch đtư
CN tín
dụng
3
Chuyên đề tốt nghiệp
NHTM là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp
các dịch vụ quản lý quỹ cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò
khác trong nền kinh tế. Thành công của NHTM phụ thuộc vào năng lực trong việc
xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một
cách có hiệu quả và bán chúng lại tại một mức giá cạnh tranh.
a. Các dịch vụ truyền thống của NHTM
Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ

ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra
mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD để lấy một loại tiền khác như FRANC
và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ
cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia mà
họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các
ngân hàng lớn thực hiện vì những giao dịch như vậy thường có rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có nghiệp vụ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các
ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân
địa phương, những người bán các khoản nợ ( khoản phải thu ) của khách hàng cho
ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang
cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc
xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các NHTM
đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn
quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinh lợi được
gửi tại NHTM trong thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được
hưởng mức lãi suất tương đối cao.
Bảo quản vật có giá: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực
hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá cho khách hàng trong kho bảo quản. Một
điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng có thể
được lưu hành như tiền, đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay,
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp vụ bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng bảo quản của
NHTM thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Trong thời kỳ Trung cổ và những năm
đầu của thời kỳ cách mạng công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối
lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu-Mỹ.

Thông thường, ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện họ phải mua
trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng
huy động được.
Cung cấp các tài khoản giao dịch: Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu  và
Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ
mới, quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao
dịch ( demand deposit ) một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc
thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi
mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp
ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho
các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các NHTM đã thực hiện quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại.
Theo đó, NHTM sẽ thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô vốn họ quản lý.
Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust services). Hầu hết
các NHTM đều cung cấp hai loại : dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ
gia đình và ủy thác thương mại cho doanh nghiệp.
Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền. NHTM sẽ quản lý số tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Trong phòng
Ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch
tiền lương cho các công ty kinh doanh. NHTM đóng vai trò như những người đại lý
cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi
phòng ủy thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi chứng khoán
khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
b. Dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản vay cho tiêu

dùng nói chung có quy mô rất nhỏ và có rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm
cho chúng có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các NHTM bắt đầu dựa nhiều hơn
vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi,
sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng buộc họ phải hướng tới cho vay đối với
người tiêu dùng và coi họ như những khách hàng đầy tiềm năng.
Tư vấn tài chính: Các NHTM từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện
hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. NHTM ngày nay cung
cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong và ngoài nước cho
các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các NHTM đã phát hiện ra rằng một số
dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có lợi ích đối với khách hàng. Một trong
những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó NHTM đồng ý quản
lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền
mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách
hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các NHTM có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý
tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc cung ứng
các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là
do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho
người tiêu dùng tài khoản môi giới hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
Dịch vụ thuê mua thiết bị: Rất nhiều NHTM tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê
mua, trong đó NHTM mua các thiết bị đó và cho khách hàng thuê. Ban đầu các quy
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê, đồng
thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế.
Cho vay tài trợ dự án: Các NHTM ngày càng trở nên năng động trong việc

tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do
rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường xuyên được
thực hiện thông qua một công ty đầu tư, là thành viên của công ty sở hữu NHTM,
cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những công ty đầu
tư nổi bật là Bankers trust venture capital và Citicorp venture, Inc.
Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc trả lương trong trường hợp
khách hàng vay vốn bị chết hay tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm các
NHTM trực tiếp bán bảo hiểm, nhiều NHTM hy vọng có thể đưa ra các hợp đồng
bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ô tô hay
nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, NHTM thường bảo hiểm cho khách hàng thông
qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một
công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và
ngân hàng sẽ nhận được một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác của NHTM rất năng động
trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao
động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.
NHTM cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền
gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài chính
hiện nay nhiều NHTM đang phấn đấu trở thành" bách khoa tài chính thực sự”, cung
cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép hàng hóa thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa
điểm. Đây là một trong những lý do chính kiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch
vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu
và các chứng khoán khác mà không cần đến người kinh doanh chứng khoán. Trong
một vài trường hợp, các NHTM mua lại một công ty môi giới đang hoạt động ( vd:
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Bank of America mua Robertso Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với

một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp: Do NHTM cung cấp các tài khoản
tiền gửi truyền thống với lãi suất không được hấp dẫn, nhiều khách hàng đã hướng
tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài
khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng
thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi nhưng cũng kèm theo nhiều rủi ro hơn. Hợp
đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản
tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai
( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu
tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ ( ví dụ như tối đa hóa thu nhập hay đạt
được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp
diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở
rộng của NHTM sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong
quỹ tương trợ của các NHTM Mỹ đạt được mức tăng trưởng rất ngoạn mục theo đó
nguồn vốn ngân hàng quản lý chiếm tới 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ
trong những năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để
thực hiện nhiệm vụ này hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh môi giới chứng
khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của NHTM đã có
nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, và do những quy định
cũng nghiêm ngặt hơn. Ngoài ra còn do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của
công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: NHTM ngày
nay theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng
đầu tư và dịch vụ buôn bán cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác
định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách
hàng (ví dụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing
chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các NHTM cũng dấn
sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A

8
Chuyên đề tốt nghiệp
để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do
hay từ các tổ chức cho vay khác.
Sự thuận tiện tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng: Rõ rang là không phải
tất cả các NHTM đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như đã miêu tả, nhưng theo
thời gian nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng tăng lên nhanh chóng, nhiều loại hình
tín dụng và tài khoản tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ mới như
giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng và các dịch vụ
mới được tung ra hàng năm. Nhìn chung, danh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do
ngân hàng cung cấp tạo ra một sự thuận tiện lớn cho khách hàng. Khách hàng có thể
thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng và
tại một thời điểm. Thực sự NHTM đã trở thành bách khoa tài chính ở kỷ nguyên
hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng
khoán…dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta gọi là Universal Banking
ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp.
1.2. Hoạt động tín dụng
1.2.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để dùng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Khi cấp tín
dụng ngân hàng luôn phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Vậy những
nguyên tắc đó là gì?
Trên cơ sở của bản chất tín dụng, các nguyên tắc tín dụng đã được hình
thành, được khẳng định trong thực tiễn hoạt động của các ngân hàng và được pháp
lý hoá. Có ba nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Tiền vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Để quán triệt nguyên tắc này, khi cho vay ngân hàng có quyền yêu cầu buộc bên
vay phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết và thường xuyên giám sát hoạt
động của bên vay về phương diện này. Việc thoả thuận và sự cụ thể hoá của nguyên

Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
tắc này được coi là một trong những điều kiện cho vay được sử dụng làm cơ sở để
ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng và giám sát hoạt động của các khách hàng vay
vốn trong qúa trình hoạt động có sử dụng vốn vay của ngân hàng.
Nguyên tắc thứ hai: Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng
hạn. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tín dụng là giao dịch cung cầu về
vốn. Trong khoảng thời gian cam kết giao dịch, ngân hàng và bên vay thoả thuận
rằng ngân hàng sẽ chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định cho bên
vay, khi kết thúc kỳ hạn vay, bên vay phải hoàn trả quyền này cho ngân hàng ( trả
nợ gốc ) với một khoản chi phí nhất định cho việc sử dụng vốn ( trả lãi). Tuân thủ
nguyên tắc này là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội được ổn định, các
mối quan hệ của ngân hàng được phát triển theo xu thế an toàn và năng động.
Nguyên tắc này ràng buộc ngân hàng không thể cho vay đối với các khách hàng làm
ăn yếu kém, không trả được nợ gây khó khăn cho ngân hàng.
Nguyên tắc thứ ba: Việc đảm bảo tiền vay được thực hiện theo quy định của
Chính Phủ và của Thống đốc Ngân hàng Trung ương. Nguyên tắc này bắt nguồn từ
bản chất tín dụng là biểu hiện sự giao dịch mức tín nhiệm của các bên, trước hết và
quan trọng nhất là tín nhiệm của bên vay. Trên cơ sở đó, các giải pháp về an toàn
tín dụng được thực hiện để phòng ngừa và khắc phục những rủi ro có thể phát sinh.
Nguyên tắc này thể hiện mối quan tâm của toàn bộ nền kinh tế đối với sự an toàn
của hoạt động tín dụng, đồng thời thể hiện sự quán triệt và cụ thể hoá bằng các
nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng. Mục tiêu của nguyên tắc này
là tạo lập đảm bảo tín dụng nhằm tạo khả năng thu nợ (nguồn thu nợ) thứ hai cho
ngân hàng. Trên cơ sở đó, đảm bảo cho vay được thực hiện dưới các hình thức chủ
yếu như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và tín chấp.Nói tóm lại, việc thực hiện tốt các
nguyên tắc của hoạt động tín dụng là cơ sở đảm bảo cho hoạt động này đạt hiệu qủa
cao và cũng quyết định rất lớn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại. Mặc dù huy động vốn và cho vay là hai mặt của hoạt động tín dụng

nhưng lại thể hiện là các hoạt động đầu vào và hoạt động đầu ra trong chu trình kinh
doanh của một ngân hàng thương mại. Vì vậy, nó đóng vai trò quyết định tới kết
quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là điều hiển nhiên.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2. Vai trò hoạt động tín dụng của ngân hàng
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, TD có vai trò hết sức to lớn
đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, với xuất phát điểm là nền kinh tế phổ biến sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung,
tự cấp, thì vai trò của TD càng trở nên đặc biệt quan trọng.
Chính quá trình phân phối lại vốn tiền tệ của TD đã góp phần bình quân hóa
tỷ suất lợi nhuận trong toàn bộ nền kinh tế. Muốn vậy phải có sự chuyển dịch vốn
từ nghành có lợi nhuận thấp sang nghành có lợi nhuận cao và nghành có lợi nhuận
cao và sẽ lôi cuốn nguồn vốn đầu tư, làm cho khối lượng hàng hóa tăng, dẫn đến giá
cả hàng hóa giảm, lợi nhuận giảm. Nhưng việc chuyển dịch vốn sẽ gặp hạn chế vì
vốn của nghành luôn gắn liền với những tài sản vật chất và bản thân từng doanh
nghiệp lại cũng không đủ khả năng về vốn để đầu tư vào ngành có lợi nhuận cao.
TD đã góp phần đầu tư đẩy nhanh quá trình chuyển dịch vốn, thúc đẩy nhanh quá
trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Mặt khác,việc phân phối lại vốn tiền tệ của
TD còn góp phần làm tăng tốc độ tích tụ và tập trung sản xuất. Quá trình huy động
vốn của TD đã biến các bộ phận vốn phân tán ngoài quá trình sản xuất, lưu thông
thành vốn phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất. Qua đó TD thúc đẩy tích tụ vốn,
vì đã biến một phần giá trị thặng dư thành vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất. Đồng
thời còn góp phần thúc đẩy cạnh tranh khi ngân hàng đầu tư vào ngành có lợi nhuận
cao, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xu hướng tập trung vốn để mở rộng phạm vi,
quy mô sản xuất để có thể đứng vững trong cạnh tranh.
Do chuyên môn hóa trong kinh doanh, TD đã khắc phục được những hạn chế
của tín dụng thương mại nên phát triển ngày càng mạnh, phạm vi hoạt động ngày
càng mở rộng và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế. TD đã phát

huy vai trò đối với lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa, trong việc đáp ứng nhu
cầu vốn để duy trì và mở rộng quá trình tái sản xuất, đồng thời được sử dụng như
một công cụ tài trợ cho những ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi
nhọn theo yêu cầu phát triển kinh tế của Nhà nước.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với lưu thông tiền tệ, TD có mối quan hệ chặt chẽ và có vai trò quyết
định. Con đường tốt nhất để đưa tiền vào lưu thông là thông qua tín dụng ngắn hạn
của ngân hàng, vì thông qua đó có thể kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông,
đảm bảo sự phù hợp giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hóa. Hoạt động tín
dụng của hệ thống ngân hàng thương mại là khâu trung gian để ngân hàng trung
ương kiểm soát lượng tiền cung ứng bằng việc thực hiện các công cụ của chính sách
tiền tệ như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tín dụng Những
công cụ này tác động trực tiếp đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại,
làm ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng cho lưu thông.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận vốn cho vay tập trung qua
ngân hàng để từ đó đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho các tổ chức, cá nhân. TD
không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, các chi phí sản
xuất, các khoản thanh toán, mà còn cho vay đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành
các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến, đổi mới
công nghệ, đầu tư chiều sâu bằng vốn trung và dài hạn. Trong công cuộc CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn, TD còn dành một phần lớn vốn để đầu tư cho vay hộ
sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã Xét
về mặt tổng thể, vai trò của TD thể hiện rõ trên một số điểm sau:
Thứ nhất: Do chức năng huy động nên TD góp phần giảm lượng tiền nhàn rỗi
trong xã hội, thu hút lượng tiền đó để đầu tư cho vay phát triển kinh tế xã hội.
Thứ hai: Với vai trò là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong nền kinh tế nên TD
góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế Quốc tế. Trong điều kiện
nền kinh tế mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới thì mối quan hệ giữa các nước

ngày càng mở rộng, nhất là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài để cải thiện nền kinh tế trong nước trên cơ sở thu hút vốn, công nghệ, kinh
nghiệm trong quản lý và điều hành sản xuất của các nước có kinh tế phát triển.
Thực tế những năm qua cho thấy: Trong môi trường cạnh tranh, các chủ thể kinh tế
phải chủ động tìm kiếm thị trường, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến của thế giới, nâng cao nghệ thuật trong quản trị kinh doanh. Muốn hội nhập và
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
phát triển cần phải có một nguồn vốn lớn, trong đó vốn trong nước là quyết định và
vốn nước ngoài là quan trọng. Đối với nguồn vốn trong nước thì nâng cao hiệu quả
hoạt động TD để có nguồn vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước là một
yêu cầu hết sức quan trọng.
Thứ ba: Nâng cao được vai trò quản lý vĩ mô của NHNN, mà ở đây là việc
thực thi một chính sách tiền tệ phù hợp. Ngân hàng nhà nước phải thường xuyên
tăng cường việc điều chỉnh các công cụ của chính sách tiền tệ, để góp phần ổn định
tiền tệ, kiềm chế lạm phát. ở đây vai trò của Nhà nước và Chính phủ là cực kỳ quan
trọng trong việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của
đất nước thông qua các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ - tín dụng nhằm
mục tiêu khai thác được mọi tiềm năng để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
hướng CNH,HĐH.
1.3. Tổng quan về chất lượng tín dụng
1.3.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và
người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng được thể hiện trên nhiều mặt:
Trước hết, đối với khách hàng, tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích
của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều
khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.

Mặt khác, trong sự phát triển kinh tế xã hội, tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong
nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các quan
hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Về phía ngân hàng thương mại, phạm vi, mức độ và giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên
thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.Như vậy, chất lượng tín dụng
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
là một khái niệm vừa cụ thể(thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như: kết quả
kinh doanh, nợ quá hạn… ) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách
hàng , tác động đến nền kinh tế…) Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi cả nhân
tố chủ quan và nhân tố khách quan Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp, phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng thương mại với sự thay đổi của
môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình
cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố:Thu hút được nhiều
khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng ,chi phí
về tổng lãi suất, chi phí nghiệp vụ. Chất lượng tín dụng không tự nhiên sinh ra, nó
là kết quả của một qui trình kết hợp hoạt động giữa những con người trong một tổ
chức, giữa các tổ chức với nhau về một mục đích chung. Do đó, để có chất lượng
tín dụng tốt cần phải có sự tổ chức và quản lý đồng bộ trong một ngân hàng, vì điều
đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả
và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu
của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài. Để làm được điều
đó mỗi thành viên trong một tổ chức ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt qui trình
quản lý chất lượng tín dụng .
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng thực chất là nhằm vươn tới, đạt
được những yêu cầu cơ bản trên Tất cả đều nhằm một mục tiêu mà bất cứ một

Ngân hàng thương mại nào cũng phải đặt ra, đó là vừa đảm bảo đảm bảo khả năng
sinh lời vừa đảm bảo tính an toàn của đồng vốn đầu tư.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.3.2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt động tín dụng
Bao gồm các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ vốn trên tổng tài sản
Chúng ta đã biết, số vốn tự có của ngân hàng liên quan tới các khoản rủi ro
dự đoán. Nếu một ngân hàng dự đoán rủi ro lớn trong các khoản mục cho vay thì
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nên có nhiều vốn tự có trong khi thực hiện chính sách cho vay. Về cơ bản một ngân
hàng có hai sự lựa chọn khi xác định quy mô vốn tự có. Ngân hàng có thể tăng vốn
khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.
Ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng phải duy trì thường xuyên tỷ lệ vốn trên
tổng tài sản ở mức 5%, còn các Ngân hàng thương mại trên thế giới có tỷ lệ vốn
trên tổng tài sản có đạt 7% - 10%.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi:
Tỷ lệ cho vay trên
tiền gửi
=
Tổng số tiền cho vay
Tổng số tiền gửi
Đây là một công cụ đo lường đáng tin cậy về hoạt động cho vay của ngân
hàng.Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi bình quân đầu người trong cả nước thường là 8%.
Tuy nhiên tỷ lệ này biến đổi từ 30% trong những khu vực kinh tế trì trệ đến trên
100% tại các trung tâm tiền tệ lớn hay các ngân hàng khu vực. Khi tỷ lệ cho vay
trên tổng tiền gửi thấp – thí dụ dưới 40% thì điều đó có nghĩa là ngân hàng đó
không nhận được nhiều đơn xin vay của mình. Đây là một thực tế thường thấy ở các
ngân hàng nhỏ.

Chỉ tiêu cơ cấu tín dụng :
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng các loại cho vay của ngân hàng. Tuỳ đặc điểm
kinh doanh của mỗi ngân hàng mà tỷ trọng này khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay cho
vay trung và dài hạn đang được ưu tiên mở rộng nhằm đáp ứng cho nhu cầu đầu tư
phát triển kinh tế
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Vòng quay vốn tín dụng ( đánh giá đối với mỗi khách hàng)
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ trong kỳ
Tổng dư nợ trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng, đồng thời thể
hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín
dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín
dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất, hoặc được quy đổi đồng nhất
trong việc áp dụng cho từng loại vay cụ thể.
1.3.2.2. Nhóm các chỉ tiêu về mức độ đảm bảo
Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh).
Dựa vào giá trị tài sản thế chấp được đánh giá, mức độ biến động giá cả và
khả năng tiêu thụ trên thị trường, ngân hàng có thể cho vay theo các mức độ khác
nhau. Thông thường tỷ lệ này là 70% nhưng với các tài sản đặc biệt như: vàng, bạc,
chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn…ngân hàng có thể cho vay đến 80%, 90%, thậm chí đến
100%. Mặt khác, những tài sản định giá không rõ ràng, khó tiêu thụ, tỷ lệ lại là
40%- 50%.
Tỷ lệ đảm bảo nợ
Tín dụng là quan hệ vay trả. Hiện nay, mối quan tâm hàng đầu của các Ngân
hàng thương mại là biết được khả năng thanh toán của các khách hàng. Thực tiễn
cho thấy rằng khi khách lập kế hoạch quá lớn mà vốn tự có không kịp bổ sung cho
hoạt động kinh doanh của mình (mà phần lớn vốn hoạt động kinh doanh là vốn tín

dụng) thì đến một thời điểm nào đó, khách hàng sẽ mất khả năng thanh toán.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ đảm bảo nợ
=
Các nguồn tiền để trả nợ hang kỳ
Số nợ phải trả hàng kỳ
Tỷ lệ này càng cao càng tốt và ngược lại. Nhưng để đánh giá đúng khả năng
trả nợ thì cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính chính xác, hợp lý của số liệu đưa vào
bảng. Đặc biệt trong khâu kiểm tra, cán bộ tín dụng phải xem xét tính hiện thực của
vốn tự có của khách hàng để tránh tình trạng khách hàng kê khai vốn tự có quá cao
nhưng thực tế lại không đủ.
1.3.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ có vấn đề:
Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi
người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng
hạn.
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của ngân hàng
thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu trong kỳ
Tổng dư nợ
Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố
quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không
được trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ bị
chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần
lớn các khoản nợ xấu là các khoản nợ có vấn đề có khả năng mất vốn. Như vậy, tỷ
lệ nợ xấu càng cao thì ngân hàng thương mại càng gặp khó khăn trong kinh doanh
vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ

nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp.
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại:
1.3.3.1. Nhân tố từ phía ngân hàng:
Đây là những nhân tố chủ quan bởi nó là yếu tố nội tại trong ngân hàng và có
tác động trực tiếp đến chất lượng hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín
dụng nói riêng. Các nhân tố này bao gồm: chiến lược kinh doanh của ngân hàng,
chính sách tín dụng, chất lượng thẩm định dự án khách hàng, công tác huy động
vốn, thu thập và xử lý thông tin tín dụng, tổ chức nhân sự và kiểm soát nội bộ, trang
thiết bị và sự phối hợp giữa các phòng ban liên quan…
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng:
Chiến lược kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng đầu tiên đến chất lượng tín
dụng, nếu không có chiến lược kinh doanh được vạch trước thì các ngân hàng sẽ
luôn bị động. Một chiến lược kinh doanh hiệu quả sẽ giúp ngân hàng có một
phương hướng phát triển nhất quán, giúp cho ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực
hiện có của mình và đồng thời giúp cho ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh
chóng với những biến đổi của môi trường kinh doanh. Trên cơ sở có chiến lược
kinh doanh đúng đắn, ngân hàng thương mại mới có thể có những kế hoạch bộ phận
đúng đắn cho từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra. Các kế hoạch bộ
phận ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng như: Kế họach Maketing, Kế
hoạch phát triển nguồn nhân lực…
Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan
trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một số chính sách rõ ràng,
được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó chính là chính sách tín dụng .
Chính sách tín dụng bao gồm các chủ trương , đường lối đảm bảo cho hoạt động tín
dụng đi đúng với mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ các quy định của chính
phủ, ngân hàng nhà nước, phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành

hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường
chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động
tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời . Như vậy , chính sách
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
tín dụng liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng , thay đổi cơ cấu
tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của một ngân
hàng. Bất cứ một ngân hàng nào muốn nâng cao chất lượng tín dụng đều phải có
chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, vào nhu cầu thị trường.
Chính sách tín dụng đề cập đến toàn bộ các vấn đề liên quan đến cấp tín
dụng : khách hàng, quy mô, lãi xuất, kỳ hạn, các loại đảm bảo, phạm vi , các khoản
tín dụng có vấn đề và các nội dung khác. Các chính sách tín dụng gồm : chính sách
khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, lãi xuất và phí tín dụng , thời
hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ, các khoản đảm bảo… Sẽ tác động đến chất lượng tín
dụng ở nhiều khía cạnh , làm tăng hoặc giảm quy mô tín dụng , tăng hoặc giảm hiệu
quả tín dụng và làm thay đổi mức rủi ro tín dụng.
Chất lượng thẩm định khách hàng
Thẩm định dự án hay nhu cầu vay vốn của khách hàng là việc xem xét một
cách khách quan, toàn diện nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của
dự án ( nhu cầu vay vốn) của khách hàng trước khi ra quyết định đầu tư và cho phép
đầu tư. Mục đích của việc thẩm định là nhằm giúp cho ngân hàng rút ra kết luận
chính xác về tính khả thi , hiệu quả kinh tế , khả năng trả nợ và những rủi ro có thể
xảy ra từ đó ra quyết định cho vay hoặc từ chối. Cũng từ quá trình thẩm định ngân
hàng có thể tham gia tư vấn, góp ý cho khách hàng đồng thời căn cứ vào đó để xác
định số tiền cho vay, thời hạn cho vay , phương thức thu nợ … Tạo điều kiện cho
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để ngân hàng có thể thu hồi vốn.
Công tác huy động vốn
Là hoạt động khởi đầu của các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản chất
là một trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn

vốn chủ sở hữu, vì vậy nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì
ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, NHTM phải huy động những nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu, đi vay các tổ chức tín dụng khác hay từ Ngân hàng Trung Ương
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Sau khi huy động được vốn, để bù đắp chi phí huy động vốn và có lợi nhận
thì NHTM phải tìm cách sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là
hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho NHTM. NHTM sủ
dụng vốn theo các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư
mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín
dụng là quan trọng nhất bởi nó đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt , kinh doanh tiền tệ . Do đó
huy động vốn đối với ngân hàng được coi là hoạt động cung cấp đầu vào , nếu
nguồn vốn không được duy trì huy động đầy đủ về số lượng và phù hợp về kỳ hạn
thì ngân hàng khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Điều
đó làm giảm chất lượng tín dụng.
Tổ chức nhân sự và đạo đức của cán bộ ngân hàng:
Con người luôn là yếu tố trọng tâm, quyết định đến mọi hoạt động kinh
doanh nói chung và trong hoạt động ngân hàng nói riêng. Muốn nâng cao được hiệu
quả trong kinh doanh, chất lượng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng phải có một
đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức
phong phú về thị trường đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư vốn, nắm bắt những văn
bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trong việc tổ chức nhân sự,
người cán bộ tín dụng cần phải được sàng lọc kỹ càng và có kế hoạch thường xuyên
bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với tốc độ phát triển và biến đổi của
nền kinh tế thị trường, ngoài ra họ cần phải có tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức và
sự liêm khiết, bởi không sẽ gây tổn thất nghiêm trọng đối với ngân hàng.
Kiểm soát nội bộ

Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân
hàng. Công tác kiểm tra nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng
thường xuyên, càng chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực
hiện đúng các nguyên tắc, các yêu cầu thể lệ trong quy chế tín dụng cũng như quy
trình tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất phòng ngừa, hạn chế
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
những sai sót cuat cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa,
tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu thập và xử lý thông tin tín dụng
Đây là yếu tố cơ bản và xuyên suốt quy trình tín dụng của ngân hàng. Ngân
hàng thường xuyên thu thập , đánh giá và xử lý các thông tin tín dụng dể đảm bảo
cung cấp tín dụng hợp lý, kiểm soát và xử lý linh hoạt các tình huống phát sinh
trong hoạt động tín dụng. Vì vậy, thông tin tín dụng tác động rất lớn đến chất lượng
tín dụng nói riêng và kết quả họat động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Muốn
nâng cao chất lượng tín dụng , ngân hàng cần xây dựng được hệ thống thông tin đầy
đủ và linh hoạt , nhờ đó cung cấp các thông tin chính xác,kịp thời, tăng khả năng
phòng ngừa rủi ro tín dụng . Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn có
sẵn ở ngân hàng ( hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng , phân tích của
cán bộ tín dụng…) , từ khách hàng , từ các thông tin khác…
Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng
Trang thiết bị tuy không phải là yếu tố cơ bản nhưng nó góp phần không
nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng . Nó là công cụ, phương
tiện thực hiện tổ chức, quản lý, kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đặc biệt với sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho
ngân hàng có được thông tin về các doanh nghiệp, thị trường trong tương lai…
1.3.3.2. Nhân tố từ phía khách hàng:
Khách hàng có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín
dụng bởi họ là những người trực tiếp sử dụng các khoản tín dụng để đưa vào hoạt

động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng và thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân
hàng. Một khoản tín dụng được coi là có chất lượng khi khách hàng sử dụng đúng
mục đích và có hiệu quả khoản vay đó. Các nhân tố từ phía khách hàng sau đây tác
động đến chất lượng tín dụng ngân hàng:
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của người vay
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh của người vay vì đây là cơ sở để khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả
đúng cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Năng lực của khách hàng bao gồm cả năng lực
về tài chính, năng lực quản lý doanh nghiệp… là yếu tố quyết định sự thành công
của một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố kinh doanh thường
xuyên biến động ví như nhu cầu thị trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, giá cả
của các nguyên vật liệu đó có thể lên xuống thất thường hay các thiết bị máy móc
nhập về không phát huy được tác dụng như mong muốn… chính những yếu tố này
làm sai lệch những tính toán ban đầu của doanh nghiệp.
Muốn khắc phục được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đủ kiến thức,
trình độ, kinh nghiệm để phán đoán được nhữngn tình huống biến động có thể xảy
ra gây ảnh hưởng rới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, đồng thời có
biện pháp hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Ngược lại, nếu năng lực và kinh nghiệm
quản lý kinh doanh của khách hàng yếu kém dẫn đến làm ăn thua lỗ, điều đó đồng
nghĩa với việc khách hàng mất khả năng trả nợ, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín
dụng của ngân hàng.
Đạo đức, uy tín của người vay vốn
Xét về nhân tố ảnh hưởng từ phía người vay, không thể chỉ đề cập tới năng
lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của họ bởi cho dù khách hàng có năng lực và
kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh tốt như thế nào đi chăng nữa mà họ cố tình
chây ỳ không muốn trả nợ thì cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Do đó, trong quy trình tín dụng, các ngân hàng thường đưa ra quyết định

cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả
nợ của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do bản than khách hàng gây nên.
Xét về đạo đức của người vay: đây là yếu tố quan trọng của quá trình tín
dụng, tính cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức
chung mà còn kiểm nghiệm qua kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại, và chiến
lược phát triển trong tương lai. Thực tế trong kinh doanh cho thấy, tính chân thật và
khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Rất
Sinh viên: Nguyễn Quốc Khánh Lớp: LTĐH6A
22

×