Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM

HỨA HẢI QUANG

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM

HỨA HẢI QUANG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
tư liệu sử dụng trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
quả nghiên cứu của Luận văn này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hứa Hải Quang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Vũ Văn Cương đã tận
tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô giáo trong 2 năm học đã đem lại
cho tôi những kiến thức vô cùng có ích để tôi vận dụng trong quá trình nghiên
cứu của mình. Xin cám ơn Ban Giám Hiệu. Khoa sau đại học Viện Đại Học Mở
Hà Nội. Đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để
tôi hoàn thành luận văn của mình.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ
NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ

NHẬP KHẨU ........................................................................................................ 5
1.1. Những vấn đề chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu........................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu .............................................. 5
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu ................................... 8
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu . 11
1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu ........................ 11
1.2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và
pháp luật về thủ tục hải quan. .......................................................................... 14
1.2.3. Cấu trúc pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu .................... 16
1.2.4. Những yếu tố chi phối đến pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ................................................................................................................ 18
1.3. Kinh nghiệm và xu hướng đổi mới hoạt động quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở một số
nước trên thế giới ............................................................................................. 24
1.3.1. Kinh nghiệm của Singapore trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu... 24
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 26
1.3.3. Kinh nghiệm của Đài Loan trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu . 27
1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt nam trong việc hoàn thiện pháp luật quản
lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ................................................................... 29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 30


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM ... 31
2.1. Đánh giá chung về hệ thống các quy phạm pháp luật quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ...................................................................................... 31
2.2. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật
quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. .................... 33
2.2.1. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ pháp luật

về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu .............................................................. 33
2.2.2. Thủ tục hành chính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ............................... 36
2.2.3. Quản lý thông tin người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu................. 51
2.2.4. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ........................ 55
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu .................. 62
2.2.6. Cưỡng chế nợ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ....................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 66
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP, HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM . 67
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.. 67
3.1.1. Đảm bảo sự phù hợp với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. ...... 68
3.1.2. Đảm bảo yêu cầu, mục tiêu của hoạt động quản lý thuế nói chung và quản
lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng .................................................... 70
3.1.3. Đảm bảo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình thực hiện các cam
kết quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ................................................. 71
3.2. Các giải pháp hoàn thiện nội dung quy định pháp luật quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ...................................................................................... 72
3.2.1. Đối với các quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể
trong quan hệ pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu ........................ 73
3.2.2. Đối với các quy định về thủ tục hành chính thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu ................................................................................................................ 75
3.2.3. Đối với các quy định về quản lý thông tin người nộp thuế ..................... 76
3.2.4. Đối với các quy định về kiểm tra thuế, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu ....................................................................................................... 77
3.2.5. Đối với các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu ........................................................................................................ 78


3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quản lý thuế

xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam .......................................................... 79
3.3.1. Nhóm giải pháp tạo lập và nuôi dưỡng nguồn thu .................................. 79
3.3.2. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho cán bộ công chức Hải quan....................................................... 80
3.3.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về hải quan ................................ 82
3.3.4. Triển khai ứng dụng mạnh mẽ kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác quản lý
thuế XNK........................................................................................................ 83
3.3.5. Tăng cường công tác chống buôn lậu, chống gian lận thương mại, thanh
tra, kiểm tra sau thông quan ............................................................................ 84
3.3.6. Tăng cường phối kết hợp với chính quyền địa phương các cấp, các cơ
quan chức năng trên địa bàn để quản lý và chống thất thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu ........................................................................................................ 86
3.3.7. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho đối tượng nộp
thuế chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế XNK ..................................................... 86
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 87
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ một chế độ xã hội nào, thuế luôn là một công cụ tạo dựng nguồn tài
chính chủ yếu để phục vụ nhu cầu chi tiêu của quốc gia. Trong cấu trúc hệ thống
thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là những sắc thuế có ý nghĩa
quan trọng, vừa là nguồn động viên ngân sách quốc gia, vừa là công cụ để điều tiết
sản xuất trong nước, đồng thời cũng là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế trong nước và
thương mại quốc tế phát triển.
Với tốc độ hội nhập quốc tế nhanh chóng và sâu rộng, hoạt động XNK trở nên
năng động hơn và có ảnh hưởng to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã
hội của Việt Nam. Các luồng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng,

kim ngạch XNK tăng mạnh, hàng hóa và dịch vụ trong XNK ngày càng trở nên đa
dạng hơn, số thu thuế đối với hàng hóa XNK ngày một tăng, năm sau cao hơn năm
trước. Bên cạnh đó, cùng với yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế, là yêu cầu cần
phải nhanh chóng triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản
lý để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hiện đại thế giới. Ngành Hải quan - cơ
quan được trao nhiệm vụ “ Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu” (Điều 11 Luật Hải quan) cũng đang trong quá trình triển khai
hiện đại hóa các thủ tục hải quan. Theo đó, công tác quản lý thu thuế của ngành
cũng có những bước cải tiến nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ cho NSNN nhưng vẫn
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp XNK.
Để phát huy tối đa vai trò của TXK, TNK, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan
tâm hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý TXK, TNK để đáp ứng yêu cầu mới
của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, khi xem xét hệ thống pháp
luật thuế nói chung và các quy định pháp luật về quản lý TXK, TNK nói riêng vẫn
còn nhiều hạn chế, thể hiện thông qua việc các quy định còn bất cập, chồng chéo,
gây khó khăn cho các chủ thể trong hoạt động XNK. Thực tế áp dụng cho thấy tình
trạng trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế vẫn còn nhiều trong khi Nhà nước chưa có biện
pháp nào tỏ ra thực sự hiệu quả để giải quyết các vấn đề này...

1


Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc tìm hiểu thực trạng các quy định pháp
luật quản lý TXK, TNK, tình hình thực thi pháp luật quản lý TXK, TNK ở Việt
Nam, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý TXK, TNK dường
như là một yêu cầu hoàn toàn khách quan. Đó cũng chính là lý do tôi đã lựa chọn đề
tài: “Hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt
Nam” làm đề tài cho luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài tìm hiểu về nội dung sắc TXK, TNK là một đề tài thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả cả ở phương diện lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về pháp luật quản lý TXK, TNK trên phương diện
chuyên sâu trong lĩnh vực này thì chưa có nhiều.
Trong chuyên ngành kinh tế có một số công trình nghiên cứu về quản lý
thuế như: “Hoàn thiện quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ
thuế của doanh nghiệp”- Nguyễn Thị Lệ Thuý, Luận án tiến sỹ kinh tế (2009),
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội; “Cơ chế tự khai, tự nộp thuế và những
vấn đề đặt ra ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Hiệu - TS. Nguyễn Việt Cường,
NXB Tài Chính, HN, 2007.
Trong khoa học pháp lý chuyên ngành có một số luận văn và luận án đã có
đề cập đến vấn đề quản lý TXK, TNK dưới giác độ nghiên cứu toàn bộ quá trình
quản lý thuế nói chung, chẳng hạn như: Luận án tiến sĩ Luật học (2012) của Vũ Văn
Cương: “Pháp luật Quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thùy Liên:
“Hoàn thiện công tác Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế ở Việt Nam hiện nay” năm
2012; Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thu Hồng: “Pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam –
thực trạng và giải pháp” năm 2013; Luận văn thạc sỹ luật học “Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật về thuế ở Việt Nam’’ của tác giả Trần Trung Nhân...
Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu trên báo, tạp chí liên quan đến quản
lý TXK, TNK như bài viết: “Các nguyên tắc của pháp luật thuế và mô hình cấu
trúc của hệ thống pháp luật thuế” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 8/2008; “Thông tin về người nộp thuế trong luật quản lý
thuế ở nước ta hiện nay” của ThS.Vũ Văn Cương đăng trên Tạp chí Luật học số

2


4/2009; “Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm” của TS. Nguyễn Thị

Thương Huyền Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 19/2008, (tr. 51 – 55) Hoặc “Về
bảo vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế” của TS. Nguyễn Thị
Lan Hương Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, (số 1);, “Một vài
vấn đề về hiệu quả của Luật Quản lý thuế trong vai trò bảo đảm ổn định nguồn thu
NSNN trong giai đoạn kinh tế hiện nay ở Việt Nam”, của Th.S Nguyễn Đức Ngọc,
Chuyên đề, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2007), Trường Đại học Luật Hà
Nội. “Pháp luật kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam”, của Th.S Vũ Ngọc Hà-Th.S
Vũ Văn Cương, Tạp chí Luật học Số 04 (107)/2009, Tr 13-22; “Báo cáo về chấp
hành các văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý và thu thuế giai đoạn 2011 –
2014 của ngành hải quan” của Tổng cục Hải quan – Bộ Tài chính, ngày 17 tháng 4
năm 2015 .
Các công trình nghiên cứu trên phần nhiều đề cập đến một khía cạnh trong
công tác quản lý thuế nói chung mà chưa đề cập chuyên sâu, có hệ thống về quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói chung và pháp luật quản lý thuế xuất nhập khẩu nói
riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của Luận văn là đưa ra cái nhìn tổng quát nhất về các vấn đề quản
lý TXK, TNK và pháp luật quản lý thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu; thực trạng pháp
luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về vấn đề này. Trên cơ sở đó có sự so sánh, đối
chiếu pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở
Việt Nam qua các thời kỳ, so sánh đối chiếu pháp luật về quản lý TXK, TNK ở Việt
Nam với pháp luật nước ngoài, các Cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia
có liên quan. Đồng thời Luận văn cũng đưa ra một số ý kiến đóng góp, kiến nghị
với hy vọng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực TXK, TNK ở Việt Nam.
Với mục đích như trên, Luân văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về TXK, TNK; quản lý TXK, TNK và
pháp luật quản lý TXK, TNK, xác định luận cứ cho việc đề ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật quản lý TXK, TNK.


3


- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật của Việt Nam trong lĩnh
vực quản lý TXK, TNK cũng như thực tiễn thi hành các quy định pháp luật quản lý
TXK, TNK để từ đó chỉ ra những khó khăn, hạn chế của hoạt động quản lý TXK,
TNK ở Việt Nam.
- Đóng góp những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện các
biện pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả pháp luật quản lý TXK, TNK.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cở sở phương pháp luận các quan điểm
của triết học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền,
chính sách của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả sử dụng phương pháp so sánh bằng cách đối chiếu từng giai đoạn
lịch sử phát triển, đối chiếu với pháp luật nước ngoài, cam kết quốc tế liên quan;
phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu từ các báo cáo định kỳ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để đánh giá một cách chính xác, khách quan thực trạng quản lý
nhà nước trong lĩnh vực TXK, TNK.
5. Kết của của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp
luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

4



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ
THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. Những vấn đề chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.1.1. Lịch sử phát triển của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
TXK, TNK có tên gọi chung mà các nước thường dùng là thuế quan. Thuế
quan là một biện pháp tài chính mà các nước dùng để can thiệp vào quá trình hoạt
động ngoại thương, buôn bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia.
Thuế quan ra đời vào thời kỳ cổ đại, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, thái độ đối với sử dụng thuế quan
trong quá trình phát triển quan hệ ngoại thương, buôn bán giữa các quốc gia cũng có
những đặc điểm khác trong từng giai đoạn lịch sử.
Vào buổi bình minh của chủ nghĩa tư bản, được khuyên khích bởi các học
thuyết kinh tế thuộc trào lưu tự do kinh tế, người ta cho rằng thuế quan là một cản
trở lớn cho quá trình phát triển kinh tế và đấu tranh đòi xoá bỏ hàng rào thuế quan.
Bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, hầu hết các nước đế quốc
đều sử dụng thuế quan như một công cụ quan trọng trong chính sách ngoại thương
để giành lấy ưu thế trong lĩnh vực buôn bán. Hàng rào thuế quan mới dựng lên,
nhưng không phải bảo hộ cho nền sản xuất yếu kém trong nước mà để trợ giúp cho
các ngành có thế lực mang tính chất độc quyền.
Ở thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thuế quan được coi là công cụ
quan trọng của Nhà nước dùng để điều chỉnh hoạt động ngoại thương. Sự mất cân
đối kinh tế của các nước tham chiến và sự tan rã của việc buôn bán quốc tế sau
chiến tranh, đặc biệt là cuộc khủng khoảng kinh tế vào những năm 30, người ta cảm
thấy chỉ sử dụng riêng rẽ thuế quan không đủ sức điều chỉnh quá trình hoạt động


5


ngoại thương. Vì vậy, Nhà nước của các quốc gia đó còn kết hợp hàng rào thuế
quan với các công cụ khác như hạn mức ngoại tệ trong thanh toán, hạn ngạch xuất,
nhập khẩu, quy định danh mục hàng hoá XNK,...
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển tương đối nhanh chóng nền
kinh tế của các nước phát triển đã đưa đến sự ổn định trong buôn bán quốc tế và sự
ra đời hệ thống tiền tệ thế giới. Trong xu thế đó, hầu hết các nước dần dần từ bỏ các
biện pháp quản lý hành chính trong hoạt động ngoại thương, hạ thấp hoặc xoá bỏ
hàng rào thuế quan (ở các nước tham gia hiệp định GATT). Còn đối với các nước
đang phát triển, công cụ thuế quan vẫn được chú trọng. Điều này xuất phát từ hai lý
do chủ yếu. Một là, nền công nghiệp của các nước đang phát triển còn yếu chưa đủ
khả năng cạnh tranh. Hai là, nguồn tài chính của các nước này eo hẹp, trong khi nhu
cầu chi tiêu ngày càng lớn.
Tóm lại, tuỳ theo tình hình kinh tế, chính trị của thế giới và mỗi nước, ở
từng giai đoạn khác nhau, thái độ sử dụng thuế quan ở mỗi nước có những điểm
khác nhau. Xu hướng chung khi nền kinh tế phát triển, khả năng cạnh tranh lớn thì
hàng rào thuế quan không được coi trọng. Đặc biệt đối với các nước có nền kinh tế
phát triển thì mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước bằng công cụ thuế quan ít
được đặt ra.
1.1.1.2. Định nghĩa thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Có nhiều cách hiểu khác nhau về định nghĩa TXK, TNK, tùy thuộc vào từng
góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, TXK, TNK được quan niệm là khoản đóng góp
bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào NSNN theo quy định của pháp luật, khi họ có
hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới một nước. Với cách tiếp cận
này, TXK, TNK được quan niệm như là một quan hệ phân phối các nguồn lực tài
chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là

Nhà nước. Mặt khác, TXK, TNK còn có thể được hiểu là đòn bẩy kinh tế hay biện
pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm
vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm
vi khu vực và toàn cầu.

6


Xét về phương diện pháp lý, TXK, TNK có thể hình dung như là quan hệ
pháp luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp
thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong
quá trình hành thu TXK, TNK. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là
đạo luật TXK, TNK do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu của việc áp
dụng đạo luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và
nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. Việc tiếp cận định
nghĩa TXK, TNK từ góc độ pháp lý có nhiều ý nghĩa thiết thực, trước hết là giúp
chúng ta nhận diện rõ hơn về bản chất của thuế nói chung và TXK, TNK nói riêng,
thực chất là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia với người đóng
thuế, hay là một “thỏa thuận” song phương giữa người thu thuế và người nộp thuế?
Trên cơ sở lý thuyết đó, giúp cho Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách thuế
TXK, TNK phù hợp hơn với quyền lợi của quốc gia và người đóng thuế, xét trong
mối quan hệ lợi ích với các quốc gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
[43,tr.59].
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa; do các tổ chức, cá nhân XNK hàng hóa
thuộc đối tượng chịu thuế, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp cho Nhà nước
theo luật định.
1.1.1.3. Các đặc trưng cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
So với các loại thuế nội địa thì thuế TXK, TNK có nhiều điểm khác biệt.
Những khác biệt này có nguồn gốc sâu xa từ bản chất và chức năng của TXK, TNK.

Các đặc trưng này bao gồm:
Thứ nhất, TXK, TNK có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận
chuyển qua biên giới [43,tr.61]. Khái niệm “hàng hóa” là đối tượng chịu TXK,
TNK có thể hiểu theo nghĩa thông thường, bao gồm các tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị trường bằng cách
chuyển vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước.
Thứ hai, TXK, TNK là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân, tuy nhiên, hoạt động này đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ

7


của Nhà nước. TXK, TNK là một công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm kiểm
soát hoạt động ngoại thương thông qua việc kê khai, kiểm tra, tính thuế đối với
hàng hóa XNK.
Thứ ba, TXK, TNK chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố quốc tế như: sự
biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế [20,tr.57] …TXK, TNK
điều chỉnh vào hoạt động XNK hàng hóa của một quốc gia. Sự biến động của kinh
tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới
hàng hóa XNK của các quốc gia, nhất là trong xu thế tự do hóa thương mại, mở cửa
và hội nhập kinh tế như hiện nay. Từ đó, các yếu tố quốc tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp
tới chính TXK, TNK của từng quốc gia. Để đạt những mục tiêu đặt ra, đòi hỏi chính
sách thuế phải có tính linh hoạt cao, có sự thay đổi phù hợp tùy theo sự biến động
của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế, ngoài ra chính sách TXK, TNK còn phải
đảm bảo phù hợp với hiệp định, cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết, tham gia.
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu
1.1.2.1. Định nghĩa của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những lĩnh vực quản lý
thuế chuyên ngành. Vì vậy, để tiếp cận khái niệm quản lý TXK, TNK trước hết cần

tiếp cận khái niệm quản lý thuế
Quản lý thuế là một dạng của quản lý xã hội kể từ khi có nhà nước và gắn với
quyền lực nhà nước. Quản lý thuế trước hết và quan trọng nhất thuộc trách nhiệm
của nhà nước cho nên người ta thường quan niệm quản lý thuế là quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế.
Điều 3 Luật Quản lý thuế hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung quản
lý thuế gồm: “Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế,
miễn thuế, giảm thuế, xóa nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về người nộp
thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế”. Có thể hiểu,
quản lý thuế là quản lý hành chính nhà nước về thuế, bao gồm việc tổ chức, quản lý,
điều hành quá trình thu nộp thuế, hay nói một cách khác đó là hoạt động chấp hành
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà cụ thể là hệ thống cơ quan quản lý thuế từ
trung ương đến địa phương trong quản lý thu, nộp thuế của Nhà nước từ các tổ
chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế đã được xác định theo nghĩa rộng.

8


Từ định nghĩa quản lý thuế nói trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa quản lý
TXK, TNK. Xét theo nghĩa rộng, quản lý TXK, TNK có thể được hiểu là quản lý
nhà nước trong lĩnh vực TXK, TNK là việc nhà nước tác động có tổ chức và bằng
pháp luật đối với các quá trình kinh tế xã hội và hành vi của con người nhằm thực
hiện các mục tiêu chung thông qua công cụ thuế quan.
Còn xét trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm quản lý TXK,
TNK được hiểu theo nghĩa hẹp là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà
nước để tổ chức thực hiện các quy định TXK, TNK đối với hàng hoá XNK.
1.1.2.2. Vai trò của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thứ nhất, đảm bảo nguồn thu cho NSNN:
Quản lý nhà nước đối với TXK, TNK nhằm đảm bảo nguồn TXK, TNK được

đầy đủ, chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định cho NSNN.
Nguồn thu TXK, TNK luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu ngân
sách quốc gia. Đảm bảo nguồn thu từ TXK, TNK là vai trò quan trọng hàng đầu của
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
nhà nước cần phải tăng thu TXK, TNK bằng mọi giá. Một tỉ lệ thu TXK, TNK hợp
lý và ổn định sẽ vừa kích thích nền kinh tế phát triển, hiệu quả vừa đảm bảo nguồn
lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Vì vậy, vai trò đảm bảo nguồn
thu TXK, TNK là một trong những vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn
hiện nay, với xu thế hội nhập và cắt giảm thuế quan thì nguồn thu từ thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu ngày càng giảm, vì vậy việc quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu và
đảm bảo nguồn thu là rất khó.
Thứ hai, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu:
Kiểm soát hàng hóa XNK là mục tiêu chủ chốt của mỗi quốc gia, đặc biệt
trong xu thế tự do hóa thương mại trên phạm vi khu vực và thế giới. Thông qua việc
quản lý thu TXK, TNK cơ quan nhà nước sẽ quản lý được số lượng, loại hàng hóa
thực XNK, từ đó kiểm soát được tất cả hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và
hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để Nhà nước
đưa ra chính sách pháp luật phù hợp đối với hoạt động XNK cho phép xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa nào, cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nào.
Thứ ba, bảo hộ sản xuất trong nước:

9


Quản lý nhà nước trong lĩnh vực TXK, TNK còn có vai trò quan trọng trong
việc bảo hộ sản xuất trong nước. Nhà nước sẽ sử dụng công cụ TXK, TNK theo
hướng có lợi cho nền kinh tế. Thông qua các chính sách đối với hàng hóa XNK,
Nhà nước tác động vào giá cả hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa, làm giảm
khả năng cạnh tranh đối với hàng hóa được sản xuất trong nước. Và để thay thế,
người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất. Bảo hộ sản

xuất trong nước nhằm hỗ trợ nền sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm và nguồn
thu nội địa. Bảo hộ cũng làm giảm tính cạnh tranh, lãng phí nguồn lực gây thiệt hại
cho người tiêu dùng. Chính vì vậy việc lựa chọn ngành nghề bảo hộ, thời gian bảo
hộ phù hợp là điều vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, về lâu dài thì đầu tư đổi mới
công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới là yếu tố quyết định.
Thứ tư, hạn chế tối đa hành vi vi phạm pháp luật về thuế:
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực TXK, TNK có vai trò trong việc hạn chế tối
đa các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới, hành vi buôn lậu. Đồng thời quản lý nhà nước cũng làm tăng cường
sự tuân thủ pháp luật thuế, bởi tính tuân thủ cao cũng là một trong những biểu hiện
của hệ thống thuế phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ năm, thực hiện các chính sách đối ngoại của Nhà nước:
Một trong những vai trò không kém phần quan trọng của quản lý nhà nước
trong lĩnh vực TXK, TNK là việc thực hiện các chính sách đối ngoại của Nhà nước.
Đây là một biện pháp quản lý tiến bộ thay vì sử dụng những biện pháp phi thuế
quan như cấm nhập khẩu. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu
XNK theo định hướng phát triển kinh tế xã hội thì Nhà nước sẽ sử dụng công cụ
thuế quan theo hướng có lợi cho nền kinh tế là một chính sách phù hợp, góp phần
cân bằng cán cân thương mại và ổn định được cán cân thanh toán quốc tế. Hiện nay,
Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với rất nhiều nước và vùng lãnh thổ,
tham gia nhiều hiệp định thương mại, là thành viên của Tổ chức Hải quan thế giới
(WCO), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để xác định mức độ chịu thuế của
các hàng hóa khác nhau, mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế
quan là một bảng tổng hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh

10


vào các loại hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có

thể được xây dựng dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng
giữa các quốc gia. Vì vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực TXK, TNK có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại với từng quốc gia.
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Trên thế giới hiện nay, hệ thống pháp luật thuế ở các quốc gia được thiết kế
có cấu trúc khác nhau. Có những nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ
luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, nhà làm luật vừa quy
định về nội dung cụ thể của các sắc thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình
tự, thủ tục hành thu và cơ chế quản lý thuế và cả xử lý vi phạm, giải quyết các tranh
chấp về thuế. Ngược lại, có những nước lựa chọn giải pháp thiết kế mỗi sắc thuế
được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính
tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các quy định về quản lý thuế bằng một
đạo luật riêng biệt với các đạo luật quy định sắc thuế, cách làm này đang là một xu
hướng chung của nhiều nước. Giải pháp này được đánh giá là thích hợp hơn với
điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, vì nó cho phép nhà làm luật có thể sửa đổi, bổ
sung và điều chỉnh các quy định trong các đạo luật thuế một cách dễ dàng hơn, so
với việc đưa tất cả các quy định về thuế trong một Bộ luật chung về thuế.
Theo TS.Nguyễn Văn Tuyến: “Xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật
thuế nói chung của các nước đều được cấu thành bởi hai bộ phận chính, bao gồm:
- Các quy định về nội dung của các sắc thuế trong hệ thống thuế;
- Các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện (quy trình hành
thu) hệ thống thuế. Các quy định này thường được quan niệm như là những quy
định về hình thức của pháp luật thuế, bởi nó có nhiệm vụ xác định trình tự, thủ tục
hành thu thuế và quản lý thuế cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp
về thuế. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, tất cả các quy định liên quan đến hoạt động này
đều có thể được gói gọn trong một thuật ngữ là “pháp luật quản lý thuế” và tùy
thuộc vào quan điểm của từng nước mà chúng có thể được quy định chung trong Bộ
luật thuế hay các đạo luật thuế, hoặc được tách bạch riêng rẽ thành một đạo luật về
quản lý thuế.” [47]


11


Như vậy, pháp luật quản lý thuế là một bộ phận quan trọng trong pháp luật
thuế ở các quốc gia, là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để thực hiện công
tác quản lý thuế. Pháp luật quản lý thuế điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động quản lý thuế của Nhà nước, hay nói cách khác là các quan hệ phát
sinh trong quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế.
Từ đó, chúng ta có thể định nghĩa pháp luật quản lý TXK, TNK như sau:
Pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận của pháp luật
quản lý thuế quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ
quan quản lý TXK, TNK và các chủ thể liên quan đến quản lý thuế; quy định trình
tự, thủ tục, cách thức, phương pháp tổ chức thực hiện các qui định pháp luật về
TXK, TNK.
Các quan hệ mà pháp luật quản lý TXK, TNK điều chỉnh khá đa dạng. Nếu
căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ thì pháp luật quản lý TXK, TNK điều chỉnh
các nhóm quan hệ sau:
- Quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan) với người nộp thuế
phát sinh trong quá trình quản lý thu, nộp các loại thuế liên quan đến hoạt động
XNK (thuế XK, NK; thuế giá trị gia tăng; thuế bảo vệ môi trường...).
- Quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan) với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến quản lý thuế XK, NK. Nhóm quan hệ này chủ yếu
liên quan đến việc cung cấp thông tin về người nộp thuế và phối hợp với cơ quan
quản lý thuế trong việc tuyên truyền, hỗ trợ và trong cưỡng chế thi hành các quyết
định hành chính thuế.
- Quan hệ phát sinh trong nội bộ cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan).
Nhóm quan hệ này liên quan đến việc tổ chức bộ máy quản lý thuế (cơ quan Hải
quan) và phân định, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các cơ quan, bộ phận
trong hệ thống cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan).

Căn cứ vào nội dung hoạt động quản lý thuế XK, NK; pháp luật quản lý thuế
XK, NK điều chỉnh các quan hệ về đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế;
hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về
người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế...

12


Qua nghiên cứu thực tiễn luật pháp nước ta cho thấy việc xây dựng pháp luật
quản lý thuế nói chung và quản lý TXK, TNK nói riêng có hai xu hướng:
Một là, các vấn đề về quản lý TXK, TNK được ghi nhận trong các Luật
TNK. Ở nước ta trước khi có Luật Quản lý thuế, pháp luật quản lý TXK, TNK được
xây dựng theo xu hướng này. Bởi vậy, các quy định về quản lý thuế nằm rải rác
trong rất nhiều các văn bản pháp luật khác nhau: trong các văn bản pháp luật quy
định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đều có quy định về quản lý TXK, TNK để
áp dụng cho sắc thuế này. Ngoài ra, các văn bản pháp luật khác cũng có những quy
định liên quan đến công tác quản lý thuế như: Các văn bản pháp luật về kế toán, về
hoá đơn chứng từ, về xử phạt vi phạm hành chính, về khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo; các văn bản pháp luật về thanh tra, kiểm tra, các văn bản pháp luật
về tổ chức bộ máy các cơ quan tài chính.
Hai là, các vấn đề về quản lý thuế được quy định riêng trong đạo luật gọi là
Luật Quản lý thuế để quản lý thống nhất đối với tất cả các loại thuế trong đó có
quản lý TXK, TNK. Cách làm này có ưu điểm bao quát hết các nội dung quản lý
thuế, nâng cao tính pháp lý cho các quy định về quản lý thuế, bảo đảm tính đồng bộ,
tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan) và người dân dễ dàng tìm
hiểu, nắm bắt và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật quản lý thuế. Đồng
thời, nó làm cho hệ thống pháp luật thuế trở nên đơn giản, rõ ràng, minh bạch hơn,
tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi để cơ quan quản lý thuế thực hiện việc hiện đại hoá,
chuyên nghiệp hoá các hoạt động quản lý thuế của mình. Ở nước ta, việc ban hành

Luật Quản lý thuế đã khắc phục được một hạn chế lớn mà từng luật thuế trước đây
không thể quy định. Theo TS.Nguyễn Thị Thương Huyền nhận xét: “Luật Quản lý
thuế Việt Nam đã phản ánh, ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện các nội dung của quản
lý thuế và đặc biệt có thêm nhiều nội dung mới như: Nguyên tắc quản lý thuế;
Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý thuế;
Hợp tác quốc tế về quản lý thuế; Xây dựng lực lượng quản lý thuế; Hiện đại hoá
công tác quản lý thuế; Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế; Thông tin về
người nộp thuế; Gia hạn nộp thuế; Xoá nợ thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định
hành chính thuế v.v.. Hoặc các vấn đề có quy định tại các Luật thuế và văn bản
hướng dẫn thi hành nhưng khó có thể quy định được chi tiết, cụ thể như: Thứ tự
thanh toán tiền thuế, tiền phạt; Xử lý số tiền thuế nộp thừa; Nộp thuế trong thời
13


gian giải quyết khiếu nại, khiếu kiện; Trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế;
Các biện pháp áp dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn
thuế, gian lận thuế; Cưỡng chế thuế v.v.” [46]
Pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật quản lý TXK, TNK nói riêng
dù được xây dựng, thiết kế theo xu hướng nào thì giữa pháp luật quản lý thuế và
pháp luật về nội dung các sắc thuế bao giờ cũng cần có mối quan hệ biện chứng,
thống nhất với nhau. Điều đó thể hiện qua việc, pháp luật về nội dung các sắc thuế
là cơ sở, là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý thuế. Bởi vì, pháp
luật quản lý thuế gắn với việc tổ chức thực hiện các luật thuế trong đó có luật TXK,
TNK, đưa luật thuế vào cuộc sống, hiện thực hoá các quy định của luật thuế. Cho
nên, sự thay đổi pháp luật TXK, TNK tất yếu kéo theo sự thay đổi ít nhiều của pháp
luật quản lý TXK, TNK. Ngược lại, pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật
quản lý TXK, TNK nói riêng có vai trò hết sức quan trọng và tác động rất lớn đến
pháp luật về TXK, TNK. “Hiệu quả của các Luật thuế phụ thuộc khá lớn vào pháp
luật quản lý thuế. Cho dù các luật thuế phản ánh chuẩn xác, khoa học về chính sách
thuế nhưng nếu pháp luật quản lý thuế không phù hợp và thiếu tính khoa học thì

tính hiệu quả và mục tiêu của các luật thuế là không đạt được.” [46].
1.2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và
pháp luật về thủ tục hải quan.
Quản lý TXK, TNK được gắn liền với thủ tục hải quan, hoạt động quản lý
thu nộp thuế nằm trong hoạt động thông quan hàng hóa, hồ sơ khai thuế nằm trong
hồ sơ khai hải quan. Do vậy, pháp luật về quản lý TXK, TNK và pháp luật về thủ
tục hải quan có mối quan hệ khăng khít.
So với việc quản lý các loại thuế nội địa thì việc quản lý TXK, TNK có
những đặc điểm khác biệt về trình tự, thủ tục hành thu. Sự khác biệt này không chỉ
được thể hiện ở khía cạnh chủ thể có thẩm quyền thu thuế (đối với quản lý TXK,
TNK là cơ quan hải quan, còn đối với quản lý thuế nội địa là cơ quan thuế) mà còn
được thể hiện ở những khía cạnh khác như thời hạn tính thuế, thủ tục kiểm tra hàng
hóa và giám định hàng hóa XNK, vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nộp TXK,
TNK bằng cam kết bảo lãnh của các ngân hàng. Điều đó xuất phát từ những đặc
điểm riêng có của hoạt động quản lý XNK hàng hóa. Nếu cơ quan thuế chỉ có

14


nhiệm vụ về quản lý thu nộp về thuế, phí và lệ phí; thì cơ quan hải quan được giao
nhiệm vụ quản lý chung về hàng hóa XNK. Do đó, ngoài nhiệm vụ về quản lý thu
nộp thuế đối với hàng hóa XNK, cơ quan hải quan còn phải thực hiện nhiệm vụ về
kiểm tra, giám sát hàng hóa XNK; điều tra, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới; thống kê hàng hóa XNK. Vì vậy, hoạt động quản lý thu nộp
thuế đối với hàng hóa XNK được gắn liền với các khâu nghiệp vụ của cơ quan hải
quan khi tiến hành thông quan hàng hóa XNK.
Hiện nay, pháp luật về thủ tục hải quan đang dần có những thay đổi cơ bản
dưới tác động của các nhân tố khách quan như:
- Quá trình toàn cầu hóa và nhu cầu áp dụng công nghệ thông tin trong
thương mại quốc tế;

- Sự tiến bộ của công nghệ thông tin tạo điều kiện cho việc áp dụng phổ biến
chứng từ điện tử trên toàn thế giới;
- Việc sử dụng các chuẩn mực quốc tế trong chứng từ điện tử ngày càng
phát triển;
- Nhu cầu giảm chi phí giao dịch/ thuận lợi hóa thương mại và cải cách hành
chính nói chung.
Ngoài ra, những nhân tố chủ quan của ngành hải quan cũng tác động không
nhỏ đến pháp luật về thủ tục hải quan như:
- Yêu cầu về hội nhập với thế giới của ngành hải quan;
- Yêu cầu phát triển ngành hải quan hiện đại, minh bạch, giảm phiền hà
sách nhiễu.
Ngày nay, cơ quan hải quan với vai trò là một trong những cơ quan đóng vai
trò quan trọng trong quản lý thương mại và đi tiên phong trong việc áp dụng những
mô hình, phương pháp quản lý mới nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại.
Vai trò của hải quan ngày nay đã được mở rộng hơn. Hải quan đã trở thành cơ quan
có trách nhiệm chính trong việc tạo thuận lợi cho thương mại, đảm bảo an ninh kinh
tế và tăng nhanh lưu lượng lưu thông hàng hóa. Vì vậy xu hướng phát triển của thủ
tục hải quan hiện đại là xây dựng và triển khai thủ tục hải quan điện tử tức là thủ tục
hải quan (bao gồm cả thủ tục quản lý thuế) được thực hiện bằng phương tiện điện
tử. Theo đó, hải quan hiện đại sẽ được tổ chức thông qua việc ứng dụng công nghệ
15


thông tin và thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử của hải quan để quản lý hàng
hóa XK, NK nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan, đảm bảo đơn
giản, hài hòa, thống nhất và phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn như vậy, pháp luật về thủ tục hải quan cần phải
có những quy định gắn liền với xu hướng phát triển hiện đại hóa của ngành hải
quan. Và vì pháp luật về quản lý TXK, TNK có quan hệ mật thiết với pháp luật về
thủ tục hải quan, nên cũng cần sự cải cách để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thủ

tục hải quan, góp phần tạo thuận lợi trong hoạt động ngoại thương.
1.2.3. Cấu trúc pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.2.3.1. Căn cứ vào nguồn quy phạm pháp luật thì pháp luật quản lý TXK, TNK có
cấu trúc sau:
- Các quy phạm pháp luật quản lý TXK, TNK được quy định ở Luật Quản lý
thuế và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Các quy phạm pháp
luật này là các quy phạm pháp luật chuyên ngành được áp dụng để thực hiện quản
lý chung các khoản thu NSNN trong đó bao gồm cả việc quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu
- Các quy phạm pháp luật quản lý TXK, TNK được quy định trong Luật Hải
quan và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhóm quy phạm pháp luật này là nhóm
quy phạm pháp luật quản lý TXK, TNK có tính đặc thù được ưu tiên áp dụng để
quản lý mà không áp dụng để quản lý các loại thuế khác.
- Các quy phạm pháp luật quản lý TXK, TNK được quy định trong các đạo
luật khác có liên quan. Các quy phạm pháp luật này sẽ được sử dụng khi các văn
bản pháp luật chuyên ngành quản lý thuế không quy định cụ thể. Chẳng hạn, các
quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế sẽ áp
dụng các quy phạm trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo…
1.2.3.2. Căn cứ vào nội dung quy phạm pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
thì pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu có thể sắp xếp theo cấu trúc sau:
- Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung có tính nguyên tắc
trong quản lý thuế như: Xác định phạm vi, đối tượng áp dụng pháp luật quản lý thuế
XK, NK; Các nguyên tắc trong quản lý thuế; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của người
nộp thuế; Quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế; Trách nhiệm của các

16


cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quản lý thuế và những vấn đề
có tính chất chung khác trong quản lý thuế;

- Bộ phận pháp luật quy định cụ thể về từng nội dung trong quản lý thuế XK,
NK như: Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; Thủ tục hoàn thuế, miễn
thuế, giảm thuế; Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; Quản lý thông tin về người nộp thuế;
Kiểm tra thuế, thanh tra thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Xử
lý vi phạm pháp luật về thuế; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế và tổ chức hoạt
động của hệ thống cơ quan quản lý thuế. Trong đó mỗi nội dung pháp luật quản lý
thuế quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể các chủ thể tham gia quan hệ đó và trình
tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo trong khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình trong quan hệ cụ thể ấy như: thủ tục về kê khai thuế; nộp thuế; quyết toán
thuế; thủ tục hoàn thuế; thủ tục miễn giảm thuế...;
1.2.3.3. Căn cứ vào tư cách chủ thể quản lý và biện pháp áp dụng trong quản lý
thuế xuất nhập khẩu thì pháp luật quản lý thuế có thể chia thành hai bộ phận sau:
- Bộ phận pháp luật quy định việc thực thi chức năng quản lý thuế của nhà
nước với tư cách là chủ thể quyền lực, trong đó cơ quan hải quan quản lý thuế là đại
diện thực thi công quyền và biện pháp quản lý được sử dụng là biện pháp hành
chính bắt buộc; Chẳng hạn, các quy định về việc ấn định thuế, cưỡng chế thuế, xử
lý vi phạm pháp luật thuế.;
- Bộ phận pháp luật quy định việc thực thi chức năng quản lý mang tính phục
vụ người nộp thuế, cơ quan hải quan quản lý thuế thực hiện vai trò của cơ quan
cung cấp dịch vụ thuế cho DN và xã hội. Chẳng hạn, các quy định về việc hướng
dẫn, tuyên truyền, hỗ trợ, giải đáp vướng mắc về chính sách thuế, quản lý thuế và
giải quyết các thủ tục hành chính thuế cho người nộp thuế, biện pháp quản lý được
cơ quan thuế sử dụng mang tính hành chính phục vụ và cung cấp các dịch vụ cho
người nộp thuế.
1.2.3.4. Căn cứ vào đối tượng thi hành pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
thì pháp luật quản lý thuế được chia thành 3 bộ phận:
- Bộ phận pháp luật quy định về địa vị pháp lý của người nộp thuế; Người
nộp thuế là đối tượng được luật thuế XK, NK xác định. Ngoài ra, còn có các tổ chức
có trách nhiệm nộp thuế thay người nộp thuế; tổ chức được giao nhiệm vụ thu phí,


17


lệ phí thuộc NSNN... cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật quản lý thuế XK, NK
và có các quyền, trách nhiệm nhất định trong việc nộp thuế.
- Bộ phận pháp luật quy định về địa vị pháp lý của các cơ quan hải quan. Cơ
quan hải quan được tổ chức tập trung tại cấp trung ương và khu vực địa bàn hải
quan để quản lý thu các khoản thuế, các khoản thu NSNN phát sinh tại cửa khẩu hải
quan. Pháp luật giao cho (cơ quan hải quan) quản lý thuế các chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn nhất định để tổ chức thực thi chính sách thuế có hiệu lực, hiệu quả.
- Bộ phận pháp luật quy định về các tổ chức, cá nhân có liên quan đến quản lý
thuế XK, NK bao gồm: các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, liên quan đến việc tuân thủ pháp luật của người
nộp thuế hoặc liên quan đến công tác quản lý của cơ quan quản lý thuế, đồng thời
giám sát cả cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc chấp hành pháp luật về thuế.
1.2.3.5. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quản lý thuế, pháp luật quản lý thuế xuất
khẩu, nhập khẩu được phân thành các bộ phận như sau:
- Bộ phận pháp luật quy định về các thủ tục hành chính thuế, bảo đảm các
điều kiện cho người nộp thuế thực hiện các quyền và nghĩa vụ thuế, bao gồm các
nội dung: Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn
thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt...
- Bộ phận pháp luật quy định về giám sát và bảo đảm việc tuân thủ pháp luật thuế
của cơ quan Hải quan đối với người nộp thuế, bao gồm các nội dung: Quản lý thông tin
về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế, Cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
1.2.4. Những yếu tố chi phối đến pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu
Pháp luật quản lý TXK, TNK chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau,
trong đó gồm một số yếu tố cơ bản sau:
1.2.4.1. Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và cơ chế quản lý thuế của Nhà

nước
Trong thời kỳ bao cấp, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta còn mang tính
giản đơn. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông lâm sản, được xuất sang các
nước XHCN để trả nợ hoặc sang các nước XHCN có hiệp định ưu đãi về thuế quan.
18


×