Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quản lý chất thải rắn y tế trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 80 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua 4 năm được học tập và rèn luyện tại trường Đại học Tài Nguyên và Môi
Trường cũng như trong quá trình làm đồ án tốt nghiệp, em đã được tạo nhiều điều
kiện và sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo công tác tại các khoa, phòng, ban
trong trường.
Trước tiên em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo TS. Phạm Thị
Mai Thảo khoa Quản lý tài nguyên và môi trường – trường Đại học Tài Nguyên và
Môi Trường Hà Nội đã giúp đỡ trong suốt quá trình em thực hiện và hoàn thành đồ
án tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Môi trường
và các khoa khác của trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã giảng
dạy và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường, những kiến thức mà em
nhận được trên giảng đường đại học sẽ là hành trang giúp em vững bước trong
tương lai.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến

các ban lãnh đạo các

khoa,phòng tại các cơ sở y tế thành phố Vinh tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện cho
em trong quá trình điều tra thực tiễn và thu thập số liệu.
Cuối cùng, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới bố mẹ và tất cả những bạn bè
đã ở bên, động viên và giúp đỡ em vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 02 năm 2016.
Sinh viên
Trần Thị Thúy

1


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

2


DANH MỤC BẢNG

3


DANH MỤC HÌNH

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
BV
BVĐK
BVĐK TP
BVYH CT
CTR
CTRYT
CTRTT
CTRNH


5

Tên
Bệnh viện
Bệnh viện đa khoa
Bệnh viện đa khoa thành phố
Bệnh viện y học cổ truyền
Chất thải rắn
Chất thải rắn y tế
Chất thải rắn thông thường
Chất thải rắn nguy hại


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hiện nay song hành cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì việc quan tâm
chăm sóc sức khoẻ con người cũng ngày càng gia tăng. Đó là nhiệm vụ quan trọng
của ngành Y tế. Nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc
sức khoẻ của nhân dân, hệ thống các cơ sở y tế không ngừng được tăng cường, mở
rộng và hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, hệ thống y tế đặc biệt là
các bệnh viện đã thải ra môi trường một lượng lớn chất thải y tế có chứa nhiều loại
vi khuẩn,virus gây các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Cho đến nay công tác quản lý chất thải tại hầu hết các bệnh viện chưa thực
hiện triệt để từ khâu thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý. Vì thế các chất thải y
tế phát sinh từ hoạt động bệnh viện đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng xã hội.
Thành phố Vinh là trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế lớn của tỉnh Nghệ An.
Là nơi tập trung đông dân cư và các bệnh viên công tư, đáp ứng cơ bản tốt yêu cầu
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân trên địa bàn thành phố và dân cư các
địa phương khác trong và ngoài tỉnh bên cạnh dó việc phát sinh chất thải cũng như

công tác quản lý tại các bệnh viện và các trạm y tế trên thành phố còn nhiều hạn
chế. Do vậy, vấn đề chất thải rắn y tế đang trở nên bức xúc tại các bệnh viện và đe
dọa đến sức khỏe củamỗi người dân thành phố. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài
“Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quản lý chất thải rắn y tế
trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An” để đưa ra các thông tin về hiện trạng
chất thải rắn y tế tại các bệnh viện trên địa bàn thành phố Vinh.Từ đó có cái nhìn
chính xác và có biện pháp hợp lý cho công tác bảo vệ môi trường tại bệnh viện nói
riêng và các cơ sở y tế nói chung, góp phần thực hiện tốt vai trò nhiệm vụ chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân và bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá được hiện trạng chất thải rắn y tế trên địa bàn thành phố Vinh. Tỉnh
Nghệ An. Từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý nhắm nâng cao công tác quản lý
chất thải rắn y tế trên địa bàn, góp phần cải thiện chất lượng môi trường tại địa
phương.

6


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan chung về chất thải rắn y tế
1.1.1. Giới thiệu về chất thải rắn y tế
Chất thải y tế: Theo Quy Chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y Tế) thì Chất thải y
tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải
y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải nguy hại là chất thải chứa các yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm,
dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác (Luật Bảo
Vệ Môi Trường 2014)
Chất thải y tế nguy hại là chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại cho sức khỏe
con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ,
dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải này không được tiêu

hủy an toàn.
Quản lý chất thải y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu, thu
gom, vận chuyển, lưu trữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải y
tế và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Thu gom chất thải tại nơi phát sinh là quá trình phân loại, tập hợp, đóng gói
và lưu trữ tạm thời chất thải tại địa điểm phát sinh chất thải trong cơ sở y tế.
Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi phát sinh, tới
nơi xử lý ban đầu, lưu trữ, tiêu hủy.
Xử lý và tiêu hủy chất thải là quá trình sử dụng các công nghệ nhằm làm mất
khả năng gây nguy hại của chất thải đối với sức khỏe con người và môi trường.
(Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT).
1.1.2. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế
Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế chủ yếu là: bệnh viện, các cơ sở y tế khác
như trung tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản phụ khoa, nhà hộ sinh, phòng
khám ngoại trú, trung tâm lọc máu..., các trung tâm xét nghiệm và nghiên cứu y
sinh học, ngân hàng máu... Hầu hết các CTR y tế đều có tính chất độc hại và tính

7


đặc thù khác với các loại CTR khác. Các nguồn xả chất lây lan độc hại chủ yếu là ở
các khu vực xét nghiệm, khu phẫu thuật, bào chế dược.
Bảng 1.1: Nguồn phát sinh các loại CTR đặc thù từ hoạt động y tế
Loại CTR
Chất thải sinh hoạt

Nguồn tạo thành
Các chất thải từ nhà bếp, các khu nhà hành chính, các loại
bao gói...


Chất thải chứa các Các phế thải từ phẫu thuật, các cơ quan nội tạng của người
vi trùng gây bệnh

sau mổ xẻ và của các động vật sau quá trình xét nghiệm, các
gạc bông lẫn máu mủ của bệnh nhân...

Chất thải bị nhiễm Các thành phần thải ra sau khi dùng cho bệnh nhân, các chất
bẩn

thải từ quá trình lau cọ sàn nhà...

Chất thải đặc biệt

Các loại chất độc hại hơn các loại trên, các chất phóng xạ,
hóa chất dược từ các khoa khám, chữa bệnh, hoạt động thực
nghiệm, khoa dược...
(Nguồn: Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2011)

1.1.3. Thành phần chất thải rắn y tế
Hầu hết các CTR y tế là các chất thải sinh học độc hại và mang tính đặc thù
so với các loại khác. Các loại chất thải này nếu không được phân loại cẩn thận trước
khi thải chung với các loại chất thải khác sẽ gây ra những nguy hại đáng kể.
Xét về các thành phần chất thải dựa trên đặc tính lý hóa thì tỷ lệ các thành
phần có thể tái chế là khá lớn, chiếm trên 25% tổng lượng CTR y tế, chưa kể 52%
CTR y tế là các chất hữu cơ. Trong thành phần CTR y tế có lượng lớn chất hữu cơ
và thường có độ ẩm tương đối lớn, ngoài ra còn có thành phần chất nhựa chiếm
khoảng 10%, vì vậy khi lựa chọn công nghệ thiêu đốt cần lưu ý đốt triệt để và
không phát sinh khí độc hại (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2011).
Trong CTRYT, các thành phần nguy hại chiếm khoảng 10-25%, bao gồm:
Mô bệnh phẩm và cơ quan người từ các phòng mổ và tiểu phẫu, các bệnh phẩm

nuôi cấy, mô hoặc xác động vật từ phòng thí nghiệm thải ra, các chất thải nhiễm

8


trùng từ phòng cách ly và các khoa truyền nhiễm, các bông băng thấm dịch hoặc
máu, kim tiêm, ống tiêm, lọ thuốc, dược phẩm hư hỏng...( Bộ Y Tế 2011)
1.1.4. Phân loại chất thải rắn y tế
a. Phân loại theo tổ chức y tế thế giới (WHO)
Chất thải thông thường: Đó là các chất thải không độc hại, về bản chất tương
tự như rác thải sinh hoạt.
Chất thải là bệnh phẩm: Mô, cơ quan, phần tử bào thai người, xác động vật
thí nghiệm, máu dịch thể.
Chất thải chứa phóng xạ: Chất thải từ quá trình chiếu chụp X quang, phân
tích tạo hình cơ quan trong cơ thể, điều trị và khu trị khối u...
Chất thải hóa học: Có tác dụng độc hại, ăn mòn, gây cháy hay nhiễm độc gen
không độc.
Chất thải nhiễm khuẩn: Gồm các chất thải chứa tác nhân gây bệnh như vi
sinh vật kiểm định, bệnh phẩm bệnh nhân bị cách ly hoặc máu nhiễm khuẩn...
Các vật sắc nhọn: Kim tiêm, lưỡi dao, kéo mổ, chai lọ vỡ... có thể gây
thương tích cho người và vật.
Dược liệu dư thừa, quá hạn sử dụng.
b. Phân loại theo Việt Nam
Theo Quy chế Quản lý chất thải y tế ban hành theo quyết định số
43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y Tế, chất thải trong các cơ sở y tế
được phân thành 5 nhóm sau: Chất thải lây nhiễm, chất thải hóa học nguy hại, chất
thải phóng xạ, bình chứa áp suất, chất thải thông thường.

 Chất thải lây nhiễm
Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc

thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền,
lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn
khác sử dụng trong các loại hoạt động y tế.
Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải bị thấm máu, thấm
dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
9


Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh trong các
phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm.
Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể
người: rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.

 Chất thải hóa học nguy hại
Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
Chất gây độc tế bào, gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc gây độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng hóa trị liệu .
Chất thải chứa kim loại nặng: thủy ngân, cadimi, chì.

 Chất thải phóng xạ
Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát sinh từ các hoạt động chẩn
đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất.

 Bình chứa áp xuất
Bao gồm bình đựng oxy, CO2, bình ga, bình khí dung. Các bình này dễ gây
cháy, gây nổ khi thiêu đốt.

 Chất thải thông thường
Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa học
nguy hại, phóng xạ, dễ cháy nổ, bao gồm:

Chất thải sinh hoạt phát sinh từ buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).
Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ thủy
tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy xương kín.
Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại.
Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng cat tông, túi nilon, túi đựng phim.
Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
Chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế. (Phụ Lục2)
1.1.5. Đặc điểm về chất thải rắn y tế tại các nguồn phát sinh
Theo báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2011, lượng chất thải phát
sinh tại các bệnh viện như sau:
10


Bảng 1.2: Lượng chất thải phát sinh tại các bệnh viện
Tổng lượng chất thải

CTYT nguy hại

(kg/giường bệnh/ ngày)

(kg/giường bệnh/ngày)

Bệnh viện TW

0,97

0,16

Bệnh viện tỉnh

Bệnh viện huyện
Trung bình

0,88
0,73
0,86

Tuyến bệnh viện

0,14
0,11
0,14
(Nguồn: Bộ Y Tế, 2011)

Lượng chất thải phát sinh của các bệnh viện tuyến Trung Ương, tuyến tỉnhvà
tuyến huyện có hệ số phát thải chất thải rắn y tế dao động khá lớn về tổng lượngthải
cũng như tỷ lệchất thải nguy hại. Các khoa trong bệnh viện có khối lượng chất thải
phát sinh khác nhau tùythuộc vào đặc thù của từng khoa.
1.2. Các phương pháp xử lý chất thải rắn y tế
1.2.1. Tái chế chất thải bệnh viện
Các vật liệu thuộc chất thải thông thường không dính, chứa các thành phần
nguy hại (lây nhiễm, chất thải hóa học nguy hại, chất phóng xạ, thuốc gây độc tế
bào) được phép thu gom phục vụ mục đích tái chế, bao gồm:
-

Nhựa: Chai nhựa đựng các dung dịch không có chất hóa học nguy hại (dung dịch
NaCl 0,9%, glucose, natri bicacbonate,..) và các vật liệu nhựa khác không dính các

-


thành phần nguy hại.
Thủy tinh: Chai, lọ thủy tinh đựng các dung dịch không chứa các thành phần nguy

-

hại.
Giấy: Giấy, báo, bìa, thùng các – tông, vỏ hộp thuốc và các vật liệu giấy.
Kim loại: các vật liệu kim loại không dính các thành phần nguy hại (Bộ y tế, 2008).
1.2.2. Công nghệ đốt
Phương pháp đốt là phương pháp oxy hóa ở nhiệt độ cao với sự có mặt của
oxy trong không khí, trong đó chất thải sẽ được chuyển hóa thành khí và các chất
trơ không cháy. Kết quả là tiêu diệt hoàn toàn vi sinh vật, giảm được 95% thể tích
và khối lượng chất thải, làm thay đổi hoàn toàn trạng thái vật lý của chất thải. Lò
đốt thiết kế chuyên dùng cho xử lý chất thải bệnh viện được vận hành trong khoảng
11


nhiệt độ từ 700 đến 12000C. Phương pháp đốt áp dụng chủ yếu cho chất thải lây
nhiễm, chất thải gây độc tế bào, không áp dụng cho các hóa chất có hoạt tính phản
ứng, bình chứa khí có áp suất, các chất nhựa có chứa halogen như PVC vì phát thải
dioxin (Đặng Kim Chi và cs, 2011). Phương pháp đốt có ưu điểm là với nhiệt độ
cao thì CTRYT nguy hại được xử lý triệt để, loại trừ được các mầm bệnh trong các
chất thải lây nhiễm, giảm tối đa thể tích chôn sâu sau khi xử lý. Tuy nhiên đốt ở
nhiệt độ không đủ theo quy định có thể phát sinh khí thải gây ô nhiễm không khí;
chi phí đầu tư xây dựng và quản lý vận hành cao (Bộ Xây dựng, 2012).
1.2.3. Công nghệ không đốt, thân thiện với môi trường
Hiện nay, có hai loại công nghệ thân thiện với môi trường chủ yếu được lựa
chọn thay thế các lò đốt CTRYT là công nghệ khử khuẩn bằng nhiệt ẩm và công
nghệ có sử dụng lò vi sóng.
Công nghệ khử khuẩn bằng nhiệt ẩm: bản chất là tạo ra môi trường hơi nước

nóng với áp suất cao để khử khuẩn CTRYT. Công nghệ này thường phải sử dụng
thêm hóa chất để đảm bảo hiệu quả khử tiệt khuẩn ổn định, do đó làm tăng chi phí
vận hành của hệ thống.
Công nghệ sử dụng vi sóng: bao gồm sử dụng vi sóng thuần túy trong điều
kiện áp suất bình thường và sử dụng vi sóng kết hợp hơi nước bão hòa trong điều
kiện nhiệt độ áp suất cao.
Loại sử dụng vi sóng thuần túy trong điều kiện bình thường là tạo điều kiện
khử tiệt khuẩn ở nhiệt độ khoảng 100oC với áp suất không khí thông thường. Do
vậy, hệ thống vận hành đơn giản hơn nhưng tốn thời gian xử lý cho mỗi mẻ đồng
thời hiệu quả chỉ đạt 99,9% (Đặng Kim Chi và cs, 2011).
Loại công nghệ sử dụng vi sóng kết hợp hơi nước bão hòa: có tác dụng phá
hủy cấu trúc tế bào và tiêu diệt tất cả các loại mầm bệnh. Nhờ đó sau khi xử lý, chất
thải lây nhiễm trở thành chất thải thông thường mà không tạo ra khói bụi, không xả
ra nước thải cũng như không sử dụng hóa chất để tiệt trùng nên hoàn toàn thân thiện
với môi trường (Nguyễn Thị Kim Thái, 2011).

12


1.2.4. Phương pháp trơ hóa (cố định và đóng rắn)
Bản chất của quá trình xử lý là chất thải nguy hại được trộn với phụ gia hoặc
bê tông để đóng rắn chất thải nhằm không cho các thành phần ô nhiễm lan truyền ra
ngoài. Các chất phụ gia vô cơ thường dùng là: vôi, xi măng porand, bentonic,
pizzolan, thạch cao, silicat. Các chất phụ gia hữu cơ: epoxy, polyester, nhựa asphalt,
polyolefin, ure formaldehit.
Theo Quy chế quản lý CTRYT ban hành kèm theo Quyết định số
43/2007/QĐ – BYT ngày 30/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế, tỷ lệ các chất pha
trộn. Sau khi tạo thành một khối đồng chất dưới dạng cục thì đem đi chôn.
1.2.5. Phương pháp chôn lấp an toàn
Chỉ áp dụng tạm thời đối với các cơ sở y tế các tỉnh, miền núi và trung du có

cơ sở xử lý CTRYT nguy hại đạt tiêu chuẩn tại địa phương. Hố chôn lấp phải đáp
ứng các yêu cầu: có hàng rào vây quanh, cách xa giếng nước, xa nhà tối thiểu 100m,
đáy hồ cách mức nước bề mặt tối thiểu 1,5m, miệng hố nhô cao và che tạm thời để
tránh nước mưa, mỗi lần chôn chất thải phải đổ trên mặt hố lớp đất dày từ 10 –
25cm và lớp đất trên cùng dày 0,5m. Không chôn chất thải lây nhiễm lẫn với chất
thải thông thường. Chất thải lây nhiễm phải được khử khuẩn trước khi chôn lấp (Bộ
Y tế, 2008).
1.3. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với môi trường và cộng đồng
1.3.1. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường
a. Đối với môi trường nước
Nguồn nước có thể bị nhiễm bẩn do các chất độc hại có trong chất thải bệnh
viện. Chúng có thể chứa vi sinh vật gây bệnh hoặc chứa kim loại nặng (phần lớn là
thủy ngân từ nhiệt kế và bạc từ quá trình tráng rửa phim X quang). Một số dược
phẩm nhất định, nếu xả thải mà không hợp lý có thể gây nhiễm độc nguồn nước
cấp. Bên cạnh đó, việc xả thải bữa bãi chất thải lâm sàng, ví dụ xả chung chất thải
lây nhiễm vào chất thải thông thường, có thể tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm nguồn
nước do làm tăng BOD. Ngoài ra, nước thải bệnh viện còn chứa nhiều hóa chất độc

13


hại, phóng xạ, tác nhân gây bệnh có khả năng lây nhiễm cao như Samonella,
coliform, tụ cầu, liên cầu,...
b. Đối với môi trường đất
Khi chất thải rắn y tế được chôn lấp không đúng cách thì các vi sinh vật gây
bệnh, hóa chất độc hại có thể ngấm vào đất gây nhiễm độc đất làm cho việc tái sử
dụng bãi chôn lấp gặp khó khăn.
Chất thải rắn gồm chất thải y tế, chất thải công nghiệp và chất thải thải sinh
hoạt không được xửlý sẽ gây ô nhiễm môi trường đất. Các nguồn thải này chứa
nhiều các chất gây ô nhiễm về mặt sinh học (chất thải y tế, rác thải sinh hoạt), các

yếu tố hoá học và các hoá chất độc hại (chất tẩy rửa, kim loại nặng...) tích tụ lâu dài
trong đất sẽ gây ô nhiễm môi trường.
c. Đối với môi trường không khí
Nguy cơ ô nhiễm không khí tăng lên khi phần lớn chất thải nguy hại được
thiêu đốt trong điều kiện lý tưởng. Việc thiêu đốt không đủ nhiệt độ trong khi rác
thải đưa vào quá nhiều sẽ gây ra nhiều khói đen.Việc đốt chất thải rắn y tế đựng
trong túi nilon PVC, cùng với các loại dược phẩm nhất định, có thể tạo ra khí axit,
thường là HCl, SO2. Trong quá trình đốt các dẫn xuất halogen (F, CL, Br, I...) ở
nhiệt độ thấp, thuờng tạo ra axit như hydrochloride. Điều đó dẫn đến nguy cơ tạo
thành dioxins, một loại hóa chất vô cùng độc hại, ngay cả ở nồng độ thấp. Các kim
loại nặng, như thủy ngân, có thể phát thải theo khí lò đốt. Những nguy cơ môi
trường này có thể tác động tới sinh thái và sức khỏe con người trong dài hạn.
(Nguồn: Bộ Y tế, 2010)
1.3.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng
Phơi nhiễm với chất thải rắn y tế nguy hại có thể gây ra bệnh tật hoặc thương
tích. Tất cả các cá nhân phơi nhiễm với chất thải nguy hại, cả những người ở trong
hay ở ngoài bệnh viện đều có nguy cơ tiềm ẩn bị phơi nhiễm các chất thải y tế nguy
hại. Những đối tượng dễ dàng bị phơi nhiễm bao gồm các cán bộ, nhân viên y tế,
bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, công nhân thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải.
Ngoài ra, công nhân làm việc trong bộ phận hỗ trợ thu gom chất thải, vận chuyển
14


rác, giặt là, công nhân trong cơ sở xử lý và tiêu thụ chất thải như bãi rác hoặc lò đốt,
kể cả những người lượm nhặt rác, đều có thể bị phơi nhiễm chất thải y tế nguy hại.
a. Nguy cơ chất thải lây nhiễm

Nguy cơ chất thải lây nhiễm gồm vi sinh vật gây bệnh có trong chất thải.
Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua nhiều đường khác nhau như vết
thương, vết cắt trên da, niêm mạc, hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hóa... Sự xuất hiện

các loại vi khuẩn kháng kháng sinh và kháng hóa chất khử khuẩn có thể liên quan
đến thực trạng quản lý, xử lý chất thải y tế không an toàn. Theo thống kê có khoảng
80% nhiễm trùng HIV, HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích vi vật sắc nhọn
và kim tiêm. Ngoài ra, việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý không an toàn chất thải y
tế lây nhiễm bao gồm cả chất nhựa và các vật sắc nhọn có thể có tác động lâu dài
đến sức khỏe của cộng đồng người dân.
b. Nguy cơ tác động của chất thải hoá học và dược phẩm

Nhiều loại hoá chất và dược phẩm được sử dụng trong các cơ sở y tế là chất
nguy hại (ví dụ chất gây độc, ăn mòn, dễ cháy, gây phản ứng, gây sốc, gây độc)
nhưng thường ở khối lượng thấp. Phơi nhiễm cấp tính hoặc mãn tính đối với hóa
chất qua đường da niêm mạc, qua đường hô hấp, tiêu hóa. Tổn thương da, mắt và
niêm mạc đường hô hấp có thể gặp tiếp xúc với hóa chất gây cháy, gây ăn mòn, gây
phản ứng (ví dụ formaldehyde và các chất dễ bay hơi khác). Trong quá trình thu
gom, vận chuyển và lưu giữ, chất thải nguy hại có thể bị rò thoát, đổ tràn có thể gây
ra đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện trong nhân viên và bệnh nhân, hoặc gây ô
nhiễm đất và nước.
c. Nguy cơ của chất thải là thuốc tế bào

Nhiều thuốc điều trị ung thư là các thuốc gây độc tế bào. Chúng có thể gây
kích thích hay gây tổn thương cục bộ trên da và mắt, cũng có thể gây chóng mặt,
buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da. Nhân viên bệnh viện, đặc biệt là những người chịu
trách nhiệm thu gom chất thải, có thể phơi nhiễm với các thuốc điều trị ung thư qua

15


hít thở hoặc hạt lơ lửng trong không khí, hấp thu qua da, tiêu hóa qua thực phẩm vô
tình nhiễm bẩn với thuốc gây độc tế bào.
d. Nguy cơ và tác động của chất phóng xạ


Những bệnh do chất phóng xạ gây ra được xác định bởi liều lượng và kiểu
phơi nhiễm. Nó có thể gây ra hàng loạt các dấu hiệu như đau đầu, ngủ gà, nôn, đồng
thời ảnh hưởng đến chất liệu di truyền.
Loại bệnh và hội chứng gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi các
chất thải, đối tượng và phạm vi tiếp xúc. Chất thải phóng xạ cũng như chất thải
dược phẩm là một loại độc hại tới tế bào, gen, và cũng có thể ảnh hưởng tới các yếu
tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như: các
nguồn phóng xạ của các phương tiện chuẩn đoán như máy Xquang, máy chụp cắt
lớp, v.v. Có thể gây ra một loạt các tổn thương chẳng hạn như phá huỷ các mô,
nhiều khi gây bỏng cấp tính. Trên thế giới các nguồn phóng xạ được sử dụng rộng
rãi trong y học và trong những ứng dụng khác. Năm 1988, tại Brazil có 4 người chết
vì hội chứng phóng xạ cấp tính và 28 người bị phóng xạ nặng. Các tai nạn tương tự
cũng đã từng xảy ra ở Thành phố Mêxicô năm 1962, Algeria năm 1983 (Khoa
chống nhiễm khuẩn, 2010).
Chính vì những hậu quả do chất thải y tế gây ra mà ta cần có những biện
pháp phòng tránh sau :
-

Có thể thay thế hoặc giảm lượng hoá chất độc hại sử dụng.
Cung cấp các phương tiện bảo hộ cho tất cả những người tiếp xúc trực tiếp với hoá

-

chất.
Thiết kế hệ thống thông gió phù hợp, huấn luyện các biện pháp phòng hộ và các
trường hợp cấp cứu cho những người liên quan.
e. Tính nhạy cảm xã hội
Bên cạnh việc lo ngại đối với những nguy cơ lây bệnh của chất thải rắn y tế
tác động lên sức khoẻ, cộng đồng thường cũng rất nhạy cảm với những ấn tượng

tâm lý, ghê sợ đặc biệt là khi nhìn thấy loại chất thải thuộc về giải phẫu, các bộ
phận cơ thể bị cắt bỏ trong phẫu thuật như: chi thể, dạ dày, các khối u, rau thai, bào
thai nhi, máu, tổ chức hoại tử, dập nát.
16


f . Ảnh hưởng của khí thải lò đốt chất thải rắn (ảnh hưởng gián tiếp từ việcchất
thải rắn không được xử lý đúng quy định khi thiêu đốt)
Lò đốt chất thải rắn y tế bị hạn chế và do những bất cập rất phức tạp, khó
giải quyết và gây ảnh hưởng nặng nề đến các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường cho
phát triển bền vững. Lò đốt chất thải rắn y tế là nguồn chính tạo ra Dioxin (chất độc
hóa học màu da cam), Furan, thuỷ ngân hữu cơ vào môi trường không khí. Dioxin
khó phân hủy,chu kỳ bán rã từ 25 đến 100 năm, phán tán rộng và thông qua nhiều
con đường như không khí, chuỗi thức ăn, nước uống… để xâm nhập vào con người,
gây nhiều bệnh nguy hiểm:
-

Ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thần kinh các thế hệ sau thông qua tác động đến hệ

-

thống miễn dịch, máu và sinh sản.
Bệnh bạch huyết mạn tính, ung thư đường hô hấp, ung thư tiền liệt tuyến.
Giảm khả năng sinh sản của nam giới: giảm số lượng tinh trùng, dị thường tinh

-

hoàn, giảm hormone sinh dục.
Giảm khả năng sinh sản của nữ giới: rối loạn hoạt động của buồng trứng, giảm


-

hormone sinh dục nữ.
Gây ra các bệnh chung cho cả 2 giới như bệnh tiểu đường type 2, các bệnh về gan,
lách, tuỷ xương, hệ miễn dịch.
g. Tác động về kinh tế do gia tăng gánh nặng bệnh tật
Tuy chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về ô nhiễm môi trường từ hoạt động
y tế gây ảnh hưởng đến sức khỏe cho ngưòi dân sống xung quanh và từ đó gây tổn
thất kinh tế cho khám chữa bệnh và các thiệt hại thu nhập do bị bệnh.
Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến sức khoẻ bao gồm các
khoản chi phí: chi phí khám và thuốc chữa bệnh, tổn thất mất ngày công lao động
do nghỉ ốm, tổn thốt thời gian của người nhà chăm sóc ngưòi ốm,... tổng chi phí
khám chữa bệnh đưòng hô hấp, thiệt hại kinh tế do nghỉ việc vì ốm đau đối với
ngưòi lớn và chi phí nghỉ việc để chăm sóc trẻ em cũng như người lớn bị mắc bệnh
đường hô hấp.
h. Thiệt hại kinh tế và phát sinh xung đột môi trường
Chất thải từ hoạt động của các bệnh viện nếu không được xử lý sẽ gây ô
nhiễm môi trường nước mặt, nước ngầm, đất, không khí và từ đó gây ra những tổn
17


thất kinh tế để xử lý khi môi trường bị ô nhiễm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới, Việt Nam có thể phải chịu tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP
hàng năm.
Trong những năm gần đây, khi xã hội càng phát triển, nhận thức của cộng
đồng càng cao thì số các vụ xung đột môi trường càng nhiều. Tại Nghệ An, trong
thời gian qua cũng đã có những vụ kiện tụng của người dân sống xung quanh khu
vực bệnh viện do việc xả thải nước thải và khí thải ra môi trường. Xung đột giữa
các bệnh viện gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt do khí thải từhoạt động của các lò
đốt, với cộng đồng dân cư sống xung quanh do ô nhiễm ảnhhưởng đến sinh hoạt và

sức khoẻ của cộng đồng hoặc ảnh hưởng đến các hoạt động văn hoá, du lịch và cảnh
quan khác. Các xung đột này chủ yếu mang tính tự phát, nhiều vụ manh động, gây
mất trật tự xã hội.
1.4. Hiện trạng phát sinh và công tác quản lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam
1.4.1. Hiện trạng phát sinh chất thải rắn y tế ở Việt Nam
Hiện nay, nước ta có khoảng 13.640 cơ sở khám bệnh với lượng chất thải rắn
bệnh viện phát sinh khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có 47 tấn/ngày là chất thải rắn y
tế nguy hại (Nhật Minh, 2012).
Lượng chất thải rắn y tế phát sinh trong ngày khác nhau giữa các bệnh viện
tùy thuộc số giường bệnh, bệnh viện chuyên khoa hay đa khoa, các thủ thuật chuyên
môn được thực hiện tại bệnh viện, số lượng vật tư tiêu hao được sử dụng.

18


Bảng 1.3: Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Đơn vị: kg/giường/ngày

Bệnh
viện
Tỉnh
0,88
1,27

Tổng lượng chất thải y tế nguy
hại
Bệnh
Bệnh Bệnh Bệnh
Trung
Trung

viện
viện
viện
viện
bình
bình
Huyện
TW
Tỉnh Huyện
0,73
0,86
0,16
0,14
0,11
0,14
1,00
0,30
0,31
0,18

0,47
0,41
0,87
0,95
0,68

0,45
0,45
0,73
0,74

0,34

0,04
0,04
0,26
0,21
0,12

0,03
0,05
0,21
0,22
0,10

0,02
0,02
0,17
0,17
0,08

0,10

0,08

0,03

0,03

0,03


0,70

0,56

0,14

0,13

0,09

Tổng lượng chất thải phát sinh
Bệnh
viện
TW
Bệnh viện 0,97
Hồi sức 1,08
cấp cứu
Nội
0,64
Nhi
0,50
Ngoại
1,01
Sản
0,82
Mắt/TM
0,66
H
Cận lâm 0,11
sàng

Trung
0,72
bình
Khoa

(Nguồn: Bộ Y Tế, 2011)
Về thành phần: lượng chất thải phóng xạ chiếm lượng nhỏ 0,38%, lượng xả
bình áp suất hàng ngày cũng nhỏ 0,01%, chất thải lây nhiễm là 18,39%, chất thải
hóa học nguy hại chiếm 2,67%, rác thải sinh hoạt 78,6%. Thành phố Hồ Chí Minh
có tỷ lệ chất thải lây nhiễm cao đến 22,12% lượng chất thải phóng xạ là 0,59%, chất
thải nguy hại 4,76%, rác sinh hoạt 72,54%. (Ngô Kim Chi, 2012)
1.4.2. Tình hình quản lí chất thải rắn y tế Việt Nam
Quản lý chất thải y tế được ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch bảo vệ môi
trường tại Việt Nam. Bộ Y Tế đã ban hành quy chế quản lý chất thải y tế của Việt
Nam theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Tuy nhiên, trong thời gian
qua, các bệnh viện chỉ mới chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng
cường số lượng giường bệnh mà chưa quan tâm đến công tác thu gom, xử lý chất
thải.
19


Hiện nay, hoạt động quản lý rác thải bệnh viện được thực hiện theo quy chế
quy định và một số văn bản pháp luật như:
-

Thông tư số: 43/2007/QĐ-BYT về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế.
Thông tư số: 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại.
Nghị Định số: 38/2015/NĐ-CP về quản lý chât thải và phế liệu của Bộ Tài Nguyên

-


& Môi Trường.
Nghị định số: 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính

-

trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nghị định số: 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ quy định về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn (CTR).
Tại quyết định số: 43/2007/QĐ-BYT của Bộ y tế ban hành ngày 30/11/2007
được quy định như sau:

-

Màu xanh: Đựng chất thải sinh hoạt, các bình áp xuất nhỏ
Màu vàng: Đựng chất thải lây nhiễm
Màu đen: Đựng chất thải hóa học nguy hại và chất thải phóng xạ
Màu trắng: Đựng chất thải tái chế
Thùng có nắp đậy kín: Chứa chất thải sắc nhọn (ống kim tiêm, bơm tiêm).
Theo quy chế này thì rác thải y tế được phân loại thành rất nhiều nhóm, đặc
biệt là chất thải lây nhiễm bao gồm các tế bào, mô... (ví dụ: nhau thai phụ sản,
những phần cơ thể bị loại bỏ trong quá trình khám chữa bệnh và điều trị....).
Cũng theo quy định này thì chất thải lây nhiễm phải được xử lý ngay. Tuy nhiên các
bệnh viện không có điều kiện xử lý tại chỗ rác thải loại này, có thể phải thu gom
trong một thời gian nhất định rồi mới vận chuyển rác đến nơi xử lý (thường là các
đơn vị có chức năng xử lý hoặc theo khuyến cáo của Bộ/Sở Y tế).
Theo Bộ Y Tế, khoảng 2/3 bệnh viện chưa áp dụng được phương pháp tiêu
huỷ rác thải đảm bảo vệ sinh. Hầu hết rác thải y tế bệnh phẩm chưa được phân
theo đúng chủng loại, chưa được khử khuẩn khi thải bỏ. Nhà lưu chứa không đúng
tiêu chuẩn, không đảm bảo vệ sinh và có nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng. Rác

thải y tế ở một số địa phương hiện đang là một trong những vấn đề bức xúc, bởi
ngay cả ở các bệnh viện thuộc tuyến tỉnh hiện nay nhiều địa phương vẫn chưa có
lấy một nơi tập kết chất thải.

a. Công tác thu gom, phân loại và vận chuyển chất thải rắn y tế

20


Công tác thu gom, lưu giữ chất thải y tế nói chung đã được quan tâm bởi các
cấp từ trung ương đến địa phương, thể hiện ở mức độ thực hiện quy định ở các bệnh
viện khá cao.
Có 95,6% bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải trong đó có 91,1% đã sử
dụng tách riêng vật sắc nhọn. (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2011).
Chất thải rắn y tế phát sinh từ các cơ sở khám bệnh trực thuộc sự quản lý của
Bộ Y Tế, phần lớn được thu gom và vận chuyển đến khu vực lưu trữ sau đó được
xử lý tại các lò thiêu.
Phương tiện thu gom còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn.
Nguyên nhân do có rất ít nhà sản xuất quan tâm đến mặt hàng này. Do vậy việc mua
sắm phương tiện thu gom chất thải rắn bệnh viện gặp khó khăn. Các cơ sở y tế của
5 thành phố điển hình là Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí
Minh, hầu hết các bệnh viện sử dụng thùng nhựa có bánh xe, xe tay, các dụng cụ
vận chuyển bằng tay khác.
Chất thải rắn y tế được thu gom phân loại và vận chuyển về khu trung
chuyển tại bệnh viện. Hầu hết các điểm tập trung chất thải rắn y tế được bố trí trên
một khu đất bên trong khuôn viên bệnh viện thành một khu trung chuyển. Các khu
trung chuyển có điều kiện vệ sinh không đảm bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do
vật sắc nhọn rơi vãi, côn trùng dễ dàng xâm nhập ảnh hưởng đến môi trường bệnh
viện.
Chất thải rắn y tế được nhân viên của Công Ty Môi Trường Đô Thị đến thu

gom các túi chất thải tại khu vực trung chuyển của bệnh viện, các nhân viên bệnh
viện lẫn nhân viên của công ty môi trường đô thị đều chưa được đào tạo, hướng dẫn
về những nguy cơ có liên quan đến việc thu gom, vận chuyển và tiêu hủy CTRYT
nguy hại. Qua điều tra cho thấy đa số các nhân viên bệnh viện không biết nơi thiêu
hủy cuối cùng của bệnh viện ở đâu.
Việc phối hợp liên ngành kém hiệu quả trong mọi công đoạn của quy định
quản lý chất thải bệnh viện.
b. Xử lý và tái chế

21


Chất thải y tế không nguy hại ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều do công ty
môi trường đô thị thu gom, vận chuyển và được xử lý tại các khu xử lý chất thải rắn
tập trung của địa phương.
Hoạt động thu hồi và tái chế CTRYT tại Việt Nam đang thực hiện không
theo đúng quy chế quản lý chất thải y tế đã ban hành. Chưa có các cơ sở chính
thống thực hiện hoạt động thu mua và tái chế các loại chất thải từ hoạt động y tế ở
Việt Nam. Quy chế quản lý chất thải y tế (2007) đã bổ sung nội dung tái chế
CTRYT không nguy hại làm căn cứ để các cơ sở y tế thực hiện. Tuy nhiên, nhiều
địa phương chưa có cơ sở tái chế, do vậy việc quản lý tái chế các CTRYT không
nguy hại còn gặp nhiều khó khăn. Một số vật liệu từ chất thải bệnh viện như: chai
dịch truyền chứa dung dịch huyết thanh ngọt (đường, glucose 5%, 20%), huyết
thanh mặn (NaCl 0,9%), các dung dịch acide amine, các loại muối khác, các loại
bao gói nilon và một số chất nhựa khác, một số vật liệu giấy, thủy tinh hoàn toàn
không có yếu tố nguy hại có thể tái chế việc thiêu đốt chất thải gây ô nhiễm (Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường, 2011).
Đối với CTRYT nguy hại . Khối lượng chất thải rắn y tế được xử lý đạt tiêu
chuẩn chiếm 68% tổng lượng phát sinh CTRYT nguy hại trên toàn quốc, CTRYT
xử lý không đạt chuẩn (32%) là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và sức khỏe

cộng đồng. Các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã có xí
nghiệp xử lý chất thải rắn y tế nguy hại vận hành đốt, tổ chức thu gom, xử lý, tiêu
hủy chất thải rắn y tế nguy hại cho toàn bộ cơ sở y tế địa bàn. Nếu xét mức độ xử lý
của các cơ sở y tế theo tuyến trung ương và địa phương, các cơ sở trực thuộc Bộ Y
Tế có mức độ đầu tư xử lý CTRYT nguy hại cao hơn hẳn các cơ sở tuyến địa
phương (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2011).
Theo số liệu thống kê của Bộ Y Tế, chỉ có 1/3 số chất thải rắn được đốt bằng
lò đốt hiện đại, số còn lại được tiêu hủy bằng nhiều hình thức như thiêu ngoài trời
(15,3%), đốt bằng lò thủ công (13,9%), chôn trong khuôn viên bệnh viện (33,3%).
Nhìn chung, các lò đốt CTR y tế nguy hại còn nhiều hạn chế, tập trung vào
các vấn đề sau: chi phí đầu tư, hiêụ suất vận hành, chi phí xử lý khí thải lớn. Giá
22


nhiên liêu quá cao dẫn đến nhiều cơ sở không đốt hoặc đốt không đảm bảo. Thiếu
phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất đốt và chất thải (khí, nước thải từ
bồn ngưng tụ xử lý khí). Hơn nữa, do chất đốt thường đươc sử dụng là dầu diezel
nên rất khó đảm bảo đủ và đúng yêu cầu nhiêt độ khi vận hành (nhiệt trị của dầu
thấp, và bắt buộc phải lưu thông khí khi đốt). Nếu phân loại rác không đúng sẽ gây
tốn kém khi đốt cả rác thường, không kiểm soát được khí thải lò đốt, dẫn đến phí xử
lý khí thải lớn.
Nhìn chung công tác quản lý chất thải của nhiều bệnh viện còn lỏng lẻo, có
hiện tượng nhân viên bán chất thải ra ngoài và gây nguy cơ lây lan dịch bệnh. Nhiều
cơ sở kinh doanh không có giấy phép nhưng vẫn tiến hành xử lý chất thải bệnh
viện, lượng CTRYT cũng như CTRYT nguy hại ngày càng gia tăng… Trước thực
trạng đó, ngày 15/11/2011, thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Đề Án tổng thể xử lý
và giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu cụ đến năm 2020, tất cả các cơ sở y tế
từ trung ương đến địa phương đều thực hiện xử lý chất thải rắn y tế đảm bảo tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
1.5. Hiện trạng phát sinh và công tác quản lý chất thải y tế tại thành phố Vinh

tỉnh Nghệ An
1.5.1. Hiện phát sinh chất thải rắn y tế
Trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An hiện có 11 bệnh viện công lập và
8 bệnh viện tư nhân. Theo khảo sát của Sở Y tế năm 2011, mỗi ngày các bệnh
viện trong tỉnh phát sinh 12 tấn chất thải y tế trong đó có 1,7 tấn chất thải nguy
hại (chiếm 14,1%). Lượng chất thải y tế phát sinh trung bình là 1,69 kg/giường
bệnh/ngày, trong đó có 0,24 kg/giường bệnh/ngày là chất thải nguy hại. Lượng
chất thải y tế nguy hại củacác bệnh viện trong tỉnh thay đổi từ 0,03 - 0,5
kg/giường bệnh/ngày tùy từng loại bệnh viện. Bệnh viện có mức độ xả thải chất
thải nguy hại nhiều nhất là bệnh việnđa khoa, Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện
Sản Nhi. Bệnh viện có mức độ xả thải CTNH thấp nhất là bệnh viện y học cổ
truyền. (Sở Y tế năm 2011).

23


Khối lượng chất thải y tế phát sinh từ các nguồn thải nhỏ chưa được khảo
sát. Nếu ước tính mỗi cơ sở y tế dự phòng huyện xả 0,4 kg CTNH/ngày, mỗi PKĐK
xả 3 kg CTNH/ngày, 359 phòng khám tư nhân và 480 trạm y tếxã xả ra 0,15
kg/ngày cơ sở thì tổng khối lượng CTNH phát sinh từ các nguồn thảinhỏ trong tỉnh
là 199,85kg/ngày. Chất thải y tế nguy hại phát sinh từ các cơ sở y tế bao gồm: chất
thải lây nhiễm (sắc nhọn, không sắc nhọn, lây nhiễm cao, mô bệnh phẩm); chất thải
hóa học thường gặp trong y tế như dược phẩm bị hỏng hoặc quá hạn, hóa chất khử
trùng, hóa chất chứa kim loại nặng; và các bình chứa áp suất.
1.5.2. Tình hình quản lý chất thải rắn y tế tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An
a. Công tác thu gom, phân loại và vẩn chuyển chất thải rắn y tế
Theo quy định, các chất thải y tế và chất thải sinh hoạt đều được hộ lý y công
thu gom hàng ngày ngay tại khoa phòng. Mỗi khoa có từ 2-3 hộ lý, y công nhưng
thường chỉ có một người chịu trách nhiệm công việc này. Tình trạng là các cán bộ
này vẫn không có đồ bảo hộ chuyên dụng cho các nhân viên trực tiếp thu gom chất

thải tại khoa phòng.
Các đối tượng khác như bác sỹ, y tá, phần đông vẫn còn chưa được giáo dục,
huấn luyện vào để tham gia vào hoạt động quản lý chất thải.
Việc phân loại chất thải rắn y tế còn chưa đồng bộ tại các khoa phòng dẫn
đến khó khăn trong việc quản lý và ảnh hửng đến môi trường.
Trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Công ty Vệ sinh Môi trường đô thị Nghệ An
chịu trách nhiệm vận chuyển chất thải thông thường từ các cơ sở y tế đi tiêu hủy.
Công ty có đăng ký, giấy phép hành nghề, có phương tiện vận chuyển chuyên dụng,
đúng quy cách.
b. Xử lý chất thải rắn y tế
Hiện nay, thành phố Vinh đang áp dụng đồng thời 2 mô hình xử lý CTRYT
nguy hại cho các bệnh viện: mô hình xử lý tại chỗ và mô hình xử lý theo cụm cơ
sởy tế. Trên địa bàn tỉnh có 18 công trình xử lý CTYT, tất cả đều đặt trong khuôn
viên của các bệnh viện, đã được cấp giấy phép hành nghề xử lý CTNH.

 Mô hình xử lý tại chỗ
24


17 bệnh viện đang có công trình xử lý CTRYT tại chỗ là Kỳ Sơn, Tương
Dương, Anh Sơn, Thanh Chương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ,
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi
Lộc, thị xã Cửa Lò và thành phố Vinh.
Năm 2007 Bệnh viện Lao và bệnh Phổi được lắp đặt lò đốt hiệu VHI - 18B
do viện Khoa học Công nghệ và Môi trường sản xuất, công suất 20kg/giờ. Lò đốt
hoạt động từ năm 2008 đến nay thiết bị đã xuống cấp, hư hỏng nặng do phải đốt
thêm phần rác thải cho một số bệnh viện khác trong tỉnh. Tình trạng mùi khét, khói
đen thải ra từ lò đốt gây ô nhiễm môi trường xung quang. Đánh giá qua kết quả
quan trắc khí thải lò đốt ngày 30/7/2012 của công ty TNHH 1 TV Kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thì không đạt Quy chuẩn xả thải theo quy định.


 Mô hình xử lý tập trung hoặc theo cụm
Có 1 cơ sở áp dụng mô hình xử lý chất thải rắn y tế theo cụm là bệnh viện
Ung Bướu tỉnh Nghệ An.
Công trình xử lý CTRYT của bệnh viện Ung Bướu tỉnh Nghệ An xử lý
CTRYT cho các cơ sở y tế ở khu vực thành phố Vinh gồm: Bệnh viện Sản Nhi,
Bệnh viện Tâm thần, Bệnh viện Nội Tiết, Bệnh viên YHCT, Bệnh viện Mắt, Bệnh
viện ĐK Cửa Đông… Đây là lò đốt 2 buồng HoVal - Áo, sử dụng từ năm 2002.
Công suất của lò là 450 - 500 kg/24giờ. Do phải hoạt động quá tải và thời gian sử
dụng đã 10 năm đến nay lò đốt đã xuống cấp, các thiết bị đã bị han gỉ, hỏng thường
xuyên phải sửa chữa. Nhiệt độ của buồng đốt chỉ đạt 500 - 600oC. Trong quá trình
đốt thải ra khói đen, làm ảnh hưởng đến nhân viên, bệnh nhân và dân cư xung
quanh. Một số chỉ tiêu trong khí thải của lò đốt vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Lò
đốt tiêu thụ nhiều dầu, chi phí xử lý chất thải rất tốn kém.
Nhờ có phối hợp cả 2 mô hình xử lý, CTRNH của tất cả bệnh viện đều được
xử lý. Các loại CTRYT được thiêu đốt bao gồm các loại chất thải lây nhiễm (sắc
nhọn, chất thải dính máu và dịch cơ thể, mô cơ quan) và một lượng nhỏ hóa chất.
Tuy nhiên, trách nhiệm tiêu hủy cuối cùng lại không được các bên thực sự quan
tâm.
25


×