Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại đoàn kiểm toán của kiểm toán nhà nước chuyên ngành II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN TẠI ĐOÀN KIỂM TOÁN
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC CHUYÊN NGÀNH II

HỌC VIÊN THỰC HIỆN: Thân Thị Hồng Hoa
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60340102
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn

Hà Nội 9/2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,chưa
công bố tại bất cứ nơi nào. Mọi số liệu sử dụng trong luận văn này là những thông
tin xác thực.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Tác giả luận văn

Thân Thị Hồng Hoa



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Viện Đại học Mở đã tạo điều kiện
và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn
sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của GS.TS Đỗ Hoàng Toàn hướng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước chuyên
ngành II, đặc biệt là lãnh đạo chuyên ngành II đã giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong việc
cung cấp các thông tin, tư liệu làm cơ sở giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Hi vọng đề tài nghiên cứu sẽ giúp ích cho hoạt động kiểm toán của Kiểm toán
Nhà nước chuyên ngành II đạt hiệu quả hơn.
Trân trọng!


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

ASOSAI

2

ACCA


Hiệp hội kế toán công chứng Anh quốc

3

BBKT

Biên bản kiểm toán

4

BCKT

Báo cáo kiểm toán

5

BCQT

Báo cáo quyết toán

6

BBTC

Báo cáo tài chính

7

DNNN


Doanh nghiệp nhà nước

8

INTOSAI

9

KT

10

KTNN

11

KTV

12

KSCLKT

Kiểm soát chất lượng kiểm toán

13
14

KSNB
NSNN


Kiểm soát nội bộ
Ngân sách Nhà nước

Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao Châu Á

Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao Thế giới
Kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán viên


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II …….………50
Hình 2.2. Sơ đồ các cấp độ kiểm soát chất lượng kiểm toán ……………...………56
Hình 2. 3. Sơ đồ phản ánh công tác KSCLKT tại Đoàn kiểm toán ……………….58


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực. Có được thành tựu kinh tế phát triển
như hiện nay là do Đảng, Nhà nước có đường lối, chủ trương đúng đắn; sự chỉ đạo,
điều hành có hiệu quả của Chính phủ; sự năng động và quyết tâm của các ngành,
các cấp, các doanh nghiệp khắc phục khó khăn để hoàn thành thắng lợi kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm cũng như các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
trung và dài hạn.
Để có thể thực hiện quá trình tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, phải có
một môi trường tài chính lành mạnh. Do vậy, hoạt động kiểm toán là một yêu cầu
cần thiết của nền kinh tế hiện nay. Hiện nay ở Việt Nam đang có 03 loại hình kiểm
toán, bao gồm: Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ. Trong

đó, Kiểm toán Nhà nước đóng vai trò quan trọng, tham mưu giúp Quốc Hội kiểm
tra, giám sát công tác quản lý, sử dụng ngân sách tiền và tài sản Nhà nước; góp
phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, đồng thời phát
hiện và ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản Nhà nước.
Sau hơn 20 năm hoạt động, KTNN đã khẳng định được vị trí, vai trò là bộ
phận quan trọng không thể thiếu trong kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với
nền tài chính công- là công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài chính ngân sách
thông qua việc công khai kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức, các
cấp ngân sách. Nỗ lực nâng cao chất lượng kiểm toán, trong đó, công tác kiểm soát
chất lượng kiểm toán đã được KTNN xác định là mục tiêu, là nhiệm vụ trọng yếu
của tất cả các cơ quan, đơn vị KTNN Chuyên ngành và Khu vực. Hàng năm các
cuộc kiểm toán của KTNN đã thu về hoặc giảm chi cho ngân sách hàng tỷ đồng về
các khoản thu thiếu hoặc chi sai của các đơn vị quản lý và sử dụng ngân sách nhà
1


nước, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các sai phạm, góp phần làm minh bạch và
lành mạnh hóa các quan hệ tài chính công. Vì vậy, việc củng cố, tăng cường hoạt
động KTNN, nâng cao chất lượng công tác kiểm toán và hoạt động kiểm soát chất
lượng kiểm toán của KTNN đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước coi trọng. Tuy
nhiên, kiểm toán là một lĩnh vực mới ở Việt Nam nên hệ thống kiểm soát chất
lượng kiểm toán của các đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước trong đó có công
tác kiểm soát chất lượng tại Đoàn kiểm toán của kiểm toán Nhà nước chuyên ngành
II còn có những hạn chế nhất định, nhiều Đoàn kiểm toán chưa chấp hành đầy đủ
quy trình, chuẩn mực kiểm toán; các Biên bản kiểm toán, Báo cáo kiểm toán chưa
đưa ra được tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của các số liệu quyết toán, đồng
thời chưa đề xuất được nhiều giải pháp có giá trị giúp các đơn vị được kiểm toán
khắc phục những tồn tại được phát hiện trong quá trình kiểm toán, Hồ sơ kiểm toán
lưu trữ chưa có hệ thống, đầy đủ và khoa học. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất

lượng công tác kiểm toán và hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN
mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra, công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn
kiểm toán cần được KTNN chuyên ngành II nói riêng và Kiểm toán Nhà nước nói
chung chú trọng, ưu tiên nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của, góp phần xây
dựng KTNN trở thành công cụ đắc lực, tin cậy của Chính Phủ và Quốc Hội trong
kiểm tra, giám sát việc quản lý, điều hành nền tài chính công của đất nước.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, em lựa chọn đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện công tác
kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước chuyên
ngành II” góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán của các Đoàn kiểm toán Nhà nước
làm Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN
nói chung và Đoàn kiểm toán nói riêng; đưa ra bài học kinh nghiệm từ một số cơ quan
KTNN trên thế giới trong công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán
của KTNN nói chung và Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II nói riêng.
2


- Nghiên cứu thực trạng về hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm
toán của KTNN nói chung và Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II nói riêng, đánh giá
những kết quả đạt được, xác định những hạn chế, bất cập cần bổ sung, hoàn thiện và
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó trong hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm
toán tại Đoàn kiểm toán từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm soát chất lượng kiểm
toán phù hợp với điều kiện thực tiễn tổ chức và hoạt động kiểm toán tại Đoàn kiểm toán
của KTNN nói chung và Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến kiểm soát chất lượng kiểm toán và công tác khảo sát chất lượng kiểm toán
tại Đoàn kiểm toán của KTNN chuyên ngành II; thực trạng về kiểm soát chất lượng
kiểm toán của Đoàn kiểm toán, kinh nghiệm thực tiễn về kiểm soát chất lượng kiểm

toán tại Đoàn kiểm toán của KTNN ở một số quốc gia; từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm và định hướng hoàn thiện cho KTNN chuyên ngành II.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi kiểm
soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài
chính do KTNN chuyên ngành II thực hiện.
Thời kỳ nghiên cứu để đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán tại
KTNN chuyên ngành II từ 2010 đến 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp nhiều phương pháp; trong đó các
phương pháp chủ yếu được sử dụng như sau:
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích để hệ thống hoá những vấn đề lý luận và
thực tiễn.
+ Phương pháp phỏng vấn, đánh giá tài liệu, quan sát, kiểm chứng để nghiên
cứu, tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạng các vấn đề cần nghiên cứu, xác định rõ
những nguyên nhân làm cơ sở đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện công
3


tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán.
5. Tổng quan
Công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại các đoàn kiểm toán là một trong
những nội dung quan trọng liên quan đến chất lượng các cuộc kiểm toán. Có thể nói
một cách khái quát rằng chất lượng của kiểm toán có đạt được như mong muốn hay
không là nhở nhiều vào công tác giám sát, kiểm soát chất lượng kiểm toán. Công
tác kiểm soát này luôn theo sát các đoàn kiểm toán để phát hiện kịp thời những
thiếu sót, bất cập để đề ra những giải pháp điểu chỉnh kịp thời nhằm nâng cao chất
lượng các cuộc kiểm toán. Đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về công tác kiểm
soát chất lượng kiểm toán, như: Luận văn:“Hoàn thiện nội dung và phương thức
kiểm soát chất lượng kiểm toán trong quy trình kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Việt Nam” của Hoàng Phú Thọ (2006), nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về

kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN; thực trạng việc kiểm soát chất lượng
các bước trong quy trình kiểm toán của KTNN; đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội
dung và phương thức kiểm soát chất lượng các giai đoạn của Quy trình kiểm toán;
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2008: “Hoàn thiện tổ chức công tác kiểm tra, kiểm soát
chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước”, do Nguyễn Trọng Thuỷ làm chủ
nhiệm; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2010“Xây dựng nội dung, thủ
tục và hồ sơ mẫu biểu cho hoạt động kiểm soát chất lượng của một cuộc kiểm toán
của Kiểm toán Nhà nước”, do Đào Thị Thu Vĩnh làm chủ nhiệm, nghiên cứu cơ sở
lý luận về kiểm soát chất lượng kiểm toán; thực tiễn về kiểm soát chất lượng kiểm
toán, nội dung, thủ tục và hồ sơ mẫu biểu trong hoạt động kiểm soát chất lượng
kiểm toán; từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hồ sơ mẫu biểu phục vụ cho
công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán; Đề tài:“Hoàn thiện công tác kiểm soát
chất lượng kiểm toán tại đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước” của Nguyễn Thị
Thùy Linh, đề tài này đã phân tích, đánh giá thực trạng những ưu điểm, hạn chế
của kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn Kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Việt Nam.

4


Các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp đáng kể trong việc giải
quyết vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát chất lượng kiểm toán của
KTNN nói chung và Đoàn kiểm toán nói riêng. Tuy nhiên, các đề tài này chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất cơ sở lý luận về kiểm soát chất lượng
kiểm toán; những vấn đề đặt ra từ thực tiễn về kiểm soát chất lượng kiểm toán, nội
dung, thủ tục và hồ sơ mẫu biểu trong hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán,
kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn Kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt
Nam, chưa có đề tài nào chuyên sâu vào công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán
tại các Đoàn kiểm toán của chuyên ngành cụ thể.
Kết quả nghiên cứu của các công trình, đề tài khoa học trên đã được tham khảo,

nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc trong luận văn “Hoàn thiện công tác kiểm soát chất
lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II” này.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu, đặc biệt đi sâu vào hoạt động kiểm soát chất
lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất
lượng kiểm toán và kiểm soát chất lượng kiểm toán, đưa ra các khái niệm như: kiểm
soát chất lượng kiểm toán, vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán trong hoạt động
kiểm toán của KTNN, chất lượng kiểm toán và những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
đến chất lượng kiểm toán; tập trung làm rõ khái niệm kiểm soát chất lượng kiểm
toán và vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của KTNN. Trên
cơ sở đó, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán tại
Đoàn kiểm toán, đánh giá những ưu điểm, tồn tại của hoạt động kiểm soát chất
lượng kiểm toán của Đoàn kiểm toán, qua đó đưa ra giải pháp phù hợp, có tính khả
thi nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát của Đoàn kiểm toán; đồng thời chỉ ra kinh
nghiệm về hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán ở một số
cơ quan KTNN trên thế giới và đưa ra những bài học bổ ích cho KTNN Việt Nam
góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng kiểm toán của các Đoàn kiểm toán.
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
5


Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 Chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quốc tế về kiểm soát chất lượng kiểm
toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II giai đoạn 2010-2014.
Chương 3: Phương hướng hoạt động, giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát
chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II
giai đoạn 2015-2020.


6


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ VỀ
KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN
TẠI ĐOÀN KIỂM TOÁN
1.1. Khái niệm, vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán trong hoạt động
kiểm toán
1.1.1. Khái niệm kiểm soát chất lượng kiểm toán
Chất lượng phản ánh giá trị về mặt lợi ích của sản phẩm hàng hoá dịch vụ và
do các đối tượng sử dụng và đánh giá. Kết hợp giữa mục đích, ý nghĩa của kiểm
toán với kết quả khảo sát, có thể đưa ra khái niệm chất lượng kiểm toán như sau:
“Chất lượng kiểm toán là mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý
kiến kiểm toán của những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán, đồng thời thoả mãn
về mong muốn có được những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý tài chính, kế toán của đơn vị được kiểm toán với thời gian định trước và giá
phí thích hợp”[8].
Sự phù hợp của khái niệm nêu trên với các quan điểm của các đối tượng được
khảo sát thực tế và với mục đích, ý nghĩa của kiểm toán được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cả khách hàng và các công ty kiểm toán đều cho rằng chất lượng
kiểm toán là sự phù hợp với chuẩn mực kiểm toán. Việc tuân thủ chuẩn mực kiểm
toán chỉ là điều kiện cần để là thoả mãn các đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán.
Do vậy việc thoả mãn của khách hàng đã bao hàm việc tuân thủ chuẩn mực kiểm
toán, đồng thời bao hàm luôn cả quan điểm cho rằng chất lượng thể hiện ở tính
chuyên nghiệp của kiểm toán viên. Thật vậy kiểm toán là hoạt động dịch vụ, do vậy
tính chuyên chuyên nghiệp của kiểm toán viên chính là thuộc tính thụ cảm của dịch
vụ, điều này sẽ hấp dẫn hơn và tạo sự tin tưởng hơn vào kết quả kiểm toán của các


7


đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán khi họ thấy rằng các kiểm toán viên thể hiện
cao tính chuyên nghiệp trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán.
Thứ hai: Trong khái niệm kiểm toán hoàn toàn nhất trí với kết quả khảo sát
rằng chất lượng kiểm toán bao gồm việc tạo ra giá trị gia tăng cho khách hàng thông
qua việc đưa ra các ý kiến đóng góp giúp hoàn thiện và nâng cao công tác quản lý
của khách hàng.
Theo định nghĩa đã nêu thì chất lượng kiểm toán là sự thoả mãn về tính khách
quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của các đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm
toán. Thật vậy, cơ sở của kiểm toán xuất phát từ nhu cầu của các đối tượng sử dụng
thông tin tài chính, họ cần được đảm bảo rằng các báo cáo tài chính mà họ được
cung cấp có phản ánh trung thực và hợp lý hay không. Tính độc lập, khách quan
trong báo cáo và việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán là điều kiện để họ tin tưởng
vào ý kiến kiểm toán. Do đó việc thoả mãn ở mức độ nào chính là thể hiện về chất
lượng kiểm toán.
Trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, theo Tổ chức quốc tế các Cơ quan
Kiểm toán tối cao thế giới (INTOSAI) và Tổ chức quốc tế các Cơ quan Kiểm toán
tối cao châu Á (ASOSAI) thì “Kiểm soát chất lượng là thuật ngữ hàm chứa các
chính sách và thủ tục được cơ quan KTNN sử dụng nhằm bảo đảm công việc kiểm
toán được thực hiện với chất lượng cao” [21]. Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm
toán trong nội bộ cơ quan KTNN là các chính sách, thủ tục điều chỉnh, hướng hoạt
động kiểm toán tới chất lượng và hiệu quả. Do đó, trong hoạt động Kiểm toán Nhà
nước có thể hiểu Kiểm soát chất lượng kiểm toán là thuật ngữ hàm chứa các chính
sách và thủ tục được sử dụng để quản lý, điều hành hoạt động kiểm toán tuân thủ
đúng các nguyên tắc,chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành và các tiêu chí chất lượng
theo quy định của KTNN [17].
Trong kiểm toán, kiểm soát chất lượng là các hoạt động và mang tính tác
nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng. Theo Từ điển Tiếng Việt

trực tuyến (tratu.vn) thì kiểm soát là “xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái
8


với quy định”; Đại từ điển Tiếng Việt đưa ra khái niệm kiểm soát là “kiểm tra, xem
xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định”. Theo cuốn sách Lý thuyết
kiểm toán của GS.TS Nguyễn Quang Quynh và TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Trường ĐH Kinh tế quốc dân: "Kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương
sách để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách thể quản lý" [3]. Kiểm soát có
thể theo nhiều chiều: cấp trên kiểm soát cấp dưới bằng chính sách hoặc biện pháp;
nội bộ trong đơn vị kiểm soát lẫn nhau qua quy chế, quy định và thủ tục quản lý ...
Kiểm soát là quá trình đo lường kết quả thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn,
phát hiện sai lệch và nguyên nhân, tiến hành các điều chỉnh nhằm làm cho kết quả
cuối cùng phù hợp với mục tiêu đã được xác định. Kiểm soát vừa là một quá trình
kiểm tra các chỉ tiêu, vừa là việc theo dõi các ứng xử của đối tượng.
1.1.2. Vai trò của kiểm soát chất lượng kiểm toán
Chất lượng kiểm toán có ý nghĩa quyết định trong việc khẳng định vị thế, uy
tín và hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTNN. Do đó, KTNN phải bảo đảm kết quả
kiểm toán đáp ứng yêu cầu chất lượng, đáng tin cậy và đã được kiểm soát chất
lượng đầy đủ, thích hợp. Chính vì lẽ đó, kiểm soát chất lượng kiểm toán được Tổ
chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) thừa nhận như một định
chế bắt buộc và là trách nhiệm được quy định rõ trong chuẩn mực kiểm toán. Chuẩn
mực kiểm toán “Giám sát và kiểm tra lại” của INTOSAI đã nêu rõ: "Công việc của
kiểm toán viên ở mỗi cấp và mỗi giai đoạn kiểm toán phải được giám sát một cách
đúng đắn trong quá trình kiểm toán và các công việc được thể hiện bằng văn bản
phải được một thành viên cấp cao của đội ngũ kiểm toán kiểm tra lại " [21]. Ở Việt
Nam hiện nay là chuẩn mực kiểm toán nhà nước số 40 "Kiểm soát chất lượng kiểm
toán" (Ban hành năm 2014) khẳng định đây là một quy phạm bắt buộc đối với hoạt
động kiểm toán ở mỗi bước và mỗi giai đoạn kiểm toán, từ đó có các biện pháp điều
chỉnh, khắc phục những bất hợp lý, hoàn thiện chính sách quản lý, phương pháp

làm việc, tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ KTV nhằm mục tiêu không ngừng
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Vì vậy, việc thiết lập và duy trì một cơ
9


chế kiểm soát chất lượng hiệu lực và hiệu quả là một trong những nhiệm vụ quan
trọng. Để làm được điều đó, trước hết cần phải xác định rõ những nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán của KTNN.
1.1.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm
toán tại Đoàn kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II
Sau gần 10 năm hoạt động, KTNN chuyên ngành II đã thực hiện trên dưới
một trăm cuộc kiểm toán trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả thu được phản ánh qua
các Báo cáo kiểm toán không chỉ là những con số tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN,
mà còn giúp cho các cơ quan tổ chức nhìn nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tài
chính để chấn chỉnh trong công tác quản lý điều hành, khắc phục yếu kém, góp
phần ngăn ngừa lãng phí, thất thoát và tham nhũng. Do đó, Báo cáo kiểm toán của
KTNN chuyên ngành II đóng vai trò quan trọng trong việc xác nhận tính đúng đắn,
trung thực của Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán ngân sách; đánh giá việc tuân
thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước; làm căn cứ để: các cơ quan chức năng của nhà nước
(Chính phủ, Hội đồng nhân dân...) tham khảo xem xét, quyết định dự toán phân bổ
ngân sách nhà nước; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra
sử dụng trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính;
Đơn vị được kiểm toán phải thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà
nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân
thủ pháp luật; thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn
vị do kiểm toán phát hiện và kiến nghị.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước đòi hỏi hiệu quả hoạt động của KTNN cần
phải được nâng cao khắc phục các hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến chất lượng kiểm
toán. Vì vậy việc nâng cao chất lượng hoạt động của KTNN nói chung và KTNN

chuyên ngành II nói riêng là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm.
Trước hết để chất lượng hoat động của KTNN nâng cao, cần tăng cường công
tác KSCLKT, đặc biệt là KSCLKT tại Đoàn kiểm toán. KSCLKT tại Đoàn kiểm
10


toán có vai trò quan trọng giúp nâng cao trách nhiệm tự kiểm tra, kiểm soát của
KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán và trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cấp
trên đối với cấp dưới.
Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán tại các Đoàn kiểm toán hiện nay tuy đã
được KTNN chuyên ngành II tổ chức thực hiện nhưng số lượng, phạm vi còn hạn
chế. Các thành viên trong Đoàn kiểm toán chưa được quán triệt, quy định rõ trách
nhiệm trong công tác KSCLKT nên thường chủ quan và không chú trọng thực hiện
dẫn đến còn nhiều mặt tồn tại, hạn chế như đã phân tích, làm ảnh hưởng đến chất
lượng, mức độ tin cậy của Báo cáo kiểm toán. Do đó, KTNN chuyên ngành II cần
đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng tại Đoàn kiểm toán để
nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động kiểm toán.
1.2. Chất lượng kiểm toán và những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất
lượng kiểm toán của KTNN
1.2.1. Chất lượng kiểm toán và các tiêu chí đánh giá chất lượng kiểm toán
Kiểm toán là một hoạt động đặc biệt, một loại hoạt động dịch vụ đảm bảo,
giúp các đối tượng sử dụng thông tin tài chính an tâm, tin cậy về chất lượng, tính
trung thực, đúng đắn, hợp pháp, đầy đủ của thông tin đã được kiểm toán xác nhận.
Giống như các hoạt động khác, sản phẩm kiểm toán (kết quả kiểm toán) phải đạt
những tiêu chuẩn chất lượng nhất định. Mặt khác, vì là dịch vụ xác nhận và đảm
bảo phải cung cấp thông tin tin cậy, trung thực, khách quan để người sử dụng ra
quyết định đúng đắn, nên chất lượng kiểm toán lại càng được đề cao.
Đặc biệt, kết quả hoạt động KTNN cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng
khác nhau: Quốc hội, Chính phủ, các đơn vị được kiểm toán, công chúng...; mỗi đối
tượng lại có sự quan tâm, nhu cầu, sự mong đợi khác nhau về kết quả kiểm toán. Vì

vậy, chất lượng kiểm toán lại được nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Chẳng hạn như,
từ cùng một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của một doanh nghiệp nhà nước, đối
với Quốc hội, Chính phủ sự hài lòng về chất lượng kiểm toán của KTNN có thể là
những kết luận, kiến nghị mang tầm vĩ mô, giúp ích thiết thực cho hoạch định, xây
11

Comment [U1]: Chuyển t ừ 3.1 lên


dựng chính sách, pháp luật; đối với đơn vị được kiểm toán thì vấn đề đánh giá đúng
thực trạng, các giải pháp tư vấn khắc phục hạn chế, bất cập sẽ có giá trị; đối với
công chúng thì lại quan tâm đến vấn đề công khai có xác nhận của kiểm toán về
thực trạng tài chính.
Qua nghiên cứu khái niệm chất lượng kiểm toán nói chung và vai trò hoạt động
của Kiểm toán Nhà nước nói riêng, có thể rút ra khái niệm và đặc điểm chất lượng
kiểm toán của KTNN như sau: Chất lượng kiểm toán của KTNN là mức độ thoả mãn
của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan, trung thực và độ tin
cậy vào các kết luận, đánh giá và nhận xét của KTNN, đồng thời thoả mãn về các kiến
nghị, giải pháp do KTNN đưa ra, với chi phí hoạt động kiểm toán hợp lý [17].
Trong hoạt động của KTNN các đặc điểm của chất lượng kiểm toán thể hiện ở
các vấn đề sau:
Thứ nhất, tầm quan trọng của vấn đề được kiểm toán, của phát hiện kiểm toán.
Điều này có thể được đánh giá trên các giác độ khác nhau, như: quy mô tài chính
của đối tượng kiểm toán; tầm ảnh hưởng của hoạt động của đơn vị được kiểm toán;
những ảnh hưởng của vấn đề kiểm toán đối với xã hội, đối với chính sách quốc
gia… Đối với Kế hoạch kiểm toán, tầm quan trọng của một vấn đề có ý nghĩa quyết
định trong việc đưa vấn đề đó vào Kế hoạch kiểm toán của KTNN, bao gồm cả Kế
hoạch kiểm toán dài hạn, trung hạn, hàng năm và của từng cuộc kiểm toán; đối với
quá trình thực hiện kiểm toán, tầm quan trọng của phát hiện, kết quả kiểm toán và
quyết định việc đưa chúng vào Báo cáo kiểm toán hay không; trong Báo cáo kiểm

toán, tầm quan trọng là các phát hiện, kết quả phải là các số liệu, thông tin, kiến
nghị có giá trị, đúng đắn và thỏa đáng.
Thứ hai, phạm vi kiểm toán thể hiện ở sự đầy đủ và thích hợp của các vấn đề cần
kiểm toán, thời kỳ (niên độ) được kiểm toán, đơn vị được kiểm toán… để đảm bảo
kiểm toán thành công và hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của các đối tượng sử dụng
thông tin trong Báo cáo kiểm toán. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, cần phải thực
hiện kiểm toán trong thời kỳ, niên độ tài chính có liên quan và kiểm toán tại các đơn vị
12


thích hợp; đối với Báo cáo kiểm toán thời kỳ, đơn vị, vấn đề được kiểm toán phải được
trình bày đầy đủ và thích hợp theo KHKT và mục đích của BCTC.
Thứ ba, tin cậy: các phát hiện và kết luận kiểm toán phản ánh chính xác tình
hình thực tế của đối tượng được kiểm toán, có bằng chứng đầy đủ, thích hợp; kiến
nghị kiểm toán dựa trên các phát hiện kiểm toán và sự hiểu biết về pháp luật và kiến
thức chuyên môn cần thiết. Đối với quá trình xác định tình hình thực tế của đối
tượng kiểm toán, thông tin thu thập được phải đáng tin cậy: vấn đề, đơn vị được
kiểm toán đã được khảo sát kỹ đảm bảo chính xác về tên gọi, số liệu, tình hình và
xác định đúng rủi ro kiểm toán; trên cơ sở Báo cáo tài chính của đơn vị để tiến hành
thu thập thông tin, số liệu, tài liệu phải đáng tin cậy, có cơ sở pháp lý, các bằng
chứng thu thập được phải thích hợp, hiệu lực và có liên quan đến kết quả kiểm toán
và đánh giá được rủi ro, tránh sai sót.
Thứ tư, tính khách quan: thực hiện kiểm toán một cách công bằng và vô tư;
đánh giá và kết luận kiểm toán dựa trên sự thực và sự phân tích bằng chứng kiểm
toán. Ví dụ: KTV thực hiện kiểm toán phải vô tư, công bằng, không bị xung đột lợi
ích và chỉ dựa trên các căn cứ nghề nghiệp để lựa chọn đơn vị được kiểm toán và bố
trí nhân sự; kết luận và đánh giá vấn đề kiểm toán chỉ dựa trên sự thật và bằng
chứng thu thập được.
Thứ năm, tính kịp thời: kết quả kiểm toán được công bố vào thời gian phù
hợp. Tính kịp thời bao gồm sự tuân thủ về thời hạn theo quy định hoặc cung cấp

kết quả kiểm toán khi cần cho việc ra quyết định quản lý hoặc khắc phục các yếu
kém trong quản lý. Ví dụ: vấn đề được kiểm toán được lựa chọn mang tính thời
sự, quá trình kiểm toán bảo đảm đúng tiến độ, không chậm trễ, thời gian công bố
và cung cấp kết quả kiểm toán đúng thời điểm và thời gian lập BCKT tuân thủ
theo quy định của KTNN.
Thứ sáu, tính rõ ràng: Báo cáo kiểm toán được trình bày rõ ràng và súc tích.
Điều này cần thiết để tạo điều kiện cho người sử dụng Báo cáo kiểm toán hiểu một
cách dễ dàng về phạm vi, các phát hiện và kiến nghị kiểm toán, vì người sử dụng
13


Báo cáo kiểm toán có thể không phải là các chuyên gia về các vấn đề kiểm toán
nhưng cần các thông tin trong Báo cáo kiểm toán để xử lý công việc. Ngoài ra,
KTV phải minh bạch, thực hiện đúng quy trình, thủ tục trong quá trình tiến hành
hoạt động nghiệp vụ, xem xét, xử lý và đưa ra kết quả kiểm toán.
Thứ bảy, tính hiệu quả: những nguồn lực (con người, ngân sách, thời gian…)
phân bổ cho kiểm toán một cách hợp lý, tương xứng với tầm quan trọng và độ phức
tạp của hoạt động kiểm toán, tiết kiệm được thời gian, nhân lực và kinh phí trong
quá trình thực hiện kiểm toán và Báo cáo kiểm toán phải có tác động tích cực và đạt
được mục tiêu kiểm toán.
Thứ tám, tính hiệu lực: các phát hiện, kết luận và kiến nghị kiểm toán được
đơn vị được kiểm toán chấp thuận và thực hiện, được Chính phủ, Quốc hội và các
cơ quan hữu quan sử dụng; đạt được các tác động mong muốn; các Báo cáo kiểm
toán góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình, sự minh bạch và nâng cao chất
lượng công tác quản lý trong khu vực công. Đặc điểm này đánh giá tác động của
kiểm toán thông qua: việc sửa chữa, khắc phục các sai phạm, khuyết điểm của đơn
vị được kiểm toán; tỷ lệ chấp nhận và thực hiện kiến nghị kiểm toán của đơn vị
được kiểm toán; mức độ hài lòng của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan hữu
quan, đơn vị được kiểm toán đối với các kết quả kiểm toán.
Chất lượng kiểm toán thể hiện ở “sản phẩm” cuối cùng của quá trình kiểm

toán, đó là các Báo cáo kiểm toán. Quá trình kiểm toán tương tự như một quá trình
sản xuất, nó diễn ra theo trình tự các bước công việc nhất định, từ khâu lập Kế
hoạch kiểm toán, tiến hành kiểm toán đến khâu lập Báo cáo kiểm toán. Do đó, để
các sản phẩm kiểm toán đạt chất lượng thì tất cả các giai đoạn của quá trình kiểm
toán đều phải đạt được các vấn đề nêu trên.
Chất lượng kiểm toán được xem xét trên hai góc độ thể hiện trên sơ đồ sau:
Comment [U2]: Bổ sung tên hình vẽ

Hình 1.1: Chất lượng kiểm toán

14


Chất lượng kiểm
toán

Chất lượng kiểm
toán nói chung

Chất lượng cuộc
kiểm toán

Chất lượng kiểm toán nói chung và chất lượng cuộc kiểm toán. Chất lượng
kiểm toán nói chung, gồm chất lượng của môi trường kiểm soát và hoạt động kiểm
soát. Môi trường kiểm soát bao gồm các nhân tố bên trong cơ quan kiểm toán nhà
nước như nhận thức, quan điểm của người lãnh đạo về kiểm soát; các quy định
nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát; cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm toán và tổ chức bộ
máy kiểm soát, chính sách về nhân sự; các yếu tố bên ngoài như hệ thống pháp luật,
cơ chế quản lý của Nhà nước... Do vậy việc xây dựng tiêu chí để đánh giá chất
lượng kiểm toán nói chung là khó thực hiện. Riêng đối với chất lượng cuộc kiểm

toán có thể xây dựng các tiêu chí để đánh giá và lượng hoá được, đó là mức độ đạt
được so với chuẩn mực, quy trình kiểm toán và các quy định khác về nghiệp vụ
kiểm toán có liên quan.
Yêu cầu thực tế của công tác quản lý chất lượng kiểm toán cần phải xác định
được tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc kiểm toán, nhằm xác định mức độ chất
lượng của các cuộc kiểm toán so với tiêu chuẩn về chất lượng, so sánh được chất
lượng giữa các cuộc kiểm toán, là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành công việc
của đoàn kiểm toán, các đơn vị kiểm toán và hiệu quả hoạt động kiểm toán, đặc biệt
xác định được thực trạng những hạn chế, tồn tại trong hoạt động kiểm toán, từ đó đề
ra các giải pháp khắc phục trong những lần kiểm toán sau.
Chất lượng cuộc kiểm toán chịu tác động, ảnh hưởng của các yếu tố thuộc quy
trình thực hiện cuộc kiểm toán; do vậy tiêu chí đánh giá chất lượng kiểm toán phải
bao gồm các yếu tố của quy trình tác động đến chất lượng cuộc kiểm toán. Theo đó,
15


một cuộc kiểm toán được coi là có chất lượng khi nó được thực hiện trên cơ sở bảo
đảm tốt các tiêu chí cơ bản sau:
- Kế hoạch kiểm toán tổng quát: Kế hoạch kiểm toán tổng quát đúng mẫu, đầy
đủ nội dung theo quy định của KTNN; xác định rõ, đầy đủ mục tiêu kiểm toán, nội
dung kiểm toán, phạm vi kiểm toán, mức trọng yếu, rủi ro kiểm toán và phương
pháp kiểm toán; các nội dung của phần kế hoạch kiểm toán được lý giải thoả đáng,
có căn cứ, phù hợp, gắn liền với tình hình, số liệu của đơn vị được kiểm toán.
- Kế hoạch kiểm toán chi tiết của đoàn kiểm toán: Kế hoạch kiểm toán chi tiết
của đoàn kiểm toán được lập đúng theo quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động
của đoàn KTNN, cụ thể hoá, xác định rõ được mục tiêu, nội dung kiểm toán đã xác
định trong kế hoạch kiểm toán tổng quát, chi tiết cho từng đơn vị được kiểm toán đã
ghi trong thông báo kiểm toán.
- Kế hoạch kiểm toán chi tiết của tổ kiểm toán: Kế hoạch kiểm toán chi tiết của
tổ kiểm toán được xây dựng đúng mẫu, đủ các chỉ tiêu theo quy định của KTNN,

nội dung, mục tiêu kiểm toán phù hợp với kế hoạch kiểm toán chi tiết của đoàn
kiểm toán và kế hoạch kiểm toán tổng quát.
- Hoạt động kiểm toán: Hoạt động kiểm toán tuân thủ kế hoạch kiểm toán,
chuẩn mực, quy trình kiểm toán, các quy định chuyên môn nghiệp vụ khác về kiểm
toán và pháp luật có liên quan.
- Bằng chứng kiểm toán: Thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp
để làm cơ sở cho việc hình thành các ý kiến, kết luận kiểm toán về các nội dung,
mục tiêu kiểm toán đã xác định trong kế hoạch kiểm toán [4], [5].
- Về kiểm toán viên và đoàn kiểm toán: Kiểm toán viên, đoàn kiểm toán tuân
thủ Quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm toán, các chuẩn mực kiểm toán
chung theo quy định của KTNN, bao gồm: chuẩn mực về độc lập, khách quan và
chính trực; khă năng và trình độ; Thận trọng và bảo mật.

16


- Hồ sơ kiểm toán: Nội dung trong nhật ký làm việc của kiểm toán viên, biên
bản xác nhận số liệu và tình hình kiểm toán của kiểm toán viên phù hợp với các nội
dung xác định trong kế hoạch kiểm toán chi tiết của tổ kiểm toán [7].
- Biên bản kiểm toán: Các biên bản kiểm toán phải chính xác, rõ ràng, xúc
tích, kịp thời; phản ánh đủ các nội dung, mục tiêu kiểm toán đã đề ra trong kế hoạch
kiểm toán chi tiết của tổ kiểm toán; phản ánh đầy đủ kết quả kiểm toán trong các
biên bản xác nhận tình hình, số liệu kiểm toán của kiểm toán viên và các bằng
chứng kiểm toán khác; các ý kiến đánh giá, nhận xét, kiến nghị kiểm toán phải có
đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp pháp luật.
- Báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán phù hợp với chuẩn mực báo cáo và
các quy định về báo cáo kiểm toán do KTNN ban hành, bảo đảm chính xác, rõ
ràng, xúc tích, kịp thời, có tính xây dựng; phản ánh đầy đủ tình hình, kết quả kiểm
toán và các nội dung, mục tiêu kiểm toán đã đề ra; những sai sót, gian lận, những
tồn tại trong quản lý trình bày trong báo cáo đã được xem xét, giải quyết thoả đáng;

các ý kiến nhận xét, đánh giá, kết luận kiểm toán được căn cứ vào những bằng
chứng kiểm toán đầy đủ, xác thực và tin cậy, phù hợp với pháp luật hiện hành; kiến
nghị kiểm toán phù hợp pháp luật và có tính khả thi.
- Sử dụng các nguồn lực kiểm toán: Phân bổ và quản lý, sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực kiểm toán.
Trên cơ sở các tiêu chí nêu trên, cần xác định thang điểm cho các tiêu chí. căn
cứ vào mức độ quan trọng của từng tiêu chí. Nếu coi tổng số điểm là 100 thì điểm
cho từng tiêu chí có thể xác định là:
(1) Kế hoạch kiểm toán tổng quát: 15 điểm; (2) Kế hoạch kiểm toán chi tiết
của đoàn kiểm toán: 10 điểm; (3) Kế hoạch kiểm toán chi tiết của tổ kiểm toán: 10
điểm; (4) Hoạt động kiểm toán: 15 điểm; (5) Bằng chứng kiểm toán: 15 điểm: (6)
Về kiểm toán viên và đoàn kiểm toán: 10 điểm; (7) Hồ sơ kiểm toán: 5 điểm; (8)
Biên bản kiểm toán: 5 điểm; (9) Báo cáo kiểm toán: 10 điểm; (10) Sử dụng các
nguồn lực kiểm toán: 5 điểm.
17


Như vậy số điểm của các tiêu chí liên quan đến kế hoạch kiểm toán là 35
điểm, giai đoạn thực hiện kiểm toán là 50 điểm, báo cáo kiểm toán 10 điểm và sử
dụng các nguồn lực kiểm toán là 5 điểm.
Theo thang điểm đó, chất lượng các cuộc kiểm toán có thể chia thành bốn
mức như sau: (1) Không đạt yêu cầu: dưới 50 điểm; (2) Loại trung bình: từ 51 đến
70 điểm; (3) Loại khá: từ 71 đến 90 điểm; (4) Loại tốt: từ 91 đến 100 điểm.
Căn cứ vào các tiêu chí nêu trên có thể đánh giá, phân loại được chất lượng
các cuộc kiểm toán; đây cũng là một trong những biện pháp cần thiết, góp phần tích
cực vào việc nâng cao chất lượng kiểm toán.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán
Có nhiều nhân tố khách quan, chủ quan tác động, ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến chất lượng kiểm toán của KTNN, tuy nhiên ở đây sẽ tập trung phân
tích một số nhân tố chủ yếu xuất phát từ bên ngoài KTNN và nhân tố xuất phát từ

bên trong môi trường KTNN, cụ thể:
1.2.2.1. Nhóm yếu tố bên ngoài KTNN
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài
bao gồm:
- Một là, vấn đề liên quan đến tính độc lập của cơ quan KTNN
Tính độc lập là yếu tố quan trọng hàng đầu, tác động trực tiếp đến chất lượng
kiểm toán, bởi vì trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến nhận xét, đánh giá, kết luận
cũng như kiến nghị của KTV đều phải dựa trên những bằng chứng kiểm toán và quy
định của pháp luật. Tuyên bố Lima của INTOSAI về các nguyên tắc kiểm toán đã
nhấn mạnh: các Cơ quan Kiểm toán tối cao chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ một
cách khách quan và hiệu quả khi độc lập với đơn vị được kiểm toán và được bảo vệ
trước các ảnh hưởng từ bên ngoài.
Để bảo đảm tính độc lập cho hoạt động kiểm toán thì cơ quan KTNN phải

18


được độc lập về các vấn đề cơ bản, như: địa vị pháp lý, ngân sách hoạt động và
nhân sự.
Địa vị pháp lý của của một cơ quan, đơn vị luôn phụ thuộc vào hình thức văn
bản pháp luật. Mặc dù các cơ quan nhà nước không thể hoàn toàn độc lập bởi chúng
là một bộ phận trong tổ chức của nhà nước, nhưng KTNN cần có sự độc lập cả về
chức năng, tổ chức và có quyền tự xác định cơ cấu tổ chức bộ máy, các quy trình
hoạt động mà không bị sự can thiệp từ bên ngoài. Để bảo đảm tính độc lập cho hoạt
động kiểm tra tài chính nhà nước, cần phải quy định rõ tính độc lập của cơ quan
KTNN trong đạo luật cao nhất của mỗi quốc gia (Hiến pháp) và cụ thể hoá về tổ
chức và hoạt động của cơ quan KTNN bằng Luật Kiểm toán nhà nước. Tại hầu hết
các nước trên thế giới, tính độc lập của hoạt động KTNN và cơ quan KTNN đều
được quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán nhà nước hoặc được xác định trong
Hiến pháp.

Độc lập về ngân sách hoạt động là điều kiện cơ bản bảo đảm tính tự chủ cho
KTNN trong thực thi nhiệm vụ. KTNN cần phải được cung cấp đầy đủ ngân sách để
có thể hoàn thành nhiệm vụ. Nếu bị hạn chế về mặt tài chính, cơ quan KTNN sẽ khó
khăn trong hoạt động, phạm vi kiểm toán có thể bị thu hẹp, một số thủ tục và
phương pháp kiểm toán có thể bị bỏ qua vì vấn đề kinh phí. Đặc biệt, nếu ngân sách
hoạt động bị phụ thuộc vào đơn vị được kiểm toán thì sẽ tạo ra sự ràng buộc, tác
động tiêu cực đến kết quả kiểm toán, tính khách quan và chất lượng kiểm toán.
Trên thế giới, hầu hết các nước đều quy định việc cấp phát ngân sách cho cơ
quan KTNN được thể chế hoá trong Luật Kiểm toán nhà nước, như KTNN Vương
quốc Anh “do Uỷ ban Kiểm toán riêng biệt trước khi ngân sách này được trình lên
Hạ nghị viện”.
Độc lập về nhân sự: Sự độc lập của KTNN gắn liền với sự độc lập của người
đứng đầu. Cơ chế bổ nhiệm Lãnh đạo cơ quan KTNN (nhất là người đứng đầu
Kiểm toán Nhà nước) có tác động rất lớn đến các quyết định của họ, đặc biệt là về
Kế hoạch kiểm toán, nội dung của Báo cáo kiểm toán và các nội dung công khai
19


trên các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó, cần phải có quy định pháp luật rõ
ràng, cụ thể về cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN; cơ chế đó phải bảo đảm
cho Tổng KTNN không bị những ràng buộc có thể tác động đến tính khách quan
của những quyết định đưa ra. Tại nhiều nước, để tránh khả năng cơ quan lập pháp
(nếu KTNN trực thuộc Quốc hội) hoặc hành pháp (nếu KTNN trực thuộc Chính phủ)
có quyền miễn nhiệm người đứng đầu cơ quan KTNN, đã quy định cụ thể về thẩm
quyền, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm người đứng đầu cơ quan KTNN trong Hiến
pháp hoặc Luật Kiểm toán nhà nước (Tổng KTNN được quyền miễn trừ, bất khả
xâm phạm, không tham gia đảng phái chính trị).
- Hai là, trình độ phát triển của nền kinh tế, xã hội nói chung và lĩnh vực kế
toán, kiểm toán và quản lý tài chính nói riêng phát triển ở mức hòa nhập được với
chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế, thì chất lượng kiểm toán cũng được chú

trọng và đảm bảo.
- Ba là, môi trường thực thi pháp luật của xã hội ở mức tuân thủ thì các gian
lận, sai phạm trong hoạt động kế toán, kiểm toán sẽ được hạn chế, lúc đó rủi ro đối
với hoạt động kiểm toán cũng giảm thiểu và chất lượng kiểm toán được nâng cao.
- Bốn là, phương tiện truyền thông cũng là một trong những tác nhân góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán; khi hệ thống thông tin truyền thông phát
triển. Để đảm bảo uy tín của mình trước các thông tin đại chúng thì chất lượng
thông tin do cơ quan KTNN cung cấp thông qua phát hành các báo cáo kiểm toán
phải được đảm bảo, đáng tin cậy.
1.2.2.2. Nhóm yếu tố bên trong môi trường KTNN
Nhóm yếu tố bên trong môi trường KTNN thuộc về chủ quan của cơ quan
KTNN, như: cơ cấu tổ chức, cơ chế phân công, phân nhiệm; chính sách cán bộ; các
quy định về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán; trình độ và đạo đức nghề nghiệp của
KTV, công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán… Đây là những yếu tố chủ quan, tác
động trực tiếp, quyết định đến chất lượng kiểm toán của KTNN. Những yếu tố này
thuộc phạm vi của KTNN nên KTNN có thể kiểm soát được thông qua các chính
20


×