Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
LÊ THỊ NGỌC HÀ
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
ĐÊ RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2
LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI, 2015
LÊ THỊ NGỌC HÀ
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
ĐÊ RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2
Chuyên ngành: Giáo dục học (tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ HUY QUANG
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhờ sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp, tôi đã
hoàn thành đúng tiến độ.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Phó Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Huy Quang - người đã dành rất nhiều
thời gian và tâm huyết để hướng tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau Đại học, các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin gửi lòi cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu và Hội đồng sư phạm trường Tiểu học Hải Xuân, trường
Tiểu học Lý Tự Trọng, trường Tiểu học Đào Phúc Lộc Thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, các bạn đồng nghiệp
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Lề Thị Ngọc Hà
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Lê Thị Ngọc Hà
MỤC LỤC
1.2.1...............................................................................................................
1.2.2.
trường
Thực trạng của việc rèn kỹ năng nói cho HS lóp 2 trong nhà
5
V
PHỤ LỤC
STT
STT
1
2
3
4
Từ, cụm từ
Viết tắt
1
Giáo viên
GV
2
3
Học sinh
HS
Tiếng Việt
TV
4
Sách giáo khoa
5
Hình thức tổ chức
6
7
Phương pháp
Số bảng
SGK
HTTC
pp
Học sinh tiểu học
Số biểu đồTên bảng
HSTH
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ kết quả rèn kỹ năng
Bảng 3.11
96 nói
Đánh giá kết quả rèn kỹ năng kể chuyện
2
Biểu đồ 3.2
Thể hiện mức độ chú ý của học
của học sinh
sinh
Bảng 3.2 Kết quả kỹ năng nói của HS lóp 2
97
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Tổng họp mức độ hứng thú của học sinh
Tổng hợp mức độ chú ý của học sinh
trong tiết học
99
101
Trang
97
101
DANH MỤC CÁC sơ ĐÒ
ST
Số sơ đồ
T
Sơ đồ 2.1
1
7
Tên sơ đồ
Trang
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
24
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.
Xuất phát từ tần quan trọng của kỹ năng nói
Nói là một trong bốn kỹ năng TV có tầm quan trọng đối với đời sống mỗi
con người và có tác động tích cực đến các kỹ năng nghe, đọc, viết nhưng còn
được ít rèn luyện chủ động ở tiểu học. Từ Giáo dục Mầm non, chương trình phát
triển ngôn ngữ cho trẻ đã tập trung rèn cho trẻ kỹ năng nói như: nói rõ âm, rõ
tiếng, đúng chuẩn, nói thành câu, nói mạch lạc, nói đúng nghi thức, nói biểu cảm.
Vào lóp 1, trẻ được học đọc, viết, làm quen với chữ cái, âm vần, hoạt động nghe,
nói vẫn được chú ý rèn luyện, nhưng không được quan tâm bằng đọc, viết. Đen
lóp 2, các phân môn TV vẫn chú ý rèn kỹ năng nghe, nói cho học sinh: nói trong
kể chuyện, nói trong tập làm văn, nói để trình bày kết quả thực hiện các bài tập,
nói trong nhóm, nói trước lóp. Nhưng năng lực nói của học sinh lóp 2 nhìn chung
còn nhiều hạn chế, biện pháp để rèn kỹ năng nói chưa nhiều.
1.2.
Xuất phát từ tính tất yếu phải đổi mới phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học Tiếng Việt trong chương trình mới
Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học là lấy
học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. Dạy
học TV ở tiểu học hiện nay phải thực hiện theo quan điểm giao tiếp, quan điểm
tích cực và quan điểm tích họp, với ý thức học sinh là chủ thể, học sinh làm ra con
ngưòi tinh thần của mình bằng hoạt động học tập tích cực của mình. Dạy học theo
quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng chủ đạo của chiến lược dạy học
TV ở tiểu học. Các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động
giao tiếp là một căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ
8
thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học. Nếu như nghe và đọc là hai kỹ
năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng
quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát
triển trong nhà trường. Nói là hoạt động sử dụng ngôn ngữ cùng các yếu tố kèm
theo nhằm truyền đạt một thông tin nào đó tới người nghe.
Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, dạy
TV không chỉ dạy cho các em kỹ năng đọc, viết, nghe mà điều quan trọng là dạy
các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc thông, viết
thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể thì sợ sệt,
nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện với mọi
người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong công việc.
Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói
năng lễ phép, lịch sự, biết nói lòi biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao
tiếp với mọi người xung quanh thì ngay từ các lóp đầu cấp của tiểu học chúng ta
cần rèn cho học sinh kĩ năng nói trong giờ dạy TV. Đó là điều rất quan trọng mà
chúng ta cần phải thực hiện. Không ai có thể làm thay, làm hộ học sinh. Vì thế,
mọi kiến thức, kỹ năng tiếng Việt muốn chuyển vào học sinh đều thông qua hình
thức bài tập. Học sinh muốn có năng lực đọc, viết phải đọc nhiều, viết nhiều. Học
sinh muốn có năng lực nghe, nói phải nghe nhiều, nói nhiều, không có con đường
nào khác, vấn đề là cách nghe, cách nói sao cho hiệu quả.
1.3.
Phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học có nhiều ưu thế
để rèn kỹ năng nói cho học sinh và phù hợp vói lứa tuổi tiếu học
Đóng vai, học sinh được hóa thân thành người khác, trong những tình
huống giả định để các em được trải nghiệm và nói hộ các nhân vật các em đang
đóng vai. Các em sẽ biết mình phải nói gì, nói bằng giọng điệu nào, phải có vẻ
mặt, động tác tay chân như thế nào là phù hợp. Đóng vai là tạo cơ hội cho các em
có môi trường, tình huống, nhu cầu, cảm hứng để luyện kỹ năng nói tự nhiên.
Thông qua các “vai diễn” HS được bộc lộ khả năng tự nhận thức, khả năng giao
9
tiếp, khả năng tự giải quyết vấn đề trong các tình huống cuộc sống.
Trong thực tiễn giáo viên chưa nhận thức đúng đắn vai trò,vị trí của pp
đóng vai trong dạy học các phân môn TV đề rèn kỹ năng nói cho học sinh. Vì vậy
giờ học trở nên buồn tẻ, nặng nề, kém hiệu quả. Khi đóng vai HS được bày tỏ
quan điểm, ý kiến, thái độ của mình cùng lắng nghe ý kiến, quan điểm của người
khác về các vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Đặc biệt đối vói HS lóp 2 việc
đóng vai không chỉ giúp các em học tập hứng thú, sôi nổi hơn mà còn rèn kỹ năng
nói, kỹ năng giao tiếp cho các em một cách hiệu quả nhất. Việc vận dụng phương
pháp đóng vai trong các phân môn TV thực sự tạo môi trường học tập tích cực,
chủ động cho các em học sinh, đồng thời phát triển khả năng sáng tạo trong các
vai diễn. Nếu ngay từ lóp 2 các em đã có kỹ năng nói tốt, các em sẽ chủ động, tự
tin trong học tập, trong cuộc sống riêng và trong giao tiếp xã hội khi học các lóp
hên.
Với mong muốn các em học sinh lóp 2 đã có khả năng nói tốt, chúng tôi
chọn đề tài “Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Tiếng Việt đế rèn kỹ
năng nói cho học sinh lớp 2”.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay có rất nhiều tài liệu viết về nhiệm vụ phát triển năng lực nói cho
học sinh tiểu học như bài viết trên Tạp chí Giáo dục số 10 của tác giả Nguyễn Trí
với tiêu đề “Dạy các kỹ năng nghe nói cho học sinh tiểu học”. Tác giả đã đánh giá
cao bản chất, vai trò của hoạt động nghe - nói để từ đó phát triển kỹ năng nghe nói cho HSTH.
Với đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng nói cho học
sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt”, tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định được
biện pháp dạy học rèn kỹ năng nói cho HS xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi HSTH,
từ lý luận dạy học hiện đại, theo hướng tăng cường thực hành, luyện tập. Trong đề
tài này, tác giả đã đưa ra các biện pháp rèn kỹ năng nói như rèn kỹ năng phát âm,
rèn kỹ năng nói độc thoại, nói hội thoại trong đó có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
cho HSTH.
1
0
Tác giả Đặng Thị Lệ Tâm vói cuốn “Dạy học nghi thức lời nói cho học
sinh tiểu học môn Tiếng Việf’ đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về nghi thức lời
nói, giói thiệu các kiểu bài tập dạy học theo nghi thức lời nói ở tiểu học.
Ngoài ra còn khá nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đễn việc rèn kỹ năng nói ở mức độ nông sâu khác nhau: “Việc
rèn luyện kỹ năng nghe và nói cho học sinh tiếu học ở California - Mỹ” của Phạm
Thị Thu Hiền in hên Tạp chí Khoa học giáo dục số 52... bài viết “Rèn luyện và
phát triển kỹ năng nói cho học sinh THCS của Nguyễn Thúy Hồng, Tạp chí Giáo
dục số 131. Trong các công trình này, có tác giả dựa vào mục đích giao tiếp để
phân xuất thành các kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng thuyết phục,
kỹ năng thuyết trình, về phương pháp phát triển kỹ năng nói cho học sinh, các tác
giả đều thống nhất quan điểm phải thông qua thực hành, luyện tập.
về pp đóng vai trong dạy học có thể kể đến công trình “Dạy học và
phương pháp dạy học trong nhà trường” (2005) của Phan Trọng Ngọ, Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nhằm phục vụ cho nhu cầu đổi mới pp dạy học môn TV, cuốn sách “Trò
chơi đóng vai ” (1999) của Muchielli Alex, Dự án Việt Bỉ “Hỗ trợ học từ xa” (tài
liệu dịch) và “Phương pháp sân khấu Becton Brech” (1983) của Đình Quang cung
cấp những kiến thức về đóng vai, nghệ thuật diễn kịch rất bổ ích, lý thú.
Trên đây là những công trình viết về dạy học TV nói chung và pp đóng vai
nói riêng. Các công trình đó tuy không viết riêng về vấn đề rèn kỹ năng nói cho
HS như đề tài luận văn này quan tâm, nhưng người nghiên cứu vẫn có thể tiếp thu
những điều bổ ích. Đó là các vấn đề có tính lý luận về nguyên tắc, hình thức, pp
dạy học môn TV nói chung. Bởi vậy Sử dụng pp đóng vai trong dạy học TV để
rèn kỹ năng nói cho HS lóp 2 là một vấn đề mới mẻ, thú vị. Chúng tôi sẽ tiếp thu
những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước để làm sáng tỏ các vấn
đề mà đề tài chúng tôi quan tâm.
3. Mục đích nghiên cứu
-
1
1
Nâng cao năng lực nói và hoàn thiện năng lực giao tiếp bằng TV cho
HSTH.
-
Đề xuất các HTTC dạy học có sử dụng pp đóng vai trong dạy học TV đế
rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu:
Chương trình TV và hoạt động dạy học các phân môn Tập đọc, Kể chuyện,
Tập làm văn.
Các tài liệu phương pháp dạy học TV, Tâm lý học, Ngôn ngữ học, Lý luận
văn học, Thi pháp học ..V.V..CÓ liên quan tới đề tài.
-
Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi rộng: Quá trình dạy và học các phân môn Tập đọc, Ke chuyện,
Tập làm văn để rèn kỹ năng nói cho học sinh.
+ Phạm vi hẹp: Đe tài nghiên cứu trong phạm vi lóp 2 ở ba trường tiểu học
trên địa bàn thành phố Móng Cái.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
1- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của pp đóng vai, luyện nói và sử dụng
pp đóng vai trong một số phân môn TV để luyện nói hiệu quả cho học sinh.
2- Xây dựng các HTTC dạy học có sử dụng pp đóng vai trong dạy học Tập
đọc, Ke chuyện, Tập làm văn để rèn kỹ năng nói cho học sinh lóp 2 ở
một số trường tiểu học thuộc địa bàn Thành phố Móng Cái.
3- Tiến hành dạy thực nghiệm một số bài để đánh giá tính khả thi và hiệu quả
thực tiễn của đề xuất trong luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu luận văn sử dụng pp đóng vai trong dạy học các phân môn TV để rèn
kỹ năng nói cho học sinh lóp 2 được nghiên cứu trọn vẹn và đầy đủ, thì nhận thức
của giáo viên về kỹ năng nói được chính xác hơn, chất lượng dạy học các phân
1
2
môn Tập đọc, Tập làm văn, Kể chuyện được nâng cao hơn, tạo tiền đề cho các em
học sinh chủ động, tự tin trong học tập, trong cuộc sống và trong giao tiếp xã hội
khi học các lóp trên.
7. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số pp sau:
1- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan
đến pp đóng vai, kỹ năng nói và sử dụng pp đóng vai để rèn kỹ năng nói
cho học sinh tiểu học.
2- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát chương trình sách
giáo khoa, phương pháp chuyên gia, thống kê, so sánh.
3- Phương pháp quan sát: Được cụ thể bằng các hình thức dự giờ đối với giáo
viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 2, khảo sát hứng thú và khả năng nói của
học sinh trên lóp, ngoài lóp, nội khóa, ngoại khóa.
4- Phương pháp thực nghiệm: Để đánh giá và rút ra kết luận cụ thể.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Tổ chức đóng vai trong dạy học Tiếng Việt để rèn kỹ năng nói
cho học sinh lớp 2.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.
Cơ sở lý luận
1.1.1.
Một số vẩn đề chung về phương pháp đóng vai
1.1.1.1.
Phương pháp đóng vai là gì
Đóng vai là một pp dạy học thông qua mô phỏng và thường có tính chất trò
chơi (còn gọi là trò chơi đóng vai). Có nhiều hình thức trò chơi dạy học như trò
chơi tự do, trò chơi đóng vai, các trò chơi quy tắc, trò chơi lập kế hoạch, biểu diễn
kịch, biểu diễn tự do.
1
3
Như vậy pp đóng vai liên quan đến các khái niệm mô phỏng và trò chơi. Ở
các mô phỏng, người học đảm nhận các vai - thường có tính trò chơi - và/hoặc
làm việc trong những môi trường được mô phỏng, nhằm trước tiên là phát triển
năng lực hành động, năng lực quyết định trong những tình huống gắn với cuộc
sống nhưng đã được đơn giản hóa.
Các đặc điểm của các trò chơi mô phỏng:
-
Vừa chơi vừa học
-
Môi trường học tập có tính mô phỏng không phải những tình huống thật.
Thông qua các mô phỏng, người học sẽ được học trước tiên là những
kiến thức hành động và những kiến thức ra quyết định, và qua đó mà xây dựng
năng lực thực hành cho mình. Điều này được thực hiện thông qua những cách đặt
vấn đề mà khiến cho ngưòi học cần phải tham khảo các nguồn thông tin từ bên
ngoài để có thể đưa ra quyết định.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (2000), đóng vai là thể hiện nhân
vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động, nói năng như
thật. W.Shakespcare đã từng nói đại ý: Toàn thế giới là nhà hát. Trong nhà hát có
đàn ông, đàn bà. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ, đều có lối ra sân khấu và lối rời
sân khấu của mình.
Đóng vai xuất phát từ nghệ thuật kịch, từ lĩnh vực kịch tâm lí (paychodrama). Sau đó đến khoảng thế kỉ XIX nó được vận dụng vào quá trình dạy học,
trở thành một pp tương đối phổ biến và mang lại hiệu quả cao. Đầu thế kỉ XX, các
nhà xã hội học người Mĩ (Merton, Parsons) sử dụng đóng vai trong việc thành lập
các lí thuyết xã hội học. Ngày nay trò chơi đóng vai được sử dụng như một pp dạy
học trong nhiều môn học, trước hết là các môn khoa học xã hội. Theo Hilbert
Meyes (1987): “Đóng vai là một pp dạy học phức họp nhằm nhận thức hiện thực
xã hội. Với sự giúp đỡ của đóng vai, HS có thể hiểu được hành động của mình tốt
hơn và tác động lên tư duy, tình cảm và hành động của bạn học, giáo viên và
1
4
những người quan sát. Đóng vai là một pp dạy học trong đó người học thực hiện
những tình huống hành động được mô phỏng (theo các vai) về một chủ đề gắn với
thực tiễn, thường mang tính chất trò chơi, trong các tình huống cuộc sống các vấn
đề hoặc xung đột được thể hiện. Đóng vai nhằm phát triển năng lực hành động
thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân người học và thông qua thông tin
phản hồi từ những người quan sát. Điểm khác biệt của đóng vai với tư cách là một
pp dạy học ở chỗ nó là một hoạt động học tập có kế hoạch được thiết kế nhằm đạt
được những mục tiêu giáo dục cụ thể”.
Chúng tôi quan niệm đóng vai là phương pháp giáo viên tổ chức cho học
sinh hóa thân thành người khác để học sinh luyện nói, nhằm thực hành những
cách ứng xử ở một tình huống giả định. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về
một vấn đề bằng cách tập trung vào sự kiện cụ thể mà các em phải trải nghiệm và
quan sát được. Sau việc “trình diễn”, học sinh cần thảo luận để rút ra kiến thức và
kỹ năng của bài học.
pp đóng vai là cách thức tổ chức cho HS tham gia giải quyết một tình
huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách diễn xuất
một cách ngẫu hứng mà không cần kịch bản hoặc luyện tập trước nhằm giải quyết
tình huống này trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em. pp này
được thực hiện theo chủ đề của một tình huống cụ thể. Xây dựng kịch bản phải
phù họp, đơn giản và dễ hiểu. Việc giải quyết tình huống đó không cần xây dựng
thành kịch bản, các “diễn viên” phải nhập vai nhanh chóng, phải phát huy óc
tưởng tượng và tư duy sáng tạo, linh hoạt để giải quyết tình huống ngay trong khi
biểu diễn mà không được luyện tập trước. Như vậy, mục đích của pp đóng vai là
cụ thể hóa bài học bằng sự diễn xuất để GV có cơ sở phân tích nội dung bài giảng
chi tiết và sâu sắc hơn.
1.1.1.2.
Đặc điếm của phương pháp đóng vai
Đóng vai là một pp dạy hội thoại, tuy mang tính chất kịch nhưng không
hoàn toàn là một vở kịch. Đây chỉ là một cách thức một phương pháp để học sinh
1
5
học tập. Nó diễn ra ngay trong lớp học, không đòi hỏi sự trang trí, phông màn
phức tạp. Các đoạn thoại kể tiếp nhau được tạo ra để phát triển bài hội thoại, thúc
đẩy cuộc giao tiếp mà không tuân theo một kịch bản có sẵn như khi diễn một vở
kịch. Từ nhiệm vụ và tình huống, mỗi học sinh tự hình thành và hoàn thiện lời nói
ngay trong thực tiễn đóng vai, do cả thầy và trò cùng tham gia sáng tạo.
Người tham gia đóng vai là học sinh trong tổ, nhóm, lóp. Các em đóng vai
nhằm tập dượt theo đề bài hội thoại. Sản phẩm của các lần đóng vai là các màn
hội thoại hoặc giao tiếp, các sản phẩm này sẽ được các bạn trong lóp phân tích,
nhận xét, rút kinh nghiệm để các lần tập dượt hội thoại tiếp theo đạt hiệu quả cao
hơn, tốt hơn. Mục đích của việc đóng vai là hoàn thành một bài tập hội thoại,
thông qua đó hình thành kỹ năng hội thoại, tích lũy các kinh nghiệm ứng xử trong
hội thoại để chuẩn bị cho các cuộc hội thoại đích thực các em trải qua trong cuộc
đời.
Khi đóng vai, học sinh cần chú ý tới lời nói và các động tác hình thể (chân,
tay, thân thể) cách biểu cảm trên nét mặt, trong giọng nói... tức là tất
cả các yếu tố khác ngoài ngôn ngữ có tác động đến hiệu quả hội thoại.
Khi đóng vai và thực hiện một tình huống giả định, các nhân vật khi hội
thoại có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau để phát triển đề tài, thực hiện cuộc
thoại như biện pháp hỏi, đáp, phiếu bài tập, đưa ra lời giải trên giấy, dùng các đồ
dùng dạy học.
Không ai có thể phủ nhận đóng vai là một phương pháp mang lại rất nhiều
hiệu quả trong việc dạy học. pp đóng vai có những ưu điểm nổi bật sau:
-
Cuốn hút và gây ấn tượng với học sinh, pp đóng vai sẽ thực sự tạo ra
không khí vui nhộn cho lóp học và tạo động lực học tập cho các em.
-
Đưa học sinh thâm nhập vào thế giới nội tâm con người, các quan hệ xã
hội phức tạp và cũng là cách tốt nhất để HS thu nhận kiến thức, thái độ và
kĩ năng ứng xử bằng chính sự trải nghiệm của bản thân.
-
Gắn kết giữa lí luận vói thực tiễn dạy học.
-
1
6
Giúp phát triển tư duy cho người học đặc biệt là tư duy sáng tạo, phản biện
- một phẩm chất hết sức quan trọng với con người hiện đại.
-
Tạo cơ hội thuận lợi để HS thể hiện hiểu biết, kỹ năng và cách ứng xử của
mình, thể hiện cá tính của mình trước người khác. Đặc biệt ngay cả những
học sinh ít nói cũng có dịp để thể hiện bản thân một cách thẳng thắn và
thoải mái.
Tuy nhiên pp này cũng có nhược điểm đó là đòi hỏi người học phải mạnh
dạn, sáng tạo; dễ gây cười cho cả người diễn và người xem và không quan tâm
được hết diễn biến, cách giải quyết tình huống của các nhân vật.
pp đóng vai bao gồm 3 khía cạnh cơ bản đó là: người tham gia đóng vai,
cách tổ chức đóng vai và nội dung của hoạt động đóng vai.
-
Người tham gia đóng vai:
Người tham gia đóng vai là HS trong tổ, trong lóp. Các em đóng vai không
nhằm luyện tập các kỹ năng biểu diễn để đạt được mục đích sau này trở thành
diễn viên kịch. Các em đóng vai chủ yếu nhằm mục đích tập dượt theo đề tài hội
thoại, sản phẩm của các lần đóng vai là các màn hội thoại hoặc giao tiếp để sau đó
cả lóp cùng phân tích, nhận xét, rút kinh nghiệm. Mục đích gần, hẹp của việc
đóng vai là hoàn thành một BT hội thoại, còn mục đích xa, rộng là hình thành kỹ
năng hội thoại, tích lũy kinh nghiệm ứng xử trong hội thoại để chuẩn bị cho các
cuộc hội thoại đích thực các em sẽ trải qua trong cuộc đời.
Sở dĩ có thể huy động HS tham gia đóng vai trong các tình huống giao tiếp
giả định vì các tình huống đó chỉ khai thác kỹ năng, kinh nghiệm hội thoại và giao
tiếp đã được HS tiếp nhận một cách tự phát trong cuộc sống. Sau đó sẽ nâng cao
và phát triển các kỹ năng, kinh nghiệm hội thoại của các em. Điều kiện tiên quyết
là tình huống giao tiếp giả định đưa ra dạy ở Tiểu học không được xa lạ với vốn
sống, vốn hiểu biết của HSTH.
Khi đóng vai, HS cần chú ý tới lời nói và các động tác hình thể (tay, chân,
thân thể), cách biểu cảm trên nét mặt, trong giọng nói... tức là tất cả yếu tố khác
1
7
ngoài ngôn ngữ có tác động đến hiệu quả của hội thoại.
-
Cách tổ chức đóng vai:
Khi đóng vai thực hiện một tình huống giả định, các nhân vật tham gia hội
thoại có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau để phát triển đề tài, thực hiện cuộc
thoại như biện pháp hỏi, đáp, phiếu BT, đưa ra lời giải trên giấy, dùng các đồ
dùng dạy học. Nội dung cốt lõi của hoạt động đóng vai là hội thoại. Nói cách khác
hội thoại là xương sống của hoạt động đóng vai.
-
Hoạt động đóng vai:
Theo sự phát triển của tình huống giao tiếp giả định, hội thoại trong hoạt
động đóng vai được thực hiện trong mỗi giai đoạn của cuộc giao tiếp vói những
chức năng nhiệm vụ khác nhau.
+ Hoạt động mở đầu cuộc giao tiếp bao gồm những nghi thức lời nói dùng
trong lúc gặp gỡ, làm quen và các lời thoại giới thiệu đề tài giao tiếp.
+ Hoạt động hiển khai đề tài giao tiếp bao gồm những đoạn thoại của các
nhân vật để trò chuyện và thương lượng hay trình bày, phân tích trao đổi, thảo
luận... về đề tài. Tóm lại, đoạn triển khai bao gồm các đoạn thoại phát triển đề tài,
làm phong phú đề tài, chi tiết hóa đề tài.
+ Hoạt động kết thúc cuộc giao tiếp bao gồm những nghi thức lời nói dùng
trong lúc khép cuộc giao tiếp như: lòi chia tay, tạm biệt, hẹn lần gặp sau...
1.1.1.3.
Phương pháp đóng vai trong dạy học Tiếng Việt
pp đóng vai là hoạt động biểu diễn bằng lời nói. Nói chuyện và lắng nghe
có thể được tích họp trong lóp học thông qua hoạt động đọc - viết tác phẩm văn
chương. Tuy nhiên, trẻ cần có cơ hội thể hiện ngôn ngữ nói. Điều này có thể thực
hiện được thông qua việc sử dụng hoạt động đóng vai trong lớp học. Vai trò của
việc đóng vai được nhà nghiên cứu Wagner (1990) khẳng định: "Đóng vai một
câu chuyện vừa mới đọc hay đóng vai câm giúp trẻ tiếp thu được ỷ nghĩa của
ngôn ngữ, mở rộng sự hiểu biết của bản thân, biển những từ ngữ không quen
thuộc thành từ ngữ của riêng mình. Giống như nói chuyện, hoạt động đóng vai
1
8
trong ỉớp học cỏ những ảnh hưởng tích cực tới hoạt động viết và đọc
Đóng vai không chỉ phát triển kỹ năng nghe - nói mà việc thảo luận sau vở
kịch có tác dụng hỗ trợ các kỹ năng đóng vai. Trẻ em cần có cơ hội phản biện lại
những gì các em đã làm và thảo luận về những điều diễn ra, đặc biệt đó là cơ sở
để trẻ thể hiện cảm xúc của bản thân về những sự kiện xảy ra trong vở kịch.
Đóng vai giúp cho trẻ có cơ hội tự điều khiển hành động của bản thân khi
giao tiếp với người khác. Đóng vai cũng là sự tập dượt, thực hành sự kết họp giữa
ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ cơ thể (tư thế, biểu cảm cảm xúc trên khuôn mặt,
hoạt động chân, tay,...) Các kĩ thuật này có thể được ứng dụng trong cuộc sống
thực tiễn. Khẳng định vai trò của biện pháp đóng vai, Sabasta viết (1993): "Đóng
vai có một tác dụng tích cực lên việc đọc, hiểu, viết, các kỹ năng ứng dụng ngôn
ngữ Nói và các kỹ năng tư duy phê phản Đóng vai đã giúp HS hình thành và phát
triển khả năng giao tiếp, khả năng thích ứng với các tình huống giao tiếp. Thông
qua các hoạt động của phương pháp đóng vai, HS có rất nhiều cơ hội để luyện tập
kỹ năng nghe - nói trong từng tình huống khác nhau với nhiều vai giao tiếp phong
phú đa dạng. Một điều quan trọng hơn, đóng vai là sự thể hiện khả năng giao tiếp
kết họp với khả năng diễn xuất, là sự liên kết giữa ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ
cơ thể. Đây chính là cơ hội tuyệt vời giúp HS rèn kỹ năng nghe - nói ở mức độ
cao.
Phương pháp đóng vai được sử dụng rất hiệu quả trong phân môn Tập đọc
(phân vai đọc trong hội thoại) nhưng đặc biệt biện pháp đóng vai thể hiện nhiều
ưu điểm trong những tiết Ke chuyện và Tập làm văn. Việc đóng vai không chỉ
giúp HS tiếp thu cốt chuyện một cách tốt nhất mà đó còn là biện pháp giúp HS có
sự chia sẻ, đồng cảm với các nhân vật trong câu chuyện, biết suy nghĩ nhận xét và
đánh giá về các hành vi nhân vật, bản chất nhân vật.
Thông qua hoạt động đóng vai để rèn kỹ năng nói cho HS lóp 2, chúng ta
còn có thể rèn luyện cho HS:
-
Thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an
1
9
toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
-
Gây hứng thú và chú ý cho HS trong việc học tập TV.
-
Tạo cho HS cơ hội bộc lộ thái độ và cảm xúc cũng như việc hình thành các
kỹ năng giao tiếp.
-
Tạo điều kiện làm nảy sinh sự sáng tạo của HS.
-
Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo chuẩn mực hành vi đạo
đức và có thể thấy ngay tác động, hiệu quả của lời nói và việc làm của HS
từ các vai diễn.
* Quy trình tổ chức hoạt động đóng vai
Khi vận dụng pp đóng vai để rèn kỹ năng nói cho HS, chúng ta có thể thực
hiện một số bước theo quy trình như sau:
Bước 1: Chuẩn bị
GV chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và quy định rõ thời gian
chuẩn bị, thời gian đóngvai.
Bước 2: HS nhận nhiệm vụ được giao
Các nhóm thảo luận và thống nhất một số nội dung như: phân vai, dàn
cảnh, cách thể hiện từng nhân vật, diễn thử...
Bước 3: HS thực hiện đóng vai
-
Các nhóm đóng vai sau khi đã hoàn thành bước 2.
-
Lớp thảo luận và đưa ra nhận xét theo gợi ý:
+ Cách ứng xử của các vai diễn phù họp hay chưa phù hợp? Nếu chưa phù
họp thì là ở chỗ nào?
+ Cảm xúc của vai diễn được bộc lộ thế nào khi thực hiện cách ứng xử?
+Phát hiện thêm những cách ứng xử khác ? (phân tích, tranh luận về ích lọi
hoặc tác hại hay hạn chế của mỗi cách ứng xử...)
Bước 4: GV nhận xét, đánh giá
GV nêu ý nghĩa của tình huống và kết luận về cách ứng xử, nhập vai của
HS, giúp các em rút ra bài học cho bản thân.
2
0
Tuy nhiên, khi sử dụng pp đóng vai để rèn kỹ năng nói cho HS, GV cũng
lưu ý rằng:
+ pp đóng vai khác với loại hình đóng vai thông thường, ở chỗ: không có
kịch bản, không cần diễn tập, điểm chủ yếu là thể hiện cảm xúc tức thòi khi nhập
vai, nói lời của nhân vật và khi gặp phải tình huống có vấn đề.
+Đóng vai là bắt đầu cho một cuộc thảo luận, nên người đóng vai phải thực
hiện một nhiệm vụ khó khăn, là làm mẫu một cách trong số nhiều cách
giải quyết và ứng xử khác nhau.
-
Nhiệm vụ của GV là duy trì và dẫn dắt cuộc thảo luận thú vị sau khi các
vai diễn kết thúc - bằng việc gợi ý cho HS các nhóm hoặc toàn lóp tranh
luận.
-
Tình huống đóng vai phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi,
trình độ HS và điều kiện và hoàn cảnh của lóp học. Tình huống giao tiếp
trong đóng vai không cần cho trước kịch bản, lời thoại.
-
GV phải dành thời gian cho các nhóm chuẩn bị đóng vai và nên khích lệ
những HS nhút nhát cùng tham gia.
1.1.2.
Luyện nói cho học sinh
lớp 2 1.1.2.1. Kỹ năng nói
* Kỹ năng: Kỹ năng là một phạm trù cơ bản trong tâm lý học. Cho đến nay
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kỹ năng và đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau. Theo từ điển Tâm lí học của tác giả A.v. Petrovxki: “Kỹ năng là giai đoạn
nắm vững các hành động dựa hên quy tắc nào đó và hành động phù họp vói quy
tắc ấy trong quá trình giải quyết nhiệm vụ đã xác định”. Tác giả A.V Pertrovxki
cho rằng: “Kỹ năng là cách thức hành động dựa hên cơ sở tổ hợp những tri thức
và kĩ xảo. Kỹ năng được hình thành bằng con đường luyện tập tạo khả năng cho
con ngưòi thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà ngay cả
trong điều kiện thay đổi. Theo Nguyễn Quốc Vỹ “Kỹ năng là khả năng của con
ngưòi thực hiện có hiệu quả một công việc để đạt được mục đích đã xác định bằng
2
1
cách lựa chọn và áp dụng những cách thức hành động phù họp với điều kiện, hoàn
cảnh và phương tiện nhất định”.
-
Các nhà Giáo dục học phân tích kỹ năng thành hai loại kỹ năng bậc một và
kỹ năng bậc hai:
+ Kỹ năng bậc một là kỹ năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù
họp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù là
hành động cụ thể hay hành động trí tuệ. Loại kỹ năng này thông qua luyện tập đến
mức hoàn hảo, các thao tác được diễn ra hoàn toàn tự động hóa không cần có sự
hiện diện của ý thức hoặc sự tham gia của ý thức rất ít thì biến thành kỹ xảo. Ví
dụ như kỹ năng viết, đan len, đi xe đạp...
+ Kỹ năng bậc hai là khả năng thực hiện hành động, hoạt động một cách
thành thạo, linh hoạt, sáng tạo, phù họp vói những mục tiêu trong những điều kiện
khác nhau. Trong kỹ năng bậc hai, yếu tố linh hoạt sáng tạo là yếu tố cơ bản, đó là
cơ sở cho mọi hoạt động đạt hiệu quả cao.
Dựa trên những quan niệm nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm sau: “Kỹ
năng là hệ thống các thao tác, những cách thức hành động phù họp để thực hiện
có kết quả một hoạt động dựa trên những tri thức nhất định”.
*Kỹ năng nói: Kỹ năng nói là một trong những kỹ năng quan trọng cần
trang bị, rèn luyện cho mỗi người. Kỹ năng nói được hiểu là khả năng, trình độ
biểu đạt ngôn ngữ âm thanh. Theo đó, kỹ năng nói không đơn thuần chỉ là nói mà
còn thể hiện giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, nét mặt, khóe mắt,... để diễn đạt
được chính xác nội dung, thể hiện đúng đắn, đầy đủ mọi ý định, bộc lộ được
những tình cảm tinh tế nhất. Vì vậy, có thể khẳng định được rằng việc rèn luyện
kỹ năng nói là một hoạt động cần thiết trong nhà trường.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, kỹ năng nói thực chất là sự phối họp phức tạp
giữa những chuẩn mực hành vi xã hội của cá nhân với sự vận động của cơ mắt,
ánh mắt, nụ cưòi (vận động môi, miệng), tư thế đầu, cổ, vai, tay, chân, đồng thời
với ngôn ngữ nói của chủ thể giao tiếp. Sự phối hợp hài hòa, hợp lý giữa các vận
2
2
động mang một nội dung tâm lí nhất định, phù họp với mục đích, ngôn ngữ và
nhiệm vụ giao tiếp cần đạt được của chủ thể giao tiếp.
Theo chúng tôi “Kỹ năng nói là khả năng, trình độ biểu đạt ngôn ngữ, là
cách thức thực hiện hài hòa, có kết quả việc sử dụng ngôn ngữ kết họp với các
hành vi, cử chỉ, điệu bộ của chủ thể trong hoạt động giao tiếp với những hoàn
cảnh, tình huống thực tế khác nhau”.
1.1.2.2.
Hoạt động nghe - nói
a. Bản chất của hoạt động nghe - nói
-
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người.
Nghe - nói - đọc - viết là những hoạt động không thể thiếu được trong đòi
sống hàng ngày. Nếu chúng ta chỉ biết nói mà không biết nghe, chỉ biết viết
mà không biết đọc thì việc giao tiếp khó có thể đạt kết quả tốt.
- Nghe là hoạt động lĩnh hội, tiếp nhận thông tin, xử lí âm thanh tác động đến
thính giác của con người. Đó là hoạt động thông qua các thao tác phân tích,
tổng họp và hệ thống hóa, người nghe có thể hiểu được thông tin, lí giải,
luận giải được lời nói.
- Nói là một hoạt động diễn ra thường xuyên của con người. Đây là hoạt
động chuyển nội dung suy nghĩ, nội dung thông báo của người nói vốn thuộc lĩnh
vực tinh thần sang dạng vật chất, dạng mã hóa ngôn ngữ.
b. Vai trò của hoạt động nghe - nói
Trong nhà trường, Nghe có vai trò như một công cụ giao tiếp nhằm phát
triển tư duy và tạo điều kiện cho việc học tập. Nghe là lĩnh hội, tiếp nhận thông
tin. Việc tiếp nhận thông tin này có thể diễn ra khi không có sự hiện diện của
người nói (ví dụ: nghe nhạc, nghe hát qua băng đĩa và đài phát thanh). Vì thế, hoạt
động nghe có hai hình thức cơ bản: nghe trong hội thoại và nghe hiểu văn bản.
Hoạt động nghe luôn có sự gắn bó chặt chẽ với hoạt động nói. Từ khi còn ấu thơ,
trẻ đã được tiếp xúc với lời ru của bà, của mẹ. Khi tới trường, môi trường giao
tiếp của trẻ được mở rộng, nhu cầu giao lưu, tiếp nhận thông tin của trẻ ngày càng
2
3
cao hơn. Vì vậy, trẻ không chỉ nghe hiểu mà trẻ phải học cách nghe để phát triển
tư duy, để tạo ra cơ sở cho việc học tập rèn luyện và trưởng thành. Nếu có khả
năng nghe tốt, HS sẽ tiếp thu tốt kiến thức của các môn học, phát triển tư duy tốt
hơn. Vì vậy, vai trò của hoạt động nghe, đặc biệt học sinh lóp 2 là vô cùng quan
trọng.
Nói là sự giao tiếp trực tiếp bằng âm thanh, là sự truyền tải thông tin dưới
dạng âm thanh giữa người này với người kia. Nói còn là sự thể hiện những mối
quan hệ giữa con người với cộng đồng xã hội. Một cuộc giao tiếp thông thường
bao giờ cũng có ít nhất hai người: người nói và ngưòi nghe. Trong cuộc giao tiếp,
mặt đối mặt, hai vai nói - nghe thường luân chuyển vai cho nhau: Người nói sau
khi nói xong, chuyển thành vai nghe và ngược lại. Nói không rõ ràng mạch lạc thì
người nghe khó nắm bắt được nội dung thông tin. Và như vậy, cuộc giao tiếp sẽ
khó thực hiện, khó đạt được hiệu quả, thậm chí không giao tiếp được. Không giao
tiếp được cũng đồng nghĩa với việc hạn chế khả năng tiếp xúc với cộng đồng và
tất nhiên sẽ dẫn đến nhiều hạn chế khác trong cuộc sống cũng như trong phát triển
tư duy, nhận thức.
Cùng vói thời gian, năng lực giao tiếp bằng lời nói ở mỗi người cũng được
phát triển và hoàn thiện dần, có thể nghe và hiểu được đầy đủ lời nói của người
khác để từ đó nói được những lời đúng, rõ ràng, biểu lộ được ý nghĩa, thái độ, tình
cảm của mình trong những tình huống giao tiếp khác nhau. Thông qua hoạt động
nói, con người không chỉ thực hiện việc trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, mà
còn tiếp nhận và tích lũy được kinh nghiệm, tri thức, văn hóa, những thành tựu
khoa học và tiến bộ của loài người.
Con người sinh ra, cất tiếng khóc đầu tiên cũng chính là lúc bắt đầu của
quá trình giao tiếp. Khi biết nói, nhất là khi đến trường, trẻ chính thức được học
nói một cách bài bản từ các thầy cô giáo. Đây là thời gian đặc biệt quan trọng giúp
HSTH hình thành cách nói, kỹ năng nói để có thể giao tiếp, phát triển tư duy, tạo
cơ sở cho việc học tập, rèn luyện; đồng thời hỗ trợ cho việc rèn luyện các kỹ năng
nghe nói, đọc, viết một cách hiệu quả.
2
4
Hoạt động nói của HSTH hết sức phong phú: HS nói - trao đổi với nhau về
việc học tập, sinh hoạt, vui chơi: nói vói thầy cô về bài vở và những nội dung
khác trong nhà trường... Đó là những hoạt động giao tiếp thông thường. Còn trong
chưong trình TV tiểu học nói là hoạt động được nâng lên thành kỹ năng, được
thầy cô hướng dẫn. Hoạt động này thực sự quan trọng trong việc giúp HS có thể
thực hiện các hoạt động giao tiếp thông thường diễn ra được tốt hon, góp phần
hoàn thiện các kỹ năng thực hành TV, nâng cao năng lực tư duy và nhận thức cho
HS.
c. Kỹ năng nói trong giao tiếp
Nói là một hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên
người nói phải xác định nội dung lời nói, lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt cho nội
dung đó. Sau đó người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi những lòi nói đã
được xác định.
Từ đặc điểm kiểu giao tiếp, người ta nói đến hai dạng nói: đối thoại và
độc thoại. Mỗi dạng có những đặc điểm riêng.
* Đối thoại
+ Người đối thoại là người tham gia vào quá trình xây dựng nội dung và
diễn biến cuộc hội thoại. Họ luôn luôn có sự đổi vai, từ nói sang nghe hoặc ngược
lại. Đối thoại đòi hỏi sự thích ứng nhau khi đổi vai để có thể nhập ngay vào nội
dung cuộc hội thoại.
+ Lời đối thoại thường ngắn gọn, các từ đưa đẩy chêm xen được sử dụng
nhiều tạo cho câu văn, lời văn có phong cách khẩu ngữ.
Có sự hỗ trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt,
giọng cười...Trong nhiều trường hợp các yếu tố phi ngôn ngữ giúp người nghe
hiểu chính xác, đúng đắn hon ý của người nói và có tác dụng làm hấp dẫn, lôi
cuốn người nghe.
* Độc thoại
2
5
+ Người độc thoại thường giữ vai trò chủ động trong việc lựa chọn nội
dung, định hướng nói, trong việc xác định phương pháp nói. Song người nghe,
bằng cách phản ứng của mình, cũng có tác động ít nhiều đến người nói.
Người nói khôn ngoan cần đón nhận các phản ứng này để sửa đổi nội dung hoặc
cách nói cho phù họp.
+ Lời độc thoại diễn ra liên tục. Do đó, người nói ít có thời gian ngừng
nghỉ để chuẩn bị. Điều này người nói cần chuẩn bị kĩ lưỡng nội dung (thậm chí cả
ngôn từ, điệu bộ...) trước khi nói. Sự chuẩn bị không chu đáo sẽ dẫn tới tình trạng
lộn xộn hoặc luống cuống không nói được.
+ Người độc thoại có thể sử dụng các yếu tố phụ trợ như: ánh mắt, điệu
bộ, cử chỉ. Điều cần nhớ là không nên lạm dụng để tự biến thành vụng về trên sân
khấu. Dạng độc thoại có thể chia ra làm 2 loại: độc thoại trực tiếp có hiện diện của
người nghe (GV giảng bài) và độc thoại gián tiếp không có người nghe trước mặt
(các phát thanh viên truyền thanh hay truyền hình).
1.1.3.
Sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người.
Ngôn ngữ tồn tại dưới dạng nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng
phương tiện ngôn ngữ có thể sử dụng dạng nói hoặc dạng viết tùy theo yêu cầu,
mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp.
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh, dùng trong giao tiếp tự nhiên hàng
ngày; trong đó người nói người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, có thể thay phiên
nhau trong vai nói và vai nghe.
Ngôn ngữ viết là thứ ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản
và được tiếp nhận bằng thị giác.
Tuy nhiên, ngôn ngữ dạng nói và ngôn ngữ dạng viết có những khác biệt:
-
về mặt từ vựng: ngôn ngữ dạng nói thường ở dạng tỉnh lược, ngắn gọn hơn
ngôn ngữ dạng viết nhưng lại thường không gọt giũa, hàm súc.
-
về mặt ngữ pháp: cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ nói miệng thường rắc