LÊ DUY CƯỜNG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MUA SẮM TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LÊ DUY CƯỜNG
2013 - 2015
HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
MUA SẮM TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LÊ DUY CƯỜNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI – 2015
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………….......
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ MUA SẮM
TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU...................................................................
7
1.1. Khái quát chung về mua sắm tập trung trong đấu thầu………………....
7
1.1.1. Khái niệm mua sắm tập trung……………………………………………...
7
1.1.2. Đặc điểm của mua sắm tập trung…………………………………..............
9
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của mua sắm tập trung........................................................
11
1.1.4. Mô hình mua sắm tập trung………………………………………..............
14
1.2. Pháp luật về mua sắm tập trung trong đấu thầu........................................
17
1.2.1. Pháp luật mua sắm tập trung trong đấu thầu là một bộ phận của pháp luật
đấu thầu mua sắm công…………………………………………………………...
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về mua sắm tập trung trong đấu
thầu………………………………………………………………………………..
1.2.3. Kinh nghiệm áp dụng pháp luật về mua sắm tập trung trong đầu thầu ở
một số nước trên thế giới........................................................................................
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ MUA SẮM TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU Ở VIỆT
NAM.......................................................................................................................
2.1.Thực trạng pháp luật về tổ chức hoạt động và quản lý trong mua sắm
tập trung ở Việt Nam…………………………………………………………....
2.1.1. Quy định của pháp luật về mua sắm tập trung theo Luật Đấu thầu năm
2005 và các văn bản thí điểm thực hiện mua sắm công theo hình thức tập trung..
2.1.2. Quy định của pháp luật về mua sắm tập trung theo Luật Đấu thầu năm
2013……………………………………………………………………………….
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về mua sắm tập trung trong đấu thầu ở
Việt Nam……………………………………………………………………….
17
2.2.1. Tình hình thực hiện các quy định về mua sắm tập trung…………………..
38
19
21
29
29
29
35
38
2.2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về mua
sắm tập trung…………………………………………...........................................
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ MUA SẮM TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về mua sắm tập
trung trong đấu thầu ở Việt Nam........................................................................
44
3.1.1. Đáp ứng yêu cầu tiết kiệm cho ngân sách nhà nước……………………….
50
3.1.2. Phát huy tính ưu điểm của phương thức mua sắm tập trung……….............
51
3.1.3. Đảm bảo tính hiệu quả trong điều chỉnh pháp luật………………...............
53
3.2. Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi phương thức mua sắm tập trung trong đấu thầu ở Việt Nam….......
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh đấu thầu mua sắm công theo
phương thức tập trung…………………………………………………………….
54
3.2.2. Giải pháp tăng cường cơ chế thực thi pháp luật……………………………
59
KẾT LUẬN………………………………………………………………………
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………
69
50
50
54
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với
bất kỳ công trình nào đã công bố.
Hà Nội, ngày
tháng 9 năm 2015
Tác giả
Lê Duy Cường
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn ‘‘Mua sắm tập trung trong đấu
thầu theo pháp luật Việt Nam’’. Tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều
kiện của tập thể lãnh đạo, cán bộ, chuyên viên Cục Quản lý đấu thầu – Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đặng Vũ Huân người
trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho Tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem
lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, khoa Đào tạo sau đại
học, Viện Đại học mở Hà Nội, đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày
tháng 9 năm 2015
Tác giả
Lê Duy Cường
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua sắm công được xem là chìa khóa quan trọng để phân bổ hàng hóa và
dịch vụ cho xã hội, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng tại hầu hết các quốc
gia. Theo các chuyên gia trong nước và quốc tế, việc đẩy mạnh mua sắm công tập
trung sẽ là giải pháp tối ưu để giảm thời gian, chi phí, đầu mối tổ chức đấu thầu,
tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả kinh tế và
tiết kiệm cho ngân sách quốc gia. Đây cũng là phương thức mua sắm đã được áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới và đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Thông qua một đơn vị đầu mối để tổ chức đấu thầu rộng rãi nhằm mua sắm
tập trung một lượng lớn hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm tương tự ở nhiều cơ quan
khác nhau sẽ tiết kiệm đáng kể thời gian, nhân lực so với việc phải thực hiện đấu
thầu riêng lẻ. Đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện mua sắm tập trung sẽ trực tiếp
ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn hoặc sẽ ký thỏa thuận khung với nhà thầu
đó. Và khi cơ quan nào có nhu cầu mua sắm, thì chỉ cần dựa vào thỏa thuận khung
đã ký giữa nhà thầu được lựa chọn với đơn vị mua sắm tập trung để trực tiếp ký hợp
đồng với nhà thầu. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian cho việc tổ chức lựa chọn
nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị có nhu cầu mua sắm. Bên cạnh
đó, mua sắm công tập trung sẽ tập hợp được số lượng lớn nhu cầu về hàng hóa, dịch
vụ, mà khi mua hàng với số lượng lớn thì theo quy luật của thị trường, tất nhiên giá
hàng hóa, dịch vụ sẽ rẻ hơn. Việc thực hiện mua sắm công tập trung cũng sẽ tạo ra
mặt bằng chung về giá cả, hạn chế được tình trạng cùng một mặt hàng nhưng mỗi
nơi đề ra một giá, thậm chí là cách biệt nhau rất xa. Khi thực hiện mua sắm tập
trung với khối lượng lớn hàng hóa, dịch vụ thì chắc chắc sẽ thu hút được nhiều nhà
thầu tham gia, như vậy, giá các loại hàng hóa, dịch vụ sẽ cạnh tranh hơn (nhà thầu
sẽ đưa ra giá thấp hơn vì cung cấp được khối lượng hàng hóa, dịch vụ lớn hơn), do
đó sẽ tiết kiệm được chi phí cho việc mua sắm, giúp tiết kiệm ngân sách nhà nước.
1
Ở Việt Nam, cách thức mua sắm tập trung áp dụng đối với các nội dung mua
sắm giống nhau thuộc nhiều dự án về cơ bản đã được quy định nguyên tắc trong
Luật Đấu thầu năm 2005. Riêng đối với việc mua sắm tài sản, hàng hóa nhà nước
được quy định tại Quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân sách nhà
nước theo phương thức tập trung được ban hành kèm theo Quyết định số
179/2007/QĐ-TTg và một điều trong Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Tuy nhiên ở Việt Nam, quá trình thực hiện phương thức này vẫn chưa có hiệu quả
do các quy định của pháp luật về mua sắm tập trung đối với dự án chưa được hướng
dẫn cụ thể, đối với mua sắm thường xuyên thì mới chỉ là thực hiện thí điểm, các quy
định hướng dẫn vẫn mang tính rườm rà, hình thức, chưa phù hợp với thông lệ quốc
tế dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng. Rất ít các cơ quan, tổ chức, đơn vị lựa chọn
áp dụng phương thức mua sắm mới này, nếu có thì mới ở diện hẹp với giá trị nhỏ.
Bởi lẽ, bên cạnh các lợi ích của việc mua sắm tập trung, còn có nhiều nguy cơ, rủi
ro như việc mua sắm theo khối lượng lớn dễ dẫn đến độc quyền, thiếu cạnh tranh,
hoặc nguy cơ tham nhũng lớn.
Luật Đấu thầu năm 2013 được ban hành đã quy định hình thức mua sắm tập
trung để áp dụng rộng rãi trong công tác đấu thầu. Theo hình thức này, thay vì tổ
chức mua sắm ở hàng trăm cơ quan khác nhau, thì cơ quan mua sắp tập trung sẽ
chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần. Hình thức này không chỉ
giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động mua sắm, mà còn tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm, đồng thời hỗ trợ phát
triển sản xuất trong nước và khuyến khích nhà thầu nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ. Với các quy định mới của Luật Đấu thầu năm 2013, chắc chắn rằng việc áp
dụng mua sắm tập trung không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động
mua sắm, mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian và chi phí tổ
chức lựa chọn nhà thầu.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thu ngân sách nhà nước đang gặp nhiều
khó khăn, việc thắt chặt chi tiêu công trở thành yêu cầu cấp thiết, đẩy mạnh đấu
2
thầu mua sắm tập trung sẽ là giải pháp ưu việt để giảm bớt các thủ tục hành chính
trong đấu thầu, tăng cường tính chuyên nghiệp cho hoạt động này, nguồn nhân lực
làm công tác đấu thầu ở các đơn vị mua sắm tập trung sẽ được đào tạo bài bản, nắm
vững hệ thống pháp luật về đấu thầu hơn so với đội ngũ nhỏ lẻ, yếu về chuyên môn,
hạn chế về kinh nghiệm tại địa phương, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa. Mua sắm
công tập trung không chỉ giúp giảm được thời gian, chi phí, nhân lực cho quốc gia,
mà còn tạo ra một quy trình lựa chọn nhà thầu nhất quán, chuyên nghiệp, việc đánh
giá hồ sơ dự thầu và lựa chọn nhà thầu chắc chắn sẽ chính xác và hiệu quả hơn.
Với mong muốn nghiên cứu để góp phần đề xuất các giải pháp nâng cao hơn
nữa hiệu quả việc đấu thầu mua sắm công tập trung ở nước ta hiện nay, nên tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài “Mua sắm tập trung trong đấu thầu theo pháp luật Việt
Nam” để làm Luận văn tốt nghiệp Cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên phương diện nghiên cứu nói chung và với phạm vi luận văn thạc sĩ luật
học nói riêng, đến nay, đây vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ và chưa nhiều đề tài,
công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới. Mặc dù đã có một số luận văn của thạc
sĩ nghiên cứu về đề tài mua sắm công, nhưng nhìn chung các luận văn chỉ dừng lại
ở việc nghiên cứu có tính chất lý luận về mua sắm công. Chẳng hạn Luận văn Thạc
sĩ luật học của Phạm Thị Minh Loan năm 2004 (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội) về đề tài “Pháp luật về mua sắm công ở Việt Nam” chỉ dừng lại việc nghiên
cứu có tính chất khát quát về mua sắm công chứ chưa thực sự đi sâu vào các quy
định pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu mua sắm công. Cũng có những đề tài
nghiên cứu về pháp luật đấu thầu mua sắm công như Luận văn Thạc sĩ luật học của
Nguyễn Thị Như Trang năm 2011 (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội) về đề tài
“Pháp luật về đấu thầu mua sắm công - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, dù đã
có sự nghiên cứu sâu sắc về pháp luật đấu thầu mua sắm công nhưng sự nghiên cứu
này chỉ tập trung vào các quy định pháp luật Việt Nam. Luận văn cũng đã đưa ra
các quy định pháp luật một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc và Campuchia làm
tiêu chuẩn để định hướng sự hoàn thiện pháp luật đấu thầu mua sắm công của Việt
3
Nam trong thời gian tới, nhưng các quy định được đưa ra trong luận văn khá ít ỏi,
chưa đủ đáp ứng nhu cầu cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về đấu thầu
mua sắm công hiện nay. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lương Thị Thùy
Linh năm 2012 (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội) “Pháp luật Việt Nam về đấu
thầu mua sắm công - Hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp” đã
nghiên cứu và đề xuất một vài ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên cơ
sở tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, sau khi Luật Đấu thầu năm 2013 ra đời, cùng với quá trình hướng
dẫn thực thi pháp luật về đấu thầu mua sắm công tập trung, thực tiễn đang đặt ra
nhiều vấn đề đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về lĩnh vực
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này là làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật về mua sắm công tập trung trong đầu thầu, trên cơ sở nghiên
cứu kinh nghiệm pháp luật các nước cũng như đánh giá thực trạng pháp luật và nhu
cầu thực tiễn của Việt Nam, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về mua sắm công tập trung trong đầu thầu ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
được xác định là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về mua sắm công tập trung trong đấu
thầu; nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước và rút ra bài học cho Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về mua sắm
tài sản công trong các tổ chức, cơ quan, đơn vị nhà nước ở Việt Nam thời gian qua.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và xác định nhu cầu, kiến nghị các
giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về mua sắm công tập trung trong
đấu thầu ở Việt Nam trong thời gian tới.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là cơ sở lý luận và thực tiễn, nội dung
pháp luật và kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới về mua sắm tài
sản công tập trung trong đấu thầu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề
này (theo Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành); thực trạng thực thi pháp luật đấu thầu mua sắm công tập trung trong
các tổ chức, cơ quan, đơn vị nhà nước từ khi có Luật Đấu thầu năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật; chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng và công bằng ở Việt
Nam.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền
thống đã được kiểm nghiệm nhằm làm sáng tỏ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài, như:
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp tài liệu thứ cấp: Nhằm thu thập
và tổng hợp các tài liệu phân tích thống kê, các tài liệu có sẵn về mô hình tổ chức và
quản lý trong quá trình mua sắm tập trung.
- Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ, thảo luận để lấy ý kiến của các chuyên
gia trong lĩnh vực đấu thầu.
- Phương pháp phân tích: Phân tích đánh giá các quy định chính sách về mô
hình tổ chức và quản lý trong quá trình lựa chọn nhà thầu (điểm tích cực, hạn chế,
cơ hội, thách thức) để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế
bảo đảm thực thi pháp luật.
5
6. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Làm sâu sắc một số vấn đề lý luận về đấu thầu mua sắm công tập
trung và pháp luật về mua sắm công tập trung trong đấu thầu; sự khác nhau cơ bản
giữa đấu thầu mua sắm công tập trung và các hoạt động đấu thầu khác; mối quan hệ
giữa pháp luật về mua sắm công với các chế định pháp luật khác, từ đó cho thấy vai
trò của pháp luật trong việc bảo đảm những mục tiêu cần đạt được trong đấu thầu
mua sắm công tập trung. Kinh nghiệm pháp luật của một số nước về vấn đề này;
Thứ hai: Khái quát về sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời
gian qua, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt động thực
thi pháp luật về mua sắm công tập trung trong đấu thầu ở Việt Nam.
Thứ ba: Từ các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số
kiến nghị nâng cao hiệu quả pháp luật về mua sắm công tập trung trong đấu thầu
của Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về mua sắm tập trung trong đấu
thầu
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về mua sắm
tập trung trong đấu thầu ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua sắm tập
trung trong đấu thầu ở Việt Nam.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ MUA SẮM TẬP TRUNG TRONG ĐẤU THẦU
1.1. Khái quát chung về mua sắm tập trung trong đấu thầu
1.1.1. Khái niệm mua sắm tập trung
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển thì nguy cơ thất thoát trong mua
sắm công ngày càng gia tăng vì bất cứ lĩnh vực nào, bất cứ ngành quản lý nào cũng
đều có mua sắm công. Hoạt động mua sắm công chiếm tỷ lệ lớn, nhất là ở các nước
đang phát triển, con số này có thể lên tới 50% (bao gồm cả các hợp đồng xây dựng).
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, nhu cầu và số lượng kinh phí mua sắm tài sản
công để phục vụ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước chiếm
khoảng 20% dự toán chi ngân sách trung ương cho phát triển sự nghiệp kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính sự nghiệp, đây là con số không nhỏ.
Trong quá trình tổ chức thực hiện mua sắm công, hiện đang có sự kết hợp
giữa hai mô hình là mua sắm tập trung (đối với các loại tài sản có số lượng mua sắm
nhiều, tổng giá trị lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ, hiện đại); mua sắm
phân tán (đối với các loại tài sản, hàng hóa có số lượng mua sắm ít, tổng giá trị
nhỏ). Tuy nhiên, ở bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, yêu cầu thắt chặt
chi tiêu công gắn với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đang được đặt ra,
việc hoàn thiện cơ chế mua sắm tập trung và mở rộng phạm vi áp dụng là hết sức
cần thiết, phù hợp với xu hướng chung của nhiều quốc gia hiện nay.
Mua sắm tập trung được hiểu là cách tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn
nhà thầu thông qua đơn vị mua sắm tập trung nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối
tổ chức đấu thầu, tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu
quả kinh tế. Mua sắm tập trung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ
cần mua sắm với số lượng nhiều, chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư. Mua sắm tập trung được thực hiện theo một
trong hai cách sau đây:
7
(i) Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn
nhà thầu, trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch
vụ;
(ii) Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn
nhà thầu, ký văn bản thỏa thuận khung với một hoặc nhiều nhà thầu được lựa chọn
làm cơ sở để các đơn vị có nhu cầu mua sắm trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu
được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Đơn vị mua sắm tập trung thực hiện việc lựa chọn nhà thầu trên cơ sở nhiệm
vụ được giao hoặc hợp đồng ký với các đơn vị có nhu cầu.
Có thể khẳng định, với các hiểu ở trên, mua sắm tập trung không phải là tập
trung việc mua sắm tài sản, dịch vụ vào một đầu mối sau đó cấp phát cho các đơn vị
sử dụng mà mua sắm công tập trung, trước hết là tạo ra một thiết chế để tổng hợp,
rà soát nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ của các cơ quan Chính phủ đảm bảo hợp
lý, tiết kiệm; trên cơ sở đó lựa chọn các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ có chất
lượng và giá cả hợp lý nhất làm cơ sở cho các cơ quan, đơn vị ký hợp đồng mua
sắm với các nhà cung cấp được lựa chọn; cơ quan mua sắm tập trung cũng là cơ
quan tư vấn, hỗ trợ, có vai trò cụ thể hóa các quy định của Nhà nước vào việc mua
sắm đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ để cho các cơ quan, đơn vị tổ chức thực
hiện được thuận lợi, dễ dàng.
Việc cơ quan mua sắm tập trung trực tiếp thực hiện việc mua sắm chỉ áp
dụng với một số ít hàng hóa, dịch vụ. Mua sắm công tập trung còn là hoạt động tư
vấn, hỗ trợ cho Chính phủ trong việc thực hiện chức năng quản lý chi tiêu công và
quản lý tài sản nhà nước, đồng thời tư vấn, hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị thực hiện
việc mua sắm theo đúng quy định của Nhà nước, tiết kiệm, hiệu quả. Việc quy định
hình thức mua sắm tập trung là nhằm thay vì tổ chức mua sắm hàng hóa với số
lượng nhiều, chủng loại tương tự ở nhiều đơn vị khác nhau, thì đơn vị mua sắm tập
trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần. Hình thức này
8
vừa giảm chi phí tổ chức, rút ngắn thời gian mua sắm đồng thời tăng tính chuyên
nghiệp trong hoạt động mua sắm, góp phần tăng hiệu quả kinh tế1.
1.1.2. Đặc điểm của mua sắm tập trung
Thứ nhất: Mua sắm tập trung khác với kế hoạch hóa tập trung
Sau khi hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, năm 1960 miền Bắc nước ta áp
dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ưu điểm của mô hình này là trong
thời kỳ kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự tăng đầu tư. khai thác
tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một só lợi thế khác, cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp có tác dụng nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các
nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ
yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thế, đặc biệt trong quá trình công nghiệp
hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này tạo sự thống nhất
trong thực hiện các mục tiêu. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản
lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến, bởi vì do
đất nước bị xâm lược, mục tiêu của cả nước là giải phóng dân tộc. Bởi vậy thực
hiên kế hoạch hóa tập trung sẽ huy động được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng
và phát triển kinh tế để thực ̣hiện mục tiêu đó, đây là nhiêm vụ chung chứ không
phải riêng ai.
Bên cạnh ưu điểm, cơ chế này có những hạn chế như thủ tiêu sự cạnh tranh,
kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế, lao động sáng tạo
đối với người lao động , không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị
sản xuất kinh doanh. Cơ chế này hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, gây rối loạn trong phân
phối lưu thông và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội như tham ô, lãng
phí. Đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính nhà nước trở nên quan
liêu, lộng quyền, hách dịch.
1
Xem: />
9
Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa
trên việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho nền kinh tế
các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là hết sức cần thiết.
Mua sắm tập trung là việc áp dụng phương thức mua sắm mới để mua hàng
hóa, dịch vụ nhằm làm tăng hiệu quả trong chi tiêu sử dụng vốn của Nhà nước, tăng
tính chuyên nghiệp trong công tác mua sắm công, giảm bớt sự trùng lặp công việc,
lãng phí trong sử dụng nhân sự. Cách thức mua sắm này giúp phát triển sản xuất,
làm tăng năng suất lao động, khuyến khích tăng cường chất lượng hàng hóa, dịch vụ
và tạo cơ hội để ứng dụng công nghệ thông tin để làm tăng hiệu quả mua sắm.
Thứ hai: Mô hình mua sắm tập trung đối lập với mô hình mua sắm phân tán
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng mô hình mua sắm phân tán trong mua sắm
hàng hóa, dịch vụ sử dụng tiền của Nhà nước, tức là Nhà nước phân bổ dự toán cho
từng cơ quan, đơn vị để họ tự tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm theo quy định đối
với các gói thầu của dự án thuộc phạm vi quản lý.
Mua sắm tập trung là mô hình mua sắm trên cơ sở tập hợp các nhu cầu mua
sắm giống nhau của nhiều cơ quan, đơn vị. Các cơ quan, đơn vị có nhu cầu mua
sắm thống nhất giao hoặc ký hợp đồng với đơn vị mua sắm tập trung để họ tổ chức
đấu thầu lựa chọn nhà thầu cung cấp khối lượng hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ ba: Mua sắm tập trung là mua sắm một lần với số lượng lớn
Trên cơ sở tập hợp nhu cầu mua sắm giống nhau của nhiều cơ quan, đơn vị,
đơn vị mua sắm tập trung tổ chức đấu thầu một lần nhằm lựa chọn được một hoặc
nhiều nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, khối lượng mua sắm là lớn
hơn nhiều so với mua sắm theo mô hình phân tán như cách áp dụng mua sắm truyền
thống. Ngoài ra, thay bằng việc mỗi cơ quan, đơn vị tự tổ chức đấu thầu để lựa chọn
nhà thầu cung cấp thì đơn vị mua sắm tập trung sẽ tổ chức đấu thầu một lần.
Thứ tư: Có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình mua sắm tập trung
10
Khi mua sắm tập trung sử dụng tiền của Nhà nước thì hoạt động này được
thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước hoặc các đơn vị có
sử dụng nguồn tiền của Nhà nước, nên có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình mua
sắm tập trung để bảo đảm được các mục tiêu của mua sắm tập trung là cạnh tranh,
công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Các chủ thể tham gia bao gồm:
a) Các đối tượng tham gia trực tiếp vào hoạt động mua sắm tập trung:
- Bên mua: Chính là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước, bao
gồm: (i) Người có thẩm quyền quyết định việc mua sắm tập trung; (ii) Bên mời
thầu, là cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ hoặc sử dụng tiền của Nhà nước
(doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức vay tiền của Nhà nước hoặc do Nhà nước);
(iii) Tổ chuyên gia, bao gồm các cá nhân được bên mời thầu quyết định thành lập để
thực hiện nhiệm vụ đánh giá hồ sơ dự thầu, lựa chọn nhà thầu phù hợp với yêu cầu
căn cứ hồ sơ mời thầu và tổ chức đấu giá; (iv) Cơ quan, tổ chức thẩm định.
- Bên bán: Nhà thầu tham gia mua sắm tập trung các gói thầu phù hợp với
điều kiện năng lực và kinh nghiệm của mình để dành được các hợp đồng trên cơ sở
cạnh tranh hoặc thông qua các hình thức lựa chọn khác theo quy định.
b) Các đối tượng tham gia gián tiếp vào hoạt động mua sắm tập trung:
Ngoài bên mua và bên bán là các đối tượng tham gia trực tiếp hoạt động mua
sắm tập trung còn có một bộ phận thứ ba gián tiếp tham gia vào hoạt động này, bao
gồm: (i) Cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát; (ii) Tổ chức, công ty kiểm toán độc
lập; (iii) Các cơ quan báo chí, truyền thông; (iv) Sự tham gia của cộng đồng với vai
trò giám sát.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của mua sắm tập trung
Mua sắm tập trung là mua sắm hàng hóa với khối lượng lớn, hình thức áp
dụng chủ yếu là hình thức đấu thầu rộng rãi, do đó, khi áp dụng mua sắm tập trung
đem lại các lợi ích sau đây:
Một là, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
Mua sắm tập trung tuân theo quy luật khách quan của thị trường như quy luật
cung - cầu, quy luật giá cả - giá trị. Cách thức mua sắm tập trung là phương thức tiên
11
tiến, đem lại hiệu quả trong việc mua sắm tài sản thể hiện thông qua số tiền tiết kiệm
được, chất lượng sản phẩm, đảm bảo tính đồng bộ về kỹ thuật, tăng tính chuyên
nghiệp trong hoạt động mua sắm, tạo điều kiện mua sắm xứng với giá trị đồng tiền
hơn so với mua sắm theo phương thức truyền thống, tăng cường trang bị đồng bộ,
hiện đại cho cơ quan nhà nước, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm, đồng
thời hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước và khuyến khích nhà thầu nâng cao chất
lượng hàng hóa, dịch vụ như sau:
- Mua sắm tập trung đã phát triển được thị trường hàng hóa, các loại hàng
hóa được mua sắm sẽ phát triển, doanh nghiệp cung cấp lớn mạnh, phát triển quy
mô để có thể tham gia cung cấp cho bên mua. Chất lượng hàng hóa tăng cao do nhu
cầu của người mua đòi hỏi về chất lượng. Kích thích thị trường trong nước phát
triển;
- Là công cụ quan trọng giúp Chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng nguồn chi
thường xuyên sao cho có hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí cho các tổ chức nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước, cũng như cho mục tiêu duy trì các hoạt động của bộ
máy Nhà nước;
- Cùng với pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, pháp luật về
phòng - chống tham nhũng, pháp luật về mua sắm tập trung tạo thành công cụ hữu
hiệu để chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng và lãng phí trong việc chi tiêu
các nguồn tiền của Nhà nước, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội nhờ
thực hiện các hoạt động mua sắm tập trung theo đúng luật pháp của Nhà nước;
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
Mua sắm tập trung còn mang lại cho Nhà nước những đầu tư mới về công
nghệ, trang thiết bị máy móc hiện đại phục vụ thiết thực cho quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mua sắm tập trung minh bạch tạo điều kiện cho các nhà thầu cạnh
tranh lành mạnh và đưa ra những phương án công nghệ thiết bị, các điều kiện
thương mại và tài chính cạnh tranh nhất để bên mời thầu lựa chọn. Qua đó, bên mời
thầu có thể chọn được nhà thầu cung cấp hàng hóa tốt nhất tương ứng với giá trúng
thầu hợp lý và trong hạn mức được chi tiêu, tránh hiện tượng ép giá do các nhà thầu
12
phải cạnh tranh để bán hàng, cung cấp dịch vụ. Tác dụng của mua sắm tập trung
trong việc lựa chọn máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước là không thể phủ nhận.
Thông qua mua sắm tập trung, các hoạt động kinh tế đều được kích thích
phát triển như các ngành sản xuất trực tiếp, các ngành công nghiệp phụ trợ, chế
biến. Các doanh nghiệp dần dần tự lớn mạnh để cạnh tranh với nhau, tổng hợp
nhiều lĩnh vực đã làm cho hoạt động kinh tế được diễn ra theo hướng chuyên môn
hóa sâu và đa phương hóa rộng. Đây là hình thức đảm bảo sự công bằng và tạo cơ
hội cho tất cả các nhà cung cấp tiềm năng. Thông qua mua sắm tập trung kích thích
các nhà thầu nâng cao trình độ, chất lượng sản phẩm và uy tín của mình trên thị
trường.
Sự cạnh tranh trong các cuộc mua sắm tập trung đã buộc các nhà thầu phải
vươn lên trong hoạt động kinh doanh của mình, phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ thị
trường sao cho sản phẩm khi chào phải phù hợp với yêu cầu về mặt kỹ thuật, tính
năng sử dụng và có giá cả cạnh tranh. Cũng nhờ đó, các nhà thầu phải nâng cao
năng lực và phải tích lũy nhiều kinh nghiệm để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm
chi phí để có thể cạnh tranh được ở nhiều nước trên thế giới.
Ba là, tiết kiệm chi phí
Thông qua mua sắm tập trung giúp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tập
trung tránh được sự lãng phí không đáng có. Việc tổ chức đấu thầu một lần để mua
sắm với số lượng lớn sẽ tiết kiệm đáng kể so với việc tổ chức đấu thầu nhiều lần,
đồng thời giảm thiểu tối đa sự móc ngoặc giữa các bên (nhà thầu-nhà thầu, nhà thầu
- bên mời thầu). Mua sắm tập trung không chỉ giúp bên mời thầu lựa chọn được nhà
thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu mà còn giúp tiết kiệm được
cho nguồn vốn của Nhà nước.
Bốn là, nâng cao hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước
Quản lý tài sản nhà nước gồm ba nội dung cơ bản: Quản lý quá trình hình
thành tài sản; quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản; quản lý quá trình kết thúc
tài sản.
13
Trong ba nội dung cơ bản nêu trên, thì mua sắm tài sản công là khâu đầu tiên
của quá trình quản lý tài sản nhà nước, có vị trí then chốt để bảo đảm hiệu quả trong
sử dụng, quản lý. Mua sắm tài sản công quyết định sự phù hợp hay không phù hợp về
tài sản phục vụ cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước; quyết định việc
tài sản được sử dụng lâu dài hay không lâu dài tùy theo chất lượng của tài sản mua
sắm; quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi tiêu công.
Từ các phân tích trên, việc mua sắm công phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
(i) Phù hợp tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản và chế độ quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
(ii) Đáp ứng một cách tối ưu nhu cầu về tài sản để phục vụ hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước trong điều kiện khả năng ngân sách có hạn;
(iii) Tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản;
(iv) Bảo đảm công khai, minh bạch.
Trong thực tiễn, về cơ bản việc mua sắm tài sản có hai hình thức, đó là mua
phân tán hoặc mua tập trung. Giữa hai hình thức mua sắm này thì việc mua tập trung
sẽ có hiệu quả cao hơn việc mua phân tán do hiệu quả thu được nhờ lợi thế về quy
mô. Ngoài ra, khi kết hợp mua sắm tập trung với hệ thống mạng đấu thầu quốc gia
sẽ đem lại hiệu quả cao hơn rất nhiều.
1.1.4. Mô hình mua sắm tập trung
Quá trình thực hiện mua sắm tập trung trong đấu thầu được mô hình hóa theo
các bước sau đây:
14
(i) Tổng hợp
nhu cầu mua
sắm
(ii) Lập, thẩm
định và phê
duyệt kế hoạch
lựa chọn nhà
thầu
(vi) Thẩm định,
phê duyệt và công
khai kết quả lựa
chọn nhà thầu
(vii) Hoàn thiện,
ký kết thỏa
thuận khung
(v) Đánh giá hồ
sơ dự thầu và
thương thảo hợp
đồng
(viii)
Hoàn
thiện, ký kết và
thực hiện hợp
đồng với nhà
thầu trúng thầu
(iii) Chuẩn bị
lựa chọn nhà
thầu
(iv) Tổ chức
lựa chọn nhà
thầu
(ix) Quyết toán,
thanh lý hợp
đồng
(i) Căn cứ vào đề xuất của các đơn vị thuộc cơ quan quản lý, đơn vị mua sắm
tập trung làm nhiệm vụ tổng hợp nhu cầu mua sắm.
(ii) Đơn vị mua sắm tập trung lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu trình người có
thẩm quyền phê duyệt. Trước khi phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu người có
thẩm quyền phải tổ chức thẩm định.
(iii) Trên cơ sở kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt, đơn vị mua sắm
chuẩn bị lựa chọn nhà thầu. Trường hợp đơn vị mua sắm tập trung có đủ nhân sự,
năng lực để làm bên mời thầu thì đơn vị mua sắm tập trung tiến hành lập hồ sơ mời
thầu, thẩm định và phê duyệt hồ sơ mời thầu;
- Đối với những dự án/gói thầu nhỏ, đơn giản, thông thường bên mời thầu
trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của bên mời thầu. Trong trường hợp này, bên mời
thầu sử dụng các nhóm độc lập (các phòng, ban trực thuộc) thực hiện nhiệm vụ của
bên mời thầu, tổ chức thẩm định.
15
- Đối với những dự án/gói thầu lớn, phức tạp, thời gian thực hiện kéo dài,
thông thường bên mời thầu thành lập ban quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ bên mời
thầu đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác trong quá trình quản lý, điều hành dự
án.
Việc thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, kết quả lựa chọn nhà thầu
được giao cho các phòng, ban chức năng của bên mời thầu hoặc một tổ chức tư vấn
độc lập (ký hợp đồng thuê tư vấn thực hiện).
Ngoài ra, bên mời thầu có thể thuê tư vấn là các đại lý đấu thầu chuyên
nghiệp thay mình làm bên mời thầu hoặc thuê tư vấn để lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ
yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất.
(iv) Tổ chức lựa chọn nhà thầu: Bên mời thầu thực hiện các công việc sau
đây: Mời thầu, phát hành hồ sơ dự thầu và mở thầu.
(v) Đánh giá hồ sơ dự thầu, thương thảo hợp đồng
(vi) Bên mời thầu tiến hành thẩm định, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu
và công khai.
(vii) Bên mời thầu hoàn thiện hợp đồng
(viii) Đối với bước thứ 8 đơn vị mua sắm tập trung có thể thực hiện theo một
trong hai cách sau đây:
- Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn
nhà thầu, trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch
vụ;
- Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn
nhà thầu, ký văn bản thỏa thuận khung với một hoặc nhiều nhà thầu được lựa chọn
làm cơ sở để các đơn vị có nhu cầu mua sắm trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu
được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
16
1.2. Pháp luật về mua sắm tập trung trong đấu thầu
1.2.1. Khái niệm mua sắm tập trung trong đấu thầu là một bộ phận của
pháp luật đấu thầu mua sắm công2
Là một chế định pháp luật quy định quá trình thực hiện mua sắm tập trung
trong đấu thầu mua sắm công, nên pháp luật mua sắm tập trung trong đấu thầu là
một bộ phận của pháp luật đấu thầu mua sắm công.
Đối với lĩnh vực pháp luật đấu thầu mua sắm công, đối tượng điều chỉnh của
lĩnh vực pháp luật này chính là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể có liên
quan trong quá trình thực hiện việc đấu thầu mua sắm công. Ở mức độ khái quát, có
thể hình dung phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật đấu thầu mua sắm công
bao gồm các nhóm quan hệ xã hội cơ bản sau đây:
- Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có liên quan với
chủ thể có nhu cầu mua sắm công trong việc thực hiện các thủ tục đấu thầu mua
sắm công. Đây là nhóm quan hệ theo “chiều dọc”, thể hiện bản chất là quan hệ quản
lý giữa chủ thể có nhu cầu mua sắm công với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong quá trình thực hiện thủ tục đấu thầu mua sắm công.
Xét về bản chất, nhóm quan hệ xã hội này được xác lập giữa chủ thể có nhu
cầu mua sắm công với các cơ quan nhà nước khác (chủ thể có thẩm quyền) nhằm
thực hiện các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức
đấu thầu mua sắm công. Trên nguyên tắc, các chủ thể tham gia vào nhóm quan hệ
xã hội này bao gồm: Cơ quan thực hiện mua sắm (là cơ quan có trách nhiệm lập kế
hoạch mua sắm, tổ chức lựa chọn nhà cung cấp thông qua phương thức đấu thầu, ký
kết hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ và tổ chức thực hiện hợp đồng); cơ quan
phê duyệt kế hoạch mua sắm (thường là cơ quan chủ quản của chủ thể có nhu cầu
mua sắm công); cơ quan thẩm định kết quả của từng giai đoạn mua sắm công và
cuối cùng là cơ quan kiểm soát quá trình mua sắm công. Trong quá trình đấu thầu
mua sắm công, quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu mang tính
2
Hướng dẫn Đấu thầu Mua sắm Hàng hoá, Công trình và Dịch vụ Phi tư vấn trong các khoản vay của
IBRD và Tín dụng & Tài trợ không hoàn lại của IDA cho các Bên vay vốn Ngân hàng Thế giới (Tháng
1/2011)
17
chất chấp hành – điều hành, do đó các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ
này mang tính chất quyền uy, mệnh lệnh hành chính.
- Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể có nhu cầu mua sắm
công (gọi là bên mua) với chủ thể là các nhà thầu có đủ tiêu chuẩn tham gia đấu
thầu mua sắm công. Đây là nhóm quan hệ theo “chiều ngang”, thể hiện bản chất là
quan hệ giao dịch bình đẳng giữa các bên tham gia trên cơ sở thỏa thuận và tuân thủ
đúng các quy định chung của pháp luật về đấu thầu. Nhóm quan hệ này phát sinh
khi bên mời thầu đưa ra các yêu cầu và nhà thầu tiến hành nộp hồ sơ đăng ký dự
thầu hoặc hồ sơ dự thầu thể hiện việc đáp ứng yêu cầu đó. Khi một nhà thầu hoặc
một nhóm nhà thầu được xác định là trúng thầu thì khi đó các bên sẽ xác lập quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ, theo các tiêu chuẩn, điều kiện và giá cả đã
xác định khi trúng thầu. Về nguyên tắc, nhóm quan hệ xã hội này sẽ được điều
chỉnh bởi các quy phạm pháp luật mang tính dân sự - thương mại, thể hiện nguyên
tắc công bằng, bình đẳng, tránh sự lạm quyền một cách tối đa từ phía nhà nước.
- Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các nhà thầu với nhau khi tham
gia quan hệ đấu thầu mua sắm công. Đây không phải là nhóm quan hệ chủ yếu, điển
hình nhưng cũng có sự tác động nhất định đến sự thành công của quan hệ đấu thầu
mua sắm công, bởi lẽ nếu các nhà thầu không tuân thủ đúng các nguyên tắc cạnh
tranh công bằng trong đấu thầu mà “bắt tay”với nhau khi tham gia đấu thầu thì hậu
quả xảy ra là mục tiêu chính của việc đấu thầu sẽ không đạt được và bên mời thầu
có thể sẽ không chọn được nhà thầu có phương án cung cấp hàng hóa, dịch vụ tốt
nhất như mình mong muốn để tiến tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa, dịch vụ.
Phương thức mua sắm công tập trung đã được quy định trong pháp luật của
nhiều quốc gia. Theo pháp luật của Vương quốc Anh thì các quy định về mua sắm
công tập trung trước hết là tạo ra một thiết chế để tổng hợp, rà soát nhu cầu sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của các cơ quan chính phủ, đảm bảo hợp lý, tiết kiệm; trên cơ sở
đó lựa chọn các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ có chất lượng và giá cả hợp lý nhất
làm cơ sở cho các cơ quan, đơn vị ký hợp đồng cung cấp với các nhà cung cấp được
18
lựa chọn. Cơ quan mua sắm tập trung cũng là cơ quan tư vấn, hỗ trợ, có vai trò cụ
thể hóa các quy định của Nhà nước về việc mua sắm đối với từng loại hàng hóa,
dịch vụ để cho các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện được thuận lợi, dễ dàng. Việc
cơ quan mua sắm tập trung trực tiếp thực hiện việc mua sắm chỉ áp dụng với một số
ít hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, mua sắm công tập trung còn được quy định là một
hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho Chính phủ trong việc thực hiện chức năng quản lý chi
tiêu công và quản lý tài sản nhà nước, đồng thời tư vấn, hỗ trợ cho các cơ quan, đơn
vị thực hiện việc mua sắm theo đúng quy định của Nhà nước, tiết kiệm, hiệu quả.
Luật Đấu thầu năm 2013 của Việt Nam cũng đã ghi nhận và thể hiện rõ quan điểm
này.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về mua sắm tập trung trong
đấu thầu
Theo pháp luật của nhiều quốc gia, mua sắm tập trung được áp dụng trong
trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm với số lượng nhiều, chủng loại tương tự
ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư. Hiệu quả của
việc mua sắm hàng hoá theo phương thức tập trung không chỉ thể hiện ở số tiền
giảm chi do mua sắm theo lô lớn với số lượng nhiều, mà còn được thể hiện ở chất
lượng đầu vào tốt, đảm bảo giá được thống nhất, tương đồng về kỹ thuật, việc sử
dụng hàng hóa đạt hiệu quả cao. Về ý nghĩa, thay vì tổ chức mua sắm ở hàng trăm
cơ quan khác nhau, thì cơ quan mua sắm tập trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua
sắm chuyên nghiệp một lần. Cách làm này sẽ tiết kiệm tối đa chi phí dành cho hoạt
động mua sắm so với hình thức mua sắm hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động mua sắm công theo phương thức
tập trung bao gồm: (i) Nguyên tắc trong mua sắm tập trung; (ii) Trách nhiệm trong
mua sắm tập trung, quy trình mua sắm tập trung tổng quát; (iii) Danh mục hàng hóa,
dịch vụ áp dụng mua sắm tập trung; (iv) Nội dung thỏa thuận khung…3
Thứ nhất: Nguyên tắc trong mua sắm tập trung
3
Framework Agreements: OGC Guidance September 2008, EU
19