Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Thiết kế sân vườn biệt thự khu đô thị Phú Cường, thành phố Rạch Giá Tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.8 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO

THIẾT KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ KHU ĐÔ THỊ
PHÚ CƯỜNG, THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: HOA VIÊN VÀ CÂY CẢNH

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: HOA VIÊN VÀ CÂY CẢNH
Tên Đề Tài:

THIẾT KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ KHU ĐÔ THỊ
PHÚ CƯỜNG, THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ
TỈNH KIÊN GIANG

Cán bộ hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S TÔN NỮ GIA ÁI



NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO
MSSV: 3083709
LỚP: HOA VIÊN CÂY CẢNH K34

Cần Thơ, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Hoa viên và Cây cảnh với đề tài: “THIẾT
KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ KHU ĐÔ THỊ PHÚ CƯỜNG THÀNH PHỐ
RẠCH GIÁ – TỈNH KIÊN GIANG”

Do sinh viên NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO thực hiện. Kính trình lên hội đồng
chấm luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày

tháng

năm 2012

Cán bộ hướng dẫn

Th.s Tôn Nữ Gia Ái

iii



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp kỹ sư
nghành Hoa viên và Cây cảnh với đề tài: “THIẾT KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ
KHU ĐÔ THỊ PHÚ CƯỜNG THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ – TỈNH KIÊN
GIANG”.
Do sinh viên NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO thực hiện và bảo vệ với hội đồng.
Luận văn tốt nghiệp được Hội đồng đánh giá ở mức:.................................................
Ý kiến của hội đồng chấm luận

văn tốt nghiệp: .........................................................

..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Cần Thơ, ngày

tháng

năm 2012

Hội đồng

……………..

………………..

DUYỆT CỦA KHOA

Trưởng khoa Nông Nghiệp và SHƯD

………………


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình luận văn nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Xuân Đào


TIỂU SỬ CÁ NHÂN
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH
Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân Đào

Giới tính: Nữ

Ngày, tháng, năm sinh: 10/07/1990

Nơi sinh: Kiên Giang

Họ tên cha: Nguyễn Thanh Tâm

Nghề nghiệp: Cán bộ viên chức

Họ tên mẹ: Đỗ Thị Cẩm Xuân


Nghề nghiệp: Nội trợ

Quê quán: TP Rạch Giá – Kiên Giang

Dân tộc: Kinh

Chỗ ở hiện nay: 39/7/1 Trần Phú – Vĩnh Thanh – TP Rạch Giá – Kiên Giang.
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
1996 – 2001: Học tại trường Tiểu học Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá – Kiên Giang.
2001 – 2005: Học tại trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Rạch Giá – Kiên Giang.
2005 – 2008: Học tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Trung Trực.
2008 – 2012: Học tại trường Đại học Cần Thơ – Khoa Nông nghiệp & SHƯD,
Ngành Hoa Viên Cây Cảnh.


LỜI CẢM TẠ
Trong suốt 4 năm học tại trường Đại Học Cần Thơ, em đã rất vinh dự nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ, dạy bảo tận tình của quý thầy cô ở trường để hôm nay
em hoàn thành luận văn này. Không có lời nào hơn em xin được:
Thành kính ghi nhớ công ơn cô Tôn Nữ Gia Ái đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ, tạo điều kiện tốt cho em trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh bài
luận văn này.
Cảm ơn thầy Phạm Phước Nhẫn và cô Lê Minh Lý, cố vấn học tập đã quan
tâm, dìu dắt và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập.
Cảm ơn tất cả quý thầy cô, anh chị Bộ môn Sinh lí-Sinh hóa, khoa Nông
nghiệp và Sinh học Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ đã tận tình giảng dạy, rèn
luyện cho em trong suốt khóa học. Những điều thầy cô đã dạy sẽ là hành trang cho
em trong con đường sự nghiệp tương lai sắp tới.
Con cũng kính dâng lời cảm tạ sâu sắc đến cha mẹ đã suốt đời tận tụy, hy sinh

vì tương lai của các con.
Thân gởi về các bạn Hoa viên và Cây cảnh K34 cảm ơn

các bạn đã giúp đỡ và

động viên tôi trong suốt thời gian học tập và làm luận văn.
Chân thành và kính gởi đến cha mẹ, quý thầy cô và các bạn lời chúc sức khỏe,
hạnh phúc và mọi điều tốt đẹp nhất.
Chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Xuân Đào


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

LỜI CAM ĐOAN

iii

TIỂU SỬ CÁ NHÂN

iv

LỜI CẢM TẠ

v

MỤC LỤC


vi

DANH SÁCH BẢNG

ix

DANH SÁCH HÌNH

x

TÓM LƯỢC

xi

MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

2

1.1 KHÁI NIỆM VỀ THIẾT KẾ CẢNH QUAN

2

1.2 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG VIÊN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM


2

1.2.1 Lược sử phát triển nghệ thuật bố cục vườn – công viên thế giới

2

1.2.1.1 Ở một số nước phương Tây

3

Vườn Hy Lạp

3

Vườn La Mã

4

Vườn Ý

5

1.2.1.2 Ở một số nước phương Đông

5

Vườn Ai Cập

5


Vườn Ấn Độ

5

Vườn Trung Quốc

6

Vườn Nhật Bản

8

1.2.2 Nghệ thuật vườn – công viên Việt Nam

10

Xu hướng vườn cắt xén hình học

11

Xu hướng cảnh quan phong cảnh đồng quê

11

Xu hướng cảnh quan kết hợp kỹ thuật

12

1.3 CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC CƠ BẢN TRONG NGHỆ THUẬT


13


VƯỜN – CÔNG VIÊN
1.3.1 Bố cục cân xứng

13

1.3.2 Bố cục tự do

13

1.3.3 Bố cục kết hợp đối xứng và tự do

13

1.3.4 Trung tâm và bố cục chính phụ

13

1.4 CÁC QUY LUẬT CỦA NGHỆ THUẬT CẢNH QUAN

14

1.4.1 Quy luật hài hòa

14

1.4.2 Quy luật cân bằng


14

1.4.2.1 Cân bằng đối xứng

14

1.4.2.2 Cân bằng không đối xứng

14

1.4.2.3 Cân bằng đối tâm

14

1.4.3 Quy luật tương phản

15

1.4.4 Quy luật cân đối và nhất quán

15

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

16

2.1 PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU

16


2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

16

2.2.1 Khảo sát hiện trạng

16

2.2.2 Nhu cầu gia chủ

16

2.2.3 Thiết kế

16

2.2.4 Dự toán kinh phí

17

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN

18

3.1 HIỆN TRẠNG KHU VỰC THIẾT KẾ

18

3.1.1 Vị trí giới hạn


18

3.1.2 Hiện trạng xây dựng kết cấu công trình

18

3.1.3 Hiện trạng cây xanh trong khu vực thiết kế

18

3.2 PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ KHU VỰC THIẾT KẾ

19

3.2.1 Phân khu chức năng

19

3.2.2 Phân tích hướng

19

3.2.3 Nhận định đánh giá chung về khu vực thiết kế

20


3.3 THUYẾT MINH Ý TƯỞNG BẢN VẼ

21


3.2.1 Phương án 1: Bố cục tự do – Phong các hiện đại

21

3.2.2 Phương án 2: Bố cục tự do – Phong cách đồng quê

34

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

49

4.1 KẾT LUẬN

49

4.2 ĐỀ NGHỊ

49

TÀI LIỆU THAM KHẢO

50


TÊN BẢNG
Bảng

TÊN


Trang

3.1

Danh sách các loại cây dùng trong phương án 1

29

3.2

Dự toán chi phí thi công phương án 1

31

3.2

Danh sách các loại cây dùng trong phương án 2

44

3.3

Dự toán chi phí thi công phương án 2

46

xi



TÊN HÌNH
Hình

TÊN

Trang

1.1

Vườn cảnh Trung Quốc với lối đi có mái che

7

1.2

Vườn Trung Quốc với thác nước nhân tạo

8

1.3

Vườn Ryoan-ji ở Nhật Bản

9

1.4

Cây cắt uốn hình con Rồng

11


1.5

Khu du lịch Bình Quới – Thành phố Hồ Chí Minh

12

1.6

Đường hoa Nguyễn Huệ - Thành phố Hồ Chí Minh 2010

12

3.1

Hiện trạng công trình biệt thự Phú Cường

18

3.2

Các khu vực sẽ tiến hành thiết kế

19

3.3

Bản vẽ phân tích hướng nắng và hướng gió của khu vực thiết kế

20


3.4

Mặt bằng tổng thể thiết kế phương án 1

21

3.5

Phối cảnh tổng thể phương án 1

23

3.6

Phối cảnh góc nhìn 1

24

3.7

Phối cảnh góc nhìn 2

25

3.8

Phối cảnh góc nhìn 3

27


3.9

Phối cảnh góc nhìn 4

28

3.10

Mặt bằng tổng thể thiết kế phương án 2

34

3.11

Phối cảnh tổng thể phương án 2

36

3.12

Phối cảnh góc nhìn 1

37

3.13

Phối cảnh góc nhìn 2

38


3.14

Phối cảnh góc nhìn 3

40

3.15

Phối cảnh góc nhìn 4

41

3.16

Mặt cắt đồi cỏ góc nhìn 1

42

3.17

Mặt cắt đồi cỏ góc nhìn 2

42

3.18

Mặt cắt chòi nghỉ và hồ nước

43



NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO. 2012. “THIẾT KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ

KHU

ĐÔ THỊ PHÚ CƯỜNG THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ – TỈNH KIÊN GIANG”.
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Hoa Viên và Cây Cảnh, Khoa Nông nghiệp và
Sinh học ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ. 50 Trang. Cán bộ hướng dẫn ThS.
Tôn Nữ Gia Ái.
---------------------------------------------------------------------------------------------------TÓM LƯỢC
Đề tài “THIẾT KẾ SÂN VƯỜN BIỆT THỰ KHU ĐÔ THỊ PHÚ CƯỜNG
THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ – TỈNH KIÊN GIANG” được thực hiện từ tháng
2/2012 – 07/2012 tại biệt thự đường số 2 khu đô thị Phú Cường, TP. Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang. Đề tài được thực hiện dựa trên các quy trình kĩ thuật thiết kế cảnh quan
trong đơn vị nhà phố với mục tiêu đưa ra được hai phương án thiết kế cảnh quan
phù hợp và hài hòa với khối kiến trúc ngôi nhà.
Qua thực hiện khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng khu vực thiết kế đã
lên được ý tưởng phong cách thiết kế cho hai phương án.
- Phương án 1: Bố cục tự do – phong cách hiện đại. Phương án thiết kế là sự kết hợp
hài hòa, thống nhất với khối kiến trúc công trình, sử dụng những loài cây phổ biến,
ít tốn công chăm sóc. Với phương án này tôn tạo cho ngôi nhà một nét

đẹp sang

trọng hài hòa, đảm bảo tầm nhìn bao quát từ trong và ngoài ngôi biệt thự.
- Phương án 2: Bố cục tự do – phong cách đồng quê. Mang lại cho ngôi nhà một vẻ
đẹp thơ mộng của không gian làng quê nhưng không làm phá vỡ nét kiến trúc của
ngôi nhà, đảm bảo được tính thẩm mỹ. Với phương án này sử dụng những loài cây
bản địa có sức sống cao, ít tốn công chăm sóc.

Sau cùng là hoàn thiện phần thuyết minh cho các ý tưởng thiết kế, lập dự toán
chi phí thi công. Đánh giá khách quan về những mặt đạt được cũng như những mặt
còn hạn chế của từng phương án thiết kế và đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần làm tăng vẽ đẹp cảnh quan, tạo nên sự hài hòa giữa cảnh quan trong và ngoài
khu vực thiết kế.


MỞ ĐẦU
Sống trong xã hội càng hiện đại thì áp lực từ mọi mặt của cuộc sống mang lại
ngày càng nhiều, vì thế con người cần có sự thư giãn và nghĩ ngơi trong chính ngôi
nhà của họ. Việc thiết kế cảnh quan mang lại hơi thở của thiên nhiên vào chính ngôi
nhà, dạo bước trên con đường với xung quanh là những khóm cây, có thể ngắm
nhìn hoặc nghe thấy tiếng nước chảy róc rách từ những tiểu cảnh được thiết kế một
cách khéo léo. Cùng với đó, khoảng không gian cho mọi người trong gia đình tụ
hợp trong những ngày cuối tuần hay những ngày lễ là cần thiết. Vì vậy việc thiết kế
được mảng xanh trong sân vườn và những khu phục vụ cho nhu cầu vui chơi giải trí
là thiết yếu.
Mẫu biệt thự nằm trên đường số 2 trong khu dân cư Phú Cường, thành phố
Rạch Giá – Kiên Giang là sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan xung quanh, kiến trúc
đảm bảo công năng, hình khối và tỷ lệ phù hợp. Phần diện tích biệt thự dự kiến xây
2

2

dựng là 535,5 m , phần sân vườn còn lại 1095,5 m hiện đang trong tình trạng chưa
thiết kế. Cũng chính vì vậy đề tài : “ Thiết kế sân vườn biệt thự khu đô thị Phú
Cường, TP. Rạch Giá – Kiên Giang ” được thực hiện nhằm đưa ra được những
phương án phù hợp với mẫu biệt thự trên đáp ứng được nhu cầu nghĩ ngơi hay vui
chơi giải trí cho gia chủ sau này.


1
4


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1

KHÁI NIỆM VỀ THIẾT KẾ CẢNH QUAN
Thiết kế cảnh quan là một hoạt động sáng tác tạo môi trường vật chất – không
gian bao quanh con người. Trong đó thiết kế cảnh quan bao gồm hai lĩnh vực
chuyên sâu: thiết kế cảnh quan cấp vĩ mô thường do các kiến trúc sư cảnh quan đảm
nhiệm và thiết kế cảnh quan hoa viên thường do các nhà thiết kế cảnh quan hoặc
nhà kỹ thuật hoa viên đảm nhiệm. (Hàn Tất Ngạn, 1999).
Đối tượng của thiết kế cảnh quan là tạo địa hình với bậc thang, tường chắn đất,
bề mặt trang trí từ vật liệu xây dựng, cây xanh, các tác phẩm điêu khắc, hình thức
kiến trúc, công trình nước,… nghĩa là các thành phần của môi trường vật chất –
không gian.
Thiết kế cảnh quan là thiết kế không gian bên ngoài: không gian được hình
thành do quan hệ của ngoại vật và con người nhận thức ra nó bằng các giác quan
(chủ yếu là thị giác). Đó là không gian được giới hạn bởi nền và tường (không gian
kiến trúc không mái). Trong quan niệm của cảnh quan, không gian này không chỉ
hàm chứa mối quan hệ mà còn tương quan của nó với khối xây dựng bao quanh,
cũng như các thành phần khác của thiên nhiên và nhân tạo. (Lê Đàm Ngọc Tú,
2006).

1.2

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG VIÊN TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.2.1

Lược sử phát triển nghệ thuật bố cục vườn – công viên trên thế

giới
Nghệ thuật vườn – công viên đã có từ rất lâu trên thế giới, vào khoảng 3.000
năm trước Công nguyên, ở Trung Quốc đã xây vườn lớn bao quanh công thự vua
chúa. Tại thành phố Ba-bi-lon (thành phố thời cổ duy nhất giữ được nền văn minh
và phát triển trong liền 15 thế kỷ) đã có vườn của hoàng hậu Xi-mi-ra-mit. Ở Ai
Cập, Hy Lạp và La Mã cổ đã chú ý nhiều đến việc xây dựng vườn: tạo mặt nước,
các công trình trang trí phong phú, số lượng tượng rất lớn.


Vào thế kỷ XIII – XIV ở Tây Ban Nha đã xây dựng các vườn nhỏ, kín. Thời
trung cổ nghệ thuật vườn hầu như không phát triển. Đến thời phục hưng vườn lại
hưng thịnh.
Ở Ý, thế kỷ XVI đã tạo nên các vườn đặc sắc của lâu đài, biệt thự. Đến thế kỷ
XVII kiểu vườn Ý được đưa vào Pháp và được thay đổi theo đặc điểm tự nhiên của
nước Pháp: Nếu ở Ý quy mô vườn 2 – 3 ha thì ở Pháp quy mô hàng trăm ha. Nổi
tiếng có vườn Véc-xai rộng 1.700 ha. Tác phẩm này của Le-no-tre đã ảnh hưởng
sâu sắc đến nghệ thuật phong cách Châu Âu.
Giữa thế kỷ XVIII ở Tây Âu xuất hiện khuynh hướng nghệ thuật phong cảnh
mới ảnh hưởng bởi nghệ thuật mô phỏng tự nhiên của vườn cổ Trung Quốc.
Đến thế kỷ XIX nghệ thuật phong cảnh đã mở rộng đến thành phố và trở thành
một phần hữu cơ với thành phố.
Sau cách mạng Tháng Mười, thành phố xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành
kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của quang cảnh chung. Năm 1929, lần đầu tiên trên
thế giới, ở Liên Xô đã xuất hiện kiến trúc phong cảnh trong công viên kiểu mới:
công viên văn hóa nghỉ ngơi Gooc-ki ở Mat-xcơ-va. (Nguyễn Thị Thanh Thủy,
1980)

1.2.1.1 Ở một số nước phương Tây
Vườn Hy Lạp
Vườn công cộng cổ Hy Lạp với bố cục vườn bao gồm nơi tổ chức thể thao, vui
chơi – giải trí, và nơi thờ cúng. Thờ những anh hùng đã chiến thắng trong các cuộc
thi đấu hay các vị thần che chở cho thành bang. Vườn cổ Hy Lạp thường sử dụng
nhiều loại hoa quý (cẩm chướng, cúc vàng, hồng,..). (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
Đến thời cổ điển vườn công cộng Hy Lạp không tổ chức với chức năng thờ
cúng nữa mà chức năng chính là nơi chơi thể thao nên mạng lưới đường thường
thẳng tắp nhưng phong phú về hình thức nghệ thuật của các công trình thể thao, bể
bơi, tượng đài, vòi phun. Công trình xây dựng xen kẽ với cánh rừng, nhiều loại cỏ
cây làm phong phú và sinh động thêm phong cảnh vườn. (Hàn Tất Ngạn, 1999).


Cuối thời cổ điển, sau khi chiến thắng đế quốc Ba Tư, người Hy Lạp xây dựng
lại những thành phố bị tàn phá với các quãng trường công cộng và vườn trang trí có
những hàng cột bao quanh. (Hàn Tất Ngạn, 1999).
Vườn La Mã
Nghệ thuật vườn – công viên La Mã chịu ảnh hưởng của vườn cổ Hy Lạp
nhưng mang ý nghĩa thực dụng cao hơn, sử dụng nhiều loại cây ăn quả như: ô liu,
táo, lê,… Bố cục thường có rào bằng cây cắt xén bao quanh, có chòi nghỉ, có giàn
nho leo. Phát triển kiểu “vườn trong” cổ Hy Lạp thành mô típ vườn sân trong có
trồng cây trang trí thấp và hoa, trung tâm vườn là bể trang trí có vòi phun. Về sau,
mô típ này được phổ biến rộng rãi trên các quảng trường thành phố và trở thành
phong cách chính của vườn trước công trình công cộng. (Nguyễn Hoàng Trung,
2009).
Thời kỳ La Mã trở thành nước đế quốc đi chinh phục Hy Lạp và các nước
khác, người La Mã đã mang về nước mình các bảo vật quý giá để trang trí cho
những lâu đài tráng lệ, nghệ thuật vườn lâu đài lúc này đặt biệt phát triển. Cơ cấu
vườn chia làm ba phần chính: phần vườn trang trí, phần rào, phần cây ăn quả.
Phần vườn trang trí chia làm ba khu vực:

- Khu dạo trực tiếp trước nhà thường bố trí các đường thẳng trồng cây cắt xén hay tạo
thành đường kín khoanh các vùng riêng trồng hoa. Khu dạo bố trí trên sân cao có thể
mở không gian về phía cảnh đẹp xa. Các vườn nhỏ như vậy được gọi là Viridarium
dùng để tổ chức tiệc trà ngoài trời.
- Khu đi chơi bằng xe ngựa hay kiệu có người khiêng.
- Khu công viên có thú rừng hay gia cầm mang tính chất rừng chiếm tỷ lệ lớn.
Vườn La Mã rất phong phú về các loại cây trồng, có những tác phẩm lớn về
nghiên cứu lịch sử thiên nhiên, mô tả hàng nghìn loại cây trồng. Tuy vậy, khi đế
quốc La Mã bị sụp đổ thì vườn cũng bị mai một đi cho đến thời kỳ phục hưng nghệ
thuật vườn trang trí ở đây lại phát triển mạnh mẽ ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật
vườn – công viên trên thế giới. (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1986).


Vườn Ý
Nghệ thuật phản ánh hiện thực, đề cao con người trong ý đồ và thủ pháp bố
cục vườn. Con người phải có vị trí khống chế thiên nhiên. Sử dụng mặt nước với
nhiều hình dạng phong phú; tận dụng triệt để địa hình dốc và các độ cao khác nhau
để tạo thác; vườn thường được trải rộng về phía trước và lấy biệt thự làm bố cục
chính, các yếu tố hình khối đăng đối qua bố cục này. (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Trước nhà thường là các parterre hoa với các cột bao quanh, dạng bồn hoa
hình học được lặp đi lặp lại trong bố cục vườn với nhiều loại cây có mùa nở hoa
khác nhau. Cây bóng mát thường được cắt xén theo hình phức tạp. Đại diện thời kỳ
này, có vườn biệt thự Medici ở Fiesol gần Florence do kiến trúc sư Michelozzo di
Bartolommeo thiết kế năm 1455. Thủ pháp bố cục đặc trưng của nghệ thuật vườn công viên Ý thế kỷ XVI là tổ chức sân vườn theo chiều dài với nhiều cao độ khác
nhau, một bên là các hốc tường (thường đặt tượng), một bên là hý trường biểu diễn.
Sân thường dùng làm sân khấu, vườn xung quanh là phông. (Lê Đàm Ngọc Tú,
2006).
1.2.1.2 Ở một số nước phương Đông Vườn Ai
Cập
Xuất hiện từ thế kỷ thứ III trước công nguyên và phát triển rực rỡ nhất vào

thời kỳ Tân Vương Quốc, vườn gồm 2 loại chủ yếu: vườn đền và vườn nhà (Hàn
Tất Ngạn, 1999).
Vườn Ai Cập có hình thức bố cục cân xứng rõ nét giữa trục dọc và trục ngang,
mặt bằng hình chữ nhật, chính giữa vườn là bể nước kích thước lớn đóng vai trò
làm trung tâm hoạt động vui chơi giải trí, cây xanh với hình khối cơ bản được dùng
để tạo ra không gian vườn. Kiến trúc công trình đóng vai trò chi phối trục trung tâm
bố cục vườn và ngăn chia không gian vườn thành nhiều vườn nhỏ. Nhà hoặc lâu đài
đều nằm cuối vườn hòa nhập với vườn chủ yếu bằng hành lang bao quanh không
gian kín ra không gian nữa mở đến không gian mở. (Nguyễn Thị Thanh Thủy,
1996).
Vườn Ấn Độ
Nghệ thuật vườn Ấn Độ nổi bật với 2 đặc điểm chính:


- Bố cục hình học chặt chẽ với mặt nước ở giữa tòa nhà.
- Tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật vườn Ấn Độ.
Yếu tố thực vật trong bố cục nghệ thuật vườn – công viên Ấn Độ rất đa dạng.
Với điều kiện thiên nhiên sẵn có: núi cao nhất thế giới, đồng cỏ mênh mông, vùng
mưa lại có nhiều sa mạc. Đặc trưng của vườn Ấn Độ là hệ thống mặt nước mở rộng,
người ta có cảm tưởng như vườn nổi trên mặt nước, có loại vườn gọi là “vườn nổi”.
Vườn nổi là những “bè” chiều dài 9 m, chiều rộng 2 – 3 m, đắp lớp đất 60 – 70 cm.
Trên những lớp đất đó có tổ chức cây xanh (thường trồng những loại cây ăn quả).
Nổi tiếng nhất Ấn Độ là quần thể công viên cung điện U – dai – pua (1571). Vườn
xây dựng trên đảo đá trắng, dưới chân núi đảo là mặt nước tự nhiên, có chổ được cải
tạo, cơ cấu vườn bao gồm một hệ thống sân cao. Thủ pháp bố cục sân chủ yếu dùng
cây to bóng mát trồng đăng đối, tán cây màu thẫm, đổ bóng xuống mặt nước. Ở lâu
đài trên sân có bể trang trí và lát đá màu, có bồn hoa trồng những khóm hoa. (Lê
Đàm Ngọc Tú, 2006).
Vườn Trung Quốc
Nghệ thuật vườn – công viên Trung Quốc là quê hương của xu hướng mô

phỏng thiên nhiên phương Đông. Đó là một nghệ thuật độc đáo với những nguyên
lý:
- Lấy thiên nhiên làm mẫu chính.
- Các yếu tố hình thành vườn được bố trí hài hòa.
- Vườn Trung Quốc bố cục theo kiểu đi ngắm cảnh. Vì thế luôn tạo cảnh thay
đổi, bất ngờ. Lối đi thường có mái che (trường lang) để sử dụng được cả bốn mùa.
- Công trình được bố trí nhiều loại, chiếm tỷ lệ trong vườn. Dùng đá tạo thành những
tác phẩm trang trí bằng cách ghép nghệ thuật.
- Địa hình được nghiên cứu tỷ mỉ.
- Nước là một yếu tố không thể thiếu. Thường dùng mặt nước làm trung tâm bố cục
vườn…
- Nghệ thuật tạo cảnh đúng thủ pháp gây sự thay đổi trong cảm giác như: tổ
chức đồi vực xen lẫn thung lũng, đồng cỏ, dòng nước chảy mạnh xen lẫn mặt nước
phẳng lặng, cánh rừng thông tối xen lẫn rừng lá màu sáng tràn ánh nắng.


Hình 1.1 Vườn cảnh Trung Quốc với lối đi có mái che.
Nguồn: />
Sử dụng âm thanh để tạo nên những tâm trạng theo chủ đề của tác giả như: tạo
tiếng gió, tiếng vọng âm, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách hay tiếng ầm ầm của
thác đổ, tiếng rì rào hay xào xạc của lá…
Hai đặc điểm rất được chú trọng trong vườn cảnh Trung Quốc là chu kì và đặc
tính thay đổi của khu vườn theo từng mùa và tạo nên một cuộc dạo chơi phong cảnh
với sự biến đổi về mặt không gian, cảm xúc, vật cảnh. (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
Công viên Trung Quốc chia ra hai cảnh chính: cảnh rùng rợn và hoa tình ca.
Những cảnh đặc trưng trong cảnh rùng rợn với một mò đá nhân tạo chênh vênh trên
vách đá, phía dưới là dòng nước chảy xiết. Phong cách biến đổi đột ngột sau lối rẽ
của con đường, cây cối um tùm, bất chợt hiện ra một thung lũng lớn tràn ngập hoa
tươi cảnh vật với màu sắc và hình thức tương phản làm cho phong cảnh sống động
và sáng sủa, cạnh cây liễu rũ thướt tha là hàng thông xanh thẳng tắp. Hoa tình ca

lãng mạng là sự gợi buồn man mác của cảnh vật. Nhân tố gợi cảm chủ yếu có thể là
hòn đá nhỏ với túp lều nên thơ, chiếc cầu cong cong hay những cành liễu ngã bóng
xuống mặt nước trong xanh. (Hàn Tất Ngạn, 2000).


Hình 1.2 Vườn Trung Quốc với thác nước nhân tạo
Nguồn: />
Vườn Nhật Bản
Người Nhật đã chịu ảnh hưởng xu hướng nghệ thuật vườn Trung Quốc nhưng
để phù hợp với kiểu thiên nhiên đất nước mình họ đã tạo nên kiểu nghệ thuật phong
cảnh đặc sắc với những nguyên lý riêng: phong cảnh vườn cổ Nhật không phải đi
vào ngắm mà để ngồi thưởng thức. Vì vậy không gian vườn chan hòa với không
gian bên trong nhà. (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
Vườn được xem như một phần của nhà. Người Nhật thích giữ nguyên phong
cảnh đất nước mình, để đạt được ý nguyện họ đã thu nhỏ thiên nhiên tạo thành
những bức tranh hoàn chỉnh để ngắm. Người Nhật đã dùng thủ pháp tượng trưng
cao: thiên nhiên đôi khi chỉ biểu hiện dáng dấp (dòng suối, con sông, thác đổ). Nghệ
thuật vườn Nhật độc đáo nhất là tạo cảnh khô. Nổi tiếng trên thế giới có vườn Ryoanji. Vườn chỉ có hai yếu tố cát trắng hạt to và đá. Cát chỉ dùng bừa để chải giả làm
sóng biển. Trên thảm cát đó sắp xếp một cách nghệ thuật những nhóm đá tượng trưng
đất nước đảo. (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1986).


Hình 1.3 Vườn Ryoan-ji ở Nhật Bản
Nguồn: />
Vườn Nhật mang tính triết lý sâu sắc, được thiết kế bằng kiến trúc thu nhỏ như
cổng, đình, chùa, đèn lồng đá, hồ nước cá vàng, cây cỏ hoa lá thay đổi theo mùa…
tạo ra phong cảnh biến động theo sự trầm tư và suy niệm của người thưởng thức.
(Lê Minh Trung, 1999).
Bố cục vườn Nhật sử dụng không gian mở là chủ yếu, vườn Nhật hạn chế
dùng cây. Cây trong vườn Nhật được nghiên cứu tỉ mỉ dưới các dạng:

- Cây để mọc tự nhiên. Thường dùng loại lá xanh quanh năm như cây thông
hình ô.
- Cây hãm với tỷ lệ bé hài hòa với mảnh vườn nhỏ (đó là nghệ thuật đã đạt đến đỉnh
cao).
- Rêu và cỏ hầu như không thể thiếu được trong vườn Nhật. Đặc tính chung của vườn
Nhật là bố cục tạo nên sự mềm mại đặc sắc; màu lục xám bao trùm khắp vườn mang
tính chất cổ kính nên thơ. Vườn Nhật bố cục theo 3 phong cách:
Phong cách Xin: đơn giản, phẳng.
Phong cách Xô: phức tạp, có đồi.
Phong cách Djiô: địa hình phức tạp có núi đồi, sông, suối.


Trong nghệ thuật vườn – công viên, nguyên tắc “Xin” phản ánh chân thực và
chính xác việc thể hiện cảnh. Nguyên tắc bán tượng trưng là phong cách “Djiô”, còn
nguyên tắc “Xô” là sự tượng trưng thuần túy, cô đọng cực độ nhưng hình thức hết
sức truyền cảm. (Hàn Tất Ngạn, 2000).
1.2.2

Nghệ thuật vườn – công viên Việt Nam

Vườn cảnh Việt Nam thời phong kiến đã chịu ảnh hưởng bởi phong cách vườn
cảnh của Trung Quốc. Và từ nữa sau thế kỷ XIX đến nay thì công viên lại làm theo
kiểu Pháp.
Theo Nguyễn Phi Hoanh viết trong “Nghệ thuật vườn hoa Việt Nam” được
trích dẫn bởi Vương Ngọc Đăng Khoa, 2011 thì vườn hoa cổ điển của nước ta có
các nguyên liệu như: nước, cây, đá,… Với các nguyên liệu này, nghệ sĩ vườn hoa đã
sáng tạo ra những cảnh lý tưởng cho con người. Cảnh lý tưởng ấy phải có hòn giả
sơn, có ao thanh hà, có cây cổ thụ, có những lối đi khúc khuỷu như trong rừng lớn.
Nó phải có đình, có tạ để khách nghỉ chân, có những cầu qua dòng nước để khách
dừng lại ngắm hoa sen hay là xem cá lội.

Muốn cho người dạo chơi có cảm giác như đứng trước một cảnh thiên tạo,
người ta không xây đá ngay thẳng quanh bờ hồ hay bờ suối, mà thường để cho nó
nhô ra, lõm vào như thiên nhiên. Các khóm hoa mọc chen vào những khe đá hay ở
mé nước. Lối đi khi rộng khi hẹp, khi lên gò khi xuống dốc, khi đi quanh theo gốc
cổ thụ như một khu rừng núi ít có bàn tay người sửa đổi. Cũng có khi con đường
xuyên qua đám cây rậm rạp có vẻ huyền bí, lại cũng có khi nó dẫn đến một gian
phòng bằng cây lá cho người ngồi nghỉ chân trò chuyện lúc trời oi bức.
Để tăng thêm vẻ tự nhiên cho cảnh vật, nghệ sĩ vườn hoa bao giờ cũng đắp
thành nhiều chỗ lồi lõm, khấp khểnh trên mặt đất vườn hoa. Điểm kị nhất của vườn
hoa là mặt đất bằng phẳng. Người ta đào thêm hồ, khai dòng nước, lấy đất đắp
thành những ngọn đồi nhỏ để tránh cái đơn điệu của mặt bằng. Nói tóm lại, vườn
hoa Việt Nam là tác phẩm miêu tả chân thực theo một cảnh thiên nhiên thích thú.
Thật ra, vườn cảnh Việt Nam cũng đã có truyền thống lâu đời nhưng vì các lý
do khách quan cũng như chủ quan mà chúng tồn tại rất ít. Các lăng tẩm, vườn tĩnh
23


tâm hay giả viên ở Huế là những vườn cảnh điển hình còn sót lại (Nguyễn Hoàng
Huy, 1997).
Nghệ thuật cảnh quan Việt Nam với sự ảnh hưởng từ lâu của vườn cảnh Trung
Hoa, Pháp, Liên Xô theo các giai đoạn lịch sử của đất nước. Do đó, sự giao lưu ảnh
hưởng văn hóa nói chung và nghệ thuật cảnh quan nói riêng là điều không thể tránh
khỏi.
Cũng chính vì vậy mà hiện nay nghệ thuật cảnh quan của nước ta đang tồn tại
nhiều hình thức khác nhau:
Xu hướng vườn cây cắt xén hình học
Chịu ảnh hưởng của nghệ thuật cắt xén phương Tây, nhưng người Việt Nam
khi áp dụng đã phát triển thêm loại hình cắt uốn cây theo các hình con vật (rồng,
chim, hươu,…) và hiện nay vẫn còn áp dụng nhiều trong các công viên công cộng,
các mặt nước trụ sở với hình thức cây thể hiện chữ.


Hình 1.4 Cây cắt và uốn hình con Rồng
Nguồn: />
Xu hướng cảnh quan phong cảnh đồng quê
Đây là một trào lưu nổi rộ hiện nay, đặc biệt là trong các khu resort, các khu
du lịch sinh thái, các quán ăn cũng như nhà ở trong đô thị. Những khu đất được quy
hoạch với mạng đường tự do với những mảng cỏ rộng trên đó bố trí các tiểu cảnh
mang các chủ đề về miền quê Việt Nam như bụi tre, cau, chuối, lu đất, thuyền hoa,
xe thồ, guồng quay nước Tây Nguyên,… Thật sự, đây là một phát triển tích cực


trong nghệ thuật cảnh quan theo tinh thần Việt trên cơ sở “công viên phong cảnh
đồng quê” thế kỷ XVIII.

Hình 1.5 Khu du lịch Bình Quới - Thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: />
Xu hướng cảnh quan kết hợp kỹ thuật
Là hình thức các chậu cây được xếp trên các khung sườn sắt hình chữ nhật,
kim tự tháp, hình cầu,… Đây là hình thức được áp dụng để trang trí đường phố
trong các ngày lễ hội, một số trục đường, trục chính đón tiếp của khu du lịch hay
vườn hoa trung tâm khu ở, đô thị,… mà cần thiết phô trương sự hào nhoáng bên
ngoài hoặc phục vụ cho nhu cầu trưng bày ngắn hạn. (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).

Hình 1.6 Đường hoa Nguyễn Huệ - Thành phố Hồ Chí Minh 2010
Nguồn: />

×