Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vai trò của nguyễn ái quốc với sự ra đời của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.43 KB, 17 trang )

A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Học thuyết Mác – Lê nin về Đảng Cộng sản đã trải qua quá trình hình
thành và phát triển với thuộc tính cơ bản là tính cách mạng và tính hoa học,
đòi hỏi những người cộng sản phải nắm vững và quán triệt trong thực tiễn,
đồng thời phải biết vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của
dân tộc mình như điều kiện mà Lê nin chỉ dẫn: “ Chúng ta không thể coi lý
luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một trong số mẫu người cộng sản
như thế. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã quán triệt sâu sắc lời
chỉ dẫn trên của Lê nin và có nhiều sáng tạo độc đáo. Trong chiến lược cách
mạng của Người, quan điểm xây dựng Đảng Cộng sản ở một số nước thuộc
địa để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là quan điểm cực kỳ
quan trọng. Quan điểm đó được hình thành từ từ khi Người đến với chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta. Từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ người
yêu nước trở thành chiến sỹ cộng sản, Người tự nguyện phấn đấu cho mục
tiêu, lý tưởng cộng sản. Hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế và công
nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vấn đề
quan trọng đầu tiên của cách mạng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố
quyết định thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Vì thế, vấn đề thàng lập ở Việt
Nam một Đảng Cộng sản được đặt ra, được Người thực hiện một cách khoa
học và sáng tạo. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam với đặc điểm của nó đặt
ra cho việc thành lập Đảng Cộng sản dù về bản chất không có khác bất cứ


Đảng Cộng sản nào, không phải là việc đơn giản, không thể rập khuôn máy
móc, mà đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam – một


nước thuộc địa, nửa phong kiến, đa số là nông dân, giai cấp công nhân thì ít.
Trên cơ sở thấm nhuần học thuyết Mác – Lê nin về xây dựng Đảng Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo và tiến hành
xây dựng thành công Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Đảng do
Người sáng lập là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đồng thời đề ra được cương
lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ đầu. Những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh trong việc sáng lập Đảng ở một nước thuộc địa đã được thực tế
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng và
chứng minh là đúng đắn và khoa học. Đây là cống hiến quan trọng của Người
vào kho tàng lý luận Mác – Lê nin về xây dựng Đảng kiểu mới ở một nước
thuộc địa – một lĩnh vực quan trọng thuộc chiến lược cách mạng.
85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng do Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng
lợi vẻ vang, lập nên kỳ tích trong thế kỷ XX. Cũng chính từ thực tiễn lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta trở thành người lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam,
được toàn thể dân tộc coi là Đảng của mình. Gần 30 năm Đảng lãnh đạo công
cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu rất quan trọng. Hiện nay, tiếp tục
công cuộc đổi mới đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước, phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh, đòi hỏi Đảng ta
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực sức chiến đấu
của Đảng là nhiệm vụ then chốt – nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc ta. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ những
sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên đường sáng lập Đảng ta để
vận dụng vào giai đoạn cách mạng hiện nay là việc làm cần thiết, vừa có ý
nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn . Vì những lý do trên tôi chọn đề tài

2



“Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam (3/2/1930) cũng như công lao to lớn của Người với quá trình
hình thành, phát triển của Đảng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu được bối cảnh lịch sử quốc tế và trong nước khi Nguyễn Ái Quốc
ra đi tìm đường cứu nước.
Trình bày được công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với việc tàm ra con
đường cứu nước của dân tộc Việt Nam (1911 - 1920).
Nghiên cứu sự chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ái Quốc về mặt chính trị,
về tổ chức, về tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài tiểu luận này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp logic và sự kết hợp của hai phương pháp. Ngoài ra còn sử dung
phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát, thống kê, so sánh, đối chiếu.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết thúc tiểu luận gồm hai chương.
Chương I. Hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước và
gặp gỡ Chủ nghĩa Mác – Lênin (1911 - 1920).
Chương II. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị chu đáo cho sự thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (1920 - 1930).

3


B. NỘI DUNG.
Chương I: Hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
và gặp gỡ Chủ nghĩa Mác – Lênin (1911 - 1920).

1. Hoàn cảnh trong nước: Hành trang Nguyễn Ái Quốc trước khi ra
đi tìm đường cứu nước (1890 - 1911).
1.1. Bối cảnh xã hội trong nước và thế giới.
Vào giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống
trị ở Anh, Đức, Pháp và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp
tư sản tăng cường áp bức bóc lột giai cấp công nhân, và cũng tại đây phong
trào công nhân phát triển từ “tự phát sang tự giác” khiến cho mâu thuẫn cơ
bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên
phong chỉ đường. Để đáp ứng đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên
ngôn Đảng cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định quy luật diệt
vong của chủ nghĩa tư bản, nhường bước cho xã hội mới, xã hội cộng sản chủ
nghĩa, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và đã căn
bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách áp bức thực dân ở khắp các
nước Á, Phi và Mỹ La tinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm
các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây và khu vực
kia bao gồm các nước thuộc địa, thường được gọi là phương Đông. Vấn đề
đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để được giải phóng. Thế giới
hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa vói chủ
nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc
tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng ở chính quốc.
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo trước
bước chuyển biến trong tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh giành quyền
4


lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất

(1914 - 1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên
gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế
quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên
mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ...bão táp cách
mạng với “Phương Đông thức tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong
giai đoạn này.
Trong bối cảnh đấy, Lê nin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách
mạng vô ản có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản
phát triển trung bình; đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quóc và
các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc chung.
Thực tiễn chứng minh lý luận của Lê nin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Người. Thắng lợi đó là
nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là cách mạng
ở thuộc địa.
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử đó. Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm. Ý thức
quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa.
Cuộc chiến đấu với thiên nhiên và giặc ngoại xâm trong hàng nghìn năm lịch
sử đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam những truyền thống tốt đẹp: yêu nước
nồng nàn, đọc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất...Dân tộc
Việt Nam không ngừng giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm lược
nước ta, đế quốc Pháp tiến hành cuộc khai thuộc Việt Nam. Dưới chế độ khai
thác, bóc lột và thống trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi. hương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thức thực dân du nhập
vào và quan hệ bóc lột phong kiến được duy trì. Cơ cấu giai cấp xã hội thay
5



đổi: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa
của các giai cấp cũ, rồi kéo theo sự thay đổi về ý thức xã hội và đời sống.
Cùng thời điểm đó, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản dồn dập dội vào nước
ta: tư tưởng của Cách mạng Nga 1905 dưới tác động của nước Nhật duy tân,
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của
Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, tư tưởng của cách mạng Pháp...Dưới ảnh
hưởng của các trào lưu tư tưởng trên, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển
sang khuynh hướng mới mà ta thường gọi là cuộc vận động dân tộc dân chủ
tư sản mà tiêu biểu là các phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Đông
Kinh nghĩa thục của Lương Văn Can, cải cách dân chủ của Phan Chu
Trinh...sau môt thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào nối tiếp nhau tan rã
trước sự đàn áp man rợ của đế quốc Pháp.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc là
yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam,
là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đến đầu thế kỷ XX, ở Việt
Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.
Cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”.
Vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc đó, vượt
lên những hạn chế của sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài trí tuệ, bằng
cuộc khảo sát khắp thế giới trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX, Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 – 5 – 1890 tại làng Hoàng Trù, nay
thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà
nho yêu nước. Cha của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862 - 1929),
quê làng Sen, xã Kim Liên, mẹ là bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901). Nguyễn
Ái Quốc là con thứ ba, trên Người còn có chị gái là Nguyễn Thị Thanh (1884
- 1954) và anh trai Nguyễn Sinh Khiêm (1888 - 1950).


6


Năm 1895, cụ Nguyễn Sinh Sắc đi dự thi Hội, đưa vợ và hai con trai về
Huế sinh sống. Sau khi đỗ phó bảng, Nguyễn Sinh Sắc đi coi thi hương ở
Thanh Hóa, cùng lúc đấy bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư và cả hai
đều qua đời (tháng 2 - 1901). Sau khi vợ mất, Nguyễn Sinh Sắc đưa hai con
về sống ở quê nội làng Sen.
Năm 1905, cậu bé Nguyễn Sinh Cung lúc này đã đổi tên là Nguyễn Tất
Thành học ở trường tiểu học Pháp – Việt tại Vinh. Tháng 5 – 1906, Người
theo cha vào Huế, học tiếp ở Trường Tiểu học Đông Ba, sau đó học ở Trường
Quốc học Huế (1908 - 1909). Tháng 4 – 1908, Người tham gia cuộc biểu tình
chống thuế của nhân dân Thừa Thiên.
Tháng 1- 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8 –
1910, Người chia tay cha và vào dạy học ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết.
Tháng 2 – 1911, Người vào Sài Gòn, sau đó làm phụ bếp trên chiếc tàu của
người Pháp mang tến Đô đốc Latuso Tơrêvin. Ngày 5-6-1911, với tên gọi
Văn Ba, Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Trong thời thơ ấu đến khi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, Nguyễn
Tất Thành đã sớm kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê
hương và của gia đình. Người đã trải qua những gian khổ cùng với gia đình
và thấu hiểu, cảm thông với nỗi khổ nhục của người dân mất nước.
Hành trang của Người là sự am hiểu kiến thức văn hóa nhất đinh; thông
thạo Hán ngữ, chữ quốc ngữ, sớm tiếp thu và chịu ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây và sách báo tiến bộ của nước Pháp. Năm 1923, trong cuộc gặp gỡ
với nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Người đã kể lại: “Khi tôi độ mười ba
tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI.
Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã
nói thế. Và thưở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [1].

Bên cạnh đó, Người cũng chịu nhiều ảnh hưởng và rất khâm phục tư
tưởng yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý,
Đặng Thái Thân...những nhà yêu nước đáng kính. Tuy nhiên, vượt lên trên
7


hết, với tấm lòng yêu nước sâu sắc, thiên tài trí tuệ, tầm nhìn xa trông rộng và
nghị lực cá nhân phi thường, Nguyễn Ái Quốc đã có sự suy nghĩ độc đáo là
hướng sang phương Tây để xem xét, nghiên cứu thực chất của “văn minh” tư
bản chủ nghĩa. Trả lời nhà văn Mỹ Anna Xtơrông, Nguyễn Ái Quốc đã nói: “
Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi
nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này
nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải ra nước ngoài xem cho rõ.
Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, thì tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” [2].
1.2. Nguyễn Ái Quốc gặp gỡ Chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con
đường cứu nước Việt Nam (1911 - 1920).
Thời kỳ 1911 – 1917: Đi đến các nước trên thế giới, tìm hiểu con
đường cứu nước cho dân tộc.
Năm 1911, với cái tên Văn Ba, Người bắt đầu công cuộc tìm đường
cứu nước. Người đi qua Xinggapo, Côlômbia, Xri Lanca, Ai Cập và cập cảng
Mácxây (7-1911), rồi trải qua các nước châu Phi. Năm 1912, Người đến nước
Mỹ sinh sống. Cuối năm 1913, Người trở về Luân Đôn (Anh). Với hai bàn
tay, cùng sức lao động của mình, Người đã làm rất nhiều công việc gian khổ,
từ anh phụ bếp, quét tuyết, hầu bàn, cho đến anh chụp ảnh...để kiếm sống, vừa
nghiên cứu, tìm hiểu tình hình các nước.
Bằng những điều tai nghe, mắt thấy, Nguyễn Ái Quốc sớm có ý thức
phân biệt giữa người giàu và người nghèo, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc
lột...Người sớm có ý thức gai cấp, thương yêu những người lao động nghèo
khổ ở thuộc địa. Theo Người, bất cứ ở đâu, dù màu da hay tiếng nói khác
nhau, nhưng thế giới loài người có hai loại người: người bóc lột và người bị

bóc lột và cũng chỉ có một tình hữu ái mà thôi, tình hữu ái vô sản.
1.3. Từ năm 1917 đến tháng 12 năm 1920: Gặp chủ nghĩa Mác –
Lênin và trở thành người cộng sản.
Từ nửa cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở lại Pháp và hoạt
động trong nhóm Những người yêu nước Việt Nam ở Thủ đô Pari. Ở đây,
Người có điều kiện tiếp thu thông tin của thế giới. Người đã biết tin Cách
8


mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công và hướng sự chú ý, tìm hiểu và
tham gia các hoạt động ủng hộ nước Nga Xô viết.
Thay mặt nhóm Những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, ngày 18-61919, Người gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đến Hội
nghị Vécxây (Pháp) đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ
và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dưới bản Yêu sách, Người ký tên
Nguyễn Ái Quốc.
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp “Chỉ vì đây là tổ
chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý
tưởng cao quý cuả cách mạng Pháp: TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI”[3]. Từ
đó, Người hoạt động với các nhà chính trị, văn hóa nổi tiếng ở Pháp như Mác
xen Casanh, Pôn Vayăng – Cuturiê, Lêông Bơlum...
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc tác phẩm Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê nin
đăng trên báo L’Humanite, số ra ngày 16 và 17-7-1920. Trong tác phẩm này,
V.I. Lê nin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người đứng đầu Quốc
tế II, về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh,
tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng
cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước lớn thuộc
địa và phụ thuộc, nhấn mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản
với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế
quốc và phong kiến.

Tác phẩm của V.I. Lê nin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường
giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện
quan trọng đó, Người đã nói: Luận cương của Lê nin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế thứ ba [4].
9


1.4. Bước chuyển trở thành người cộng sản (tháng 12 - 1920)
Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội toàn quốc lần thứ
XVIII của Đảng Xã hội Pháp diễn ra tại thành phố Tua, cách Pari 237km. Với
tư cách là đại biểu Đông Dương, Người đã phát biểu ý kiến tố cáo những sự
tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương và đề nghị Đảng Xã
hội Pháp cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản
xứ bị áp bức.
Ngày 29-12-1920, Đại hội Tua tiến hành bỏ phiếu quyết định việc
Đảng ở lại Quốc tế II hay gia nhập Quốc tế III. Với đa số phiếu (3.208 tán
thành; 1.022 phiếu chống), Đảng Xã hội Pháp đã tán thành gia nhập Quốc tế
III. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản) và trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp.
Sau cuộc bỏ phiếu, nữ đồng chí Rôdơ (Rose), người ghi tên bản tốc ký
Đại hội, hỏi Nguyễn Ái Quốc: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?
Người trả lời: Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược,
chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế
III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa... Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những

điều tôi hiểu.
Về sự kiện này, Người nói: “ Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế
thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác –
Lê nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [5].

10


Chương II: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị chu đáo cho sự thành lập
Đảng Cộng sản (1920 - 1930)
1. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930)
Từ năm 1920 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động
thiết thực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự hình thành tổ chức
cộng sản ở Việt Nam. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên nước Pháp,
Liên Xô và ở Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam sau này.
Trong quá trình hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tìm thấy con đường cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam
theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Đây được coi là sự kiện có tính chất bước
ngoặt, khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc, sự chuẩn bị đầu tiên
cho bước chuyển mạnh mẽ về chất của cách mạng Việt Nam. Nói về vai trò
của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ
nghĩa Mác – Lê nin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân
Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim
chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [6].

1.1. Sự chuẩn bị về chính trị
Từ khi khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng
của chủ nghĩa Mác – Lê nin và Cách mạng Tháng Mười Nga; tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp, qua nghiên cứu sự ra đời của các đảng cộng sản
trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rất cần thiết phải chuẩn bị chu đáo về
đường lối chính trị của Đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Lê nin. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Tác phẩm Đường cách mệnh của Người là sự chuẩn bị tập trung và chu
đáo về lý luận chính trị của Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối
chính trị của cách mạng Việt Nam theo con dường xã hội chủ nghĩa.
11


Đường cách mệnh đã xác định mục tiêu tiến hành giải phóng dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội; gắn bó cách mạng giải phóng dân tộc với cách
mạng vô sản. Tất yếu phải đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với giai
cấp vô sản ở thuộc dịa, đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa thành một mặt
trận thống nhất chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng thuộc địa có khả năng nổ ra và
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì phải liên hệ chặt chẽ với
phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa. Cách
mạng Việt Nam sẽ đi theo con đường cách mạng Nga, làm cách mạng giải
phóng dân tộc, sau khi cách mạng thắng lợi sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng muốn thắng lợi phải có Đảng cách mạng, Đảng phải có lý
luận cách mạng dẫn đường, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn.
1.2.

Sự chuẩn bị về tư tưởng.


Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng rõ rệt nhất của Nguyễn Ái Quốc thể hiện
thông qua các hoạt động báo chí và tuyên truyền. Ngoài tờ báo Thanh niên, cơ
quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Người tổ chức
xuất bản các tờ báo định kỳ khác như: tờ tuần báo Công nông, xuất bản từ
tháng 12-1926 đến đầu năm 1928, nhằm vào đối tượng công nhân và nông
dân là chủ yếu; tờ báo nguyệt san Lính cách mệnh xuất bản từ đầu năm 1927
đến đầu 1928 lấy binh sĩ người Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông Dương
làm đối tượng tuyên truyền của mình. Người viết hàng trăm bài báo, sử dụng
công cụ báo chí để vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân và vận động các
tầng lớp nhân dân làm cách mạng.
Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh đã vạch
trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần
chúng; tuyên truyền những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng,
gắn bó cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa.
12


Ngoài viết báo, viết sách, tham luận tại các hội nghị quốc tế, Nguyễn
Ái Quốc còn trực tiếp giảng bài, chủ trì thảo luận, sử dụng nhiều hình thức,
biện pháp tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin, con đường, phương pháp
cách mạng cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
1.3. Sự chuẩn bị về tổ chức
Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thấy vai trò quan trọng của công tác tổ chức
xây dựng Đảng. Tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, thành lập Hội Liên
hiệp thuộc địa để đoàn kết lực lượng cách mạng ở thuộc địa đấu tranh. Người
đánh giá cao sức mạnh tổ chức của nhân dân thuộc địa sẽ thành lực lượng
khổng lồ chống chủ nghĩa đế quốc.
Về Trung Quốc, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh

niên là loại hình tổ chức quá độ, tiền cộng sản, phù hợp với trình độ của
phong trào cách mạng Việt Nam.
Thấm nhuần nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, Nguyễn Ái Quốc xác định Đảng Cộng sản phải có lý luận tiên phong
dẫn đường, giữ vững tập trung, dân chủ, phê bình và tự phê bình, kỷ luật tự
giác nghiêm minh, đoàn kết.
Những sự chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ái Quốc cùng với sự ra đời và
hoạt động của hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến phong trào cách mạng các nước, làm cho khuynh hướng cứu nước giải
phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày càng
chiếm ưu thế.
Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương
“vô sản hóa”, đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền
trong nước, cùng sống và làm việc với công nhân, đồng thời cũng là phương
thức truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng
đấu tranh.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí
Minh vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây
13


dựng các tổ chức cơ sở của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở nhiều
trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm
1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1.700 hội viên. Tổ chức công hội cũng đã
được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ.
Phong trào “vô sản hóa” diễn ra mạnh mẽ làm cho sự phân hóa mạnh
mẽ trong tổ chức Thanh niên, xuất hiện ở Việt Nam các tổ chức cộng sản là
Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản
liên đoàn...các tổ chức này là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.


14


C. KẾT LUẬN
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) là
kết quả sự chuẩn bị chi tiết, chu đáo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh,
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều đó
chứng tỏ, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự trưởng thành, lớn mạnh để
đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến thời đại, nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo
cách mạng, đưa Việt Nam đi đến con đường giải phóng, giành độc lập dân
tộc, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Lịch sử đã chứng minh, Đảng từ một tổ chức bí mật, từng bước nắm
lấy ngọn cờ lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa (2-9-1945) là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Rồi công cuộc thống nhất đất nước, đến công cuộc xây dựng đất nước trong
thời kỳ hòa bình, mở cửa hội nhập kinh tế thế giới...tất cả đều là công lao to
lớn của Đảng
Đánh giá sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “ Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG, HN, 2009.
2. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2006.
3. Hỏi đáp về những sự kiện lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG – Sự thật, 2013.
4. TS. Lê Văn Yên, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên đường sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lao Động, 2005.

MỤC LỤC
B. NỘI DUNG.....................................................................................................................................................4
MỤC LỤC.........................................................................................................................................................16

16


17



×