Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Nghiên cứu sinh khối và khả năng tích luỹ cacbon của thảm cây bụi tại Vườn quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo, Tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 64 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng với sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thế Hưng. Các số liệu , kết quả nghiên
cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.

1


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy, cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết
ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hưng, người đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy em
trongbốn năm qua, những kiến thức mà em nhận được trên giảng đường đại học sẽ
là hànhtrang giúp em vững bước trong tương lai.
Em cũng muốn gửi lời cảm ơn đến các anh chị trong ban quản lý vườn quốc
gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp đỡ và cho em những tài liệu,
thông tin quan trọng để hoàn thành luận văn nghiên cứu.
Nguồn kiến thức thì là vô tận, và thời gian hoàn thành khóa luận còn hạn chế
nên trong quá trình thực hiện khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được những góp ý vô cùng quý giá của quý thầy cô để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày

tháng năm


Sinh viên thực hiện

Dương Anh Tuấn

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
CDM
UNFCCC

Chữ viết đầy đủ
Cơ chế phát triển sạch
(Clean Development Mechanism)
Công ước chống biến đổi khí hậu toàn cầu

KNK

(United Nations Framework Convention on Climate Change)
Khí nhà kính

OTC

Ô tiêu chuẩn

ARCDM

Dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch


3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH

4


DANH MỤC BẢNG

5


DANH MỤC HÌNH

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu, hiện tượng nóng lên của trái đất đang là vấn đề nghiêm
trọng và là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Sự gia tăng nhanh chóng nồng độ
khí nhà kính (KNK) trong khí quyển gồm: CO 2, CH4, N2O, HFCs, BFCs, FS6. Trong
đó chủ yếu là CO2, được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự biến

đổi khí hậu. Nguồn phát sinh KNK là sử dụng năng lượng từ việc đốt cháy nhiên
liệu, sản xuất công nghiệp (khai thác khoáng sản, sản xuất hoá chất…) sản xuất
nông lâm nghiệp (sử dụng phân bón, cháy rừng...) và quản lý chất thải.
Nhằm hạn chế sự gia tăng KNK và sự nóng lên của trái đất, Công ước
khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã được soạn thảo và
thông qua tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992 và
chính thức có hiệu lực vào tháng 3 năm 1994.
Tính đến tháng 5 năm 2004, có 188 quốc gia đã phê chuẩn công ước này. Để
thực hiện công ước này, nghị định thư Kyoto đã được soạn thảo và thông qua năm
1997. Nghị định này là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện việc cắt giảm KNK thông
qua các cơ chế khác nhau, trong đó cơ chế phát triển sạch (CDM - Clean
Development Mechanism) là cơ chế mềm dẻo nhất và có liên quan trực tiếp tới các
nước đang phát triển.
Hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng được coi là các hoạt động sử dụng
đất phù hợp nhất trong CDM. Tuy nhiên, một trong những yêu cầu nghiêm ngặt
trong các dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch (ARCDM) là
phải xác định được lượng cacbon cơ sở (thực chất là trữ lượng cacbon trước khi
trồng rừng/tái trồng rừng) nhằm đề ra các cơ sở khoa học để chứng minh được
lượng tăng thêm hay lượng cacbon thu nạp được bởi các dự án ARCDM. Do vậy ,
những nghiên cứu trữ lượng cacbon trong sinh khối cây bụi - một trong những bể
chứa cacbon chủ yếu được tiến hành nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác
định lượng cacbon cơ sở trong việc thiết kế và triển khai các dự án ARCDM ở Việt
Nam.
Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn
trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo

7


hướng Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh: Vĩnh Phúc (huyện Tam

Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà
Nộikhoảng 75 km về phía Bắc. Chính sách bảo vệ và phát tiển rừng của Vĩnh Phúc
nói chung và huyện Tam Đảo nói riêng được xếp vào loại tốt nhất trong cả nước.
Nhận thức sớm tầm quan trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên.Vì vậy, ngày
15 tháng 5 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có
quyết định số 601 NN-TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Vườn quốc gia Tam Đảo có 1.282
loài thực vật, thuộc 660 chi, thuộc 179 họ thực vật bậc cao có mạch, trong đó có các
loài điển hình cho vùng cận nhiệt đới. Có 42 loài đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần
được bảo tồn, nên việc bảo vệ rừng ngoài giá trị về gỗ thì sinh khối và trữ l ượng
cacbon được cho là khá lớn, có tiềm năng cao trong việc hấp thụ cacbon. Mặt khác
cây bụi, thảm tươi là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ sinh thái rừng.
Thông qua quá trình đồng hóa CO2, lớp cây bụi thảm tươi cũng tích lũy một lượng
sinh khối không nhỏ song song với quá trình tích lũy sinh khối của tầng cây gỗ. Vì
vậy, sinh khối cây bụi thảm tươi là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của
sinh khối rừng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sinh khối và trữ lượng cacbon ở thảm cây bụi
của rừng thuộc vươn quốc gia Tam Đảo sẽ cung cấp cơ sở khoa học quan trọng
trong việc kiểm kê khí nhà kính và thương mại giá trị cacbon của rừng nhằm bổ
sung dẫn liệu về cấu trúc sinh khối và khả năng tích luỹ cacbon của thảm thực vật
làm cơ sở xác định lượng cacbon cơ sở trong dự án trồng rừng theo cơ chế sạch ở
Việt Nam.
Với lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài:“Nghiên cứu sinh khối và khả năng
tích luỹ cacbon của thảm cây bụi tại Vườn quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo,
Tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được sinh khối trên mặt đất của một số thảm cây bụi tại vườn
quốc gia Tam Đảo .
- Đánh giá được khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của các thảm cây bụi
tại vườn quốc gia Tam Đảo .


8


3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu sinh khối
- Nghiên cứu hàm lượng cacbon trong sinh khối
- Đánh giá khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của thảm cây bụi

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Quá trình quang hợp ở thực vật
Quang hợp là quá trình biến đổi chất vô cơ thành chất hữu cơ của thực vật có
chất diệp lục. Dưới tác dụng của ánh sáng.
Phương trình quang hợp:
6CO2 + 6H2O = C6H12O6 + 6O2 + 6H2O
(Điều kiện: ánh sáng mặt trời, chất diệp lục)
Đây chính là phương trình chứng minh khả năng hấp thụ khí CO 2 của thực
vật chứa có chứa diệp lục, trong đó có thảm cây bụi- đối tượng nghiên cứu của đề
tài.
Bản chất của quá trình quang hợp là sự khử khí CO 2 đến hydratcacbon với
sự tham gia của năng lượng ánh sáng mặt trời do sắc tố của thực vật hấp thụ.

Ý nghĩa sinh học cơ bản của quá trình quang hợp là lấy năng lượng tự do từ
môi trường xung quanh rồi tích luỹ nó dưới dạng các phân tử hữu cơ bền vững. Vai
trò có một không hai của quang hợp là làm cho CO 2 (sản phẩm cuối cùng của sự
phân giải các hợp chất hữu cơ) lại được quay trở lại, đi vào chu trình các chất trong
tự nhiên tạo thành chất hữu cơ ban đầu. Không có điều đó, thì không có sự tồn tại
của sự sống.

1.1.2. Tích lũy sinh khối và cacbon ở thực vật
Sinh khối được xác định là tất cả chất hữu cơ ở dạng sống và chết (còn ở trên
cây) ở trên hoặc ở dưới mặt đất [15]. Sinh khối được xem như một chỉ tiêu để đánh
giá sức sản xuất của thực vật và cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh học
của thực vật.
Thực vật có khả năng quang hợp đã hấp thụ CO 2 thải lượng O2 tương ứng
vào môi trường , đồng thời tích lũy sinh khối ở dạng cacbon . Do đó, nghiên cứu
sinh khối thực vật là cần thiết, đây là cơ sở xác định lượng cacbon tích lũy từ đó
đánh giá khả năng hấp thụ CO2 của thực vật, cung cấp thông tin quan trọng giúp

10


các nhà quản lý đánh giá chất lượng cũng như sử dụng hiệu quả thảm thực vật, tham
gia thị trường cacbon, làm cơ sở cho chi trả dịch vụ môi trường.

1.2.

Các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu

1.2.1. Những công trình nghiên cứu về sinh khối của thảm cây bụi trên thế giới và
Việt Nam


• Trên thế giới

Sự gia tăng nồng độ CO2 trong khí quyển là mối quan tâm toàn cầu.
Các nhà nghiên cứu lo ngại rằng sự gia tăng các khí gây hiệu ứng nhà kính,

đặc biệt là khí CO2, chính là nhân tố gây nên những biến đổi bất ngờ và không
lường trước của khí hậu. Trong khi đó rừng được ví như lá phổi xanh của trái đất,
rừng có vai trò quan trọng hấp thu khí cacbonic, sản sinh ra khí oxy cần thiết cho sự
sống. Rừng giữ vai trò trong việc chống biến đổi khí hậu toàn cầu, cung cấp oxy
cho khí quyển và hấp thụ lượng khí cacbonic.
Vì lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới đã tiến hành đo đạc về
sinh khối và khả năng hấp thu cacbon của rừng.
Christensen (1997) [24] đã nghiên cứu sinh khối của rừng Đước ở rừng ngập
mặn đảo Phuket trên bờ biển Tây, Thái Lan. Kết quả nghiên cứu đã xác định được
tổng lượng sinh khối trên mặt đất ở rừng 15 tuổi là 159 tấn sinh khối khô trên một
ha. Lượng tăng trưởng hàng năm tính cho toàn bộ thân, cành, lá và rễ khoảng 20
tấn/ha/năm. Tổng năng suất sinh khối khô là 27 tấn/ha/năm. Nghiên cứu cũng đã so
sánh lượng vật rụng của rừng ngập mặn và rừng mưa nhiệt đới thì thấy lượng vật
rụng hàng năm của rừng ngập mặn cao hơn so với rừng mưa nhiệt đới do rừng ngập
mặn nhỏ tuổi hơn và sinh trưởng nhanh hơn .
Michael S và Ross (1998) [25] đã nghiên cứu sinh khối và năng suất trên mặt
đất của các quần thể rừng ngập mặn ở vườn Quốc gia Biscayne, Florida (USA) từ
sau cơn bão Andrew xảy ra năm 1992, kết quả phân tích cho thấy: Cấu trúc tự nhiên
của quần thể giữ vai trò quan trọng trong việc chống bão của hệ thống rừng ngập
mặn, đặc biệt kích thước và sự phân bố của các bộ phận cấu thành sinh khối.
Akira và công sự (2000) [20] qua nghiên cứu sinh khối và kích thước rễ dưới
mặt đất của Dà vôi (Ceriops tagal) ở Nam Thái Lan kết quả cho thấy: Tổng sinh
khối là 137,5 tấn/ha; tỉ lệ sinh khối trên mặt đất và rễ là 1,05tấn/ha. Trong đó sinh

11



khối thân được 53,35 tấn/ha ;lá được 1,29 tấn/ha ;rễ được 1,99 tấn/ha và dưới mặt
đất là 87,51 tấn/ha.
Trong những năm gần đây, các phương pháp nghiên cứu định lượng, xây
dựng các mô hình dự báo sinh khối cây rừng đã được áp dụng thông qua các mối
quan hệ giữa sinh khối cây với các nhân tố điều tra cơ bản, dễ đo đếm như đường
kính ngang ngực, chiều cao cây giúp cho việc dự đoán nhanh sinh khối và tiếp
kiệm chi phí.
Theo Mc Kenzie (2001) [23], cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập
trung ở các bộ phận chính như: Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, rễ cây và
đất rừng. Việc xác định lượng cacbon trong rừng được thực hiện thông qua việc
xác định sinh khối rừng.
Phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh khối được mô tả bởi Shurrman
và Geodewaaen (1971), Moore (1973). Gadow và Hui (1999), Oliveira và cộng
sự( 2000), Voronoi( 2001), Mc KenZie và cộng sự năm (2001).
Poonsri Wanthongchai và Somsak Piriyayota (2006) [27] đã nghiên cứu vai
trò của rừng ngập mặn trong hấp thụ cacbon với phương pháp phân tích hàm lượng
cacbon chứa trong sinh khối khô của cây. Kết quả cho thấy lượng cacbon trung bình
chứa trong ba loài nghiên cứu (Rhizophora mucronata, R.apiculata, B.cylindrica)
chiếm 47,77 % trọng lượng khô và ở rừng nhiều tuổi thì hấp thu lượng cacbon
nhiều hơn rừng ít tuổi. Lượng cacbon cao nhất là loài R.apiculata 11 tuổi với 74,75
tấn/ha, Rhizophora mucronata với 65,50 tấn/ha trong khi cũng tuổi đó B.cylindrica
chỉ có 1,47 tấn/ha bởi vì hai loài trên sinh trưởng tốt hơn .
Các nghiên cứu trên đều quan tâm đến sinh khối của rừng và cho thấy tầm
quan trọng và những giá trị của rừng đối với môi trường, rừng vừa lưu trữ vừa
hấp thụ khí CO 2, giảm thiểu hiệu ứng nhà kính tác động lên môi trường sống.
Hiện nay biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu đang là vấn đề nóng được
nhiều sự quan tâm của các quốc gia, nhất là các quốc gia có đường bờ biển, nhận
biết được tầm quan trọng của vấn đề này chúng ta đã tiến hành việc hạn chế sự

gia tăng khí nhà kính và sự ấm lên của trái đất, Công ước khung của Liên hợp
quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC – United Nation Frameword Convention on
Climate Change) đã được soạn thảo và thông qua tại hội nghị Liên hợp quốc về
môi trường và phát triển năm 1992 và chính thức có hiệu lực vào tháng 3/1994.

12


Tính đến tháng 5/2004, có 188 quốc gia đã phê chuẩn công ước này, trong đó
nghị định Kyoto được thông qua tháng 12/1997 dựa trên công ước khung đã
đăng tạo cơ sở pháp lý cho việc cắt giảm khí nhà kính. Các nghiên cứu liên quan
tập trung vào tìm ra các dẫn chứng về kho dự trữ cacbon tại các lớp phủ thực vật
và tìm ra cách để các bể chứa này có thể tham gia tăng lưu lượng dự trữ CO 2 từ
khí quyển. Đây là những nghiên cứu rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước
công nghiệp đang phát triển cần đạt được sự giảm thải theo Nghị định thư Kyoto.



Ở Việt Nam
Nghiên cứu sinh khối ở nước ta được tiến hành vào những năm 50 của thế kỷ
trước, mặc dù mặc dù các nghiên cứu về sinh khôi khá muộn và tản mạn không có
hệ thống nhưng cũng đã đem lại một số những thành tựu rất có ý nghĩa và để lại
nhiều dấu ấn.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu sinh khối thực vật được nhiều nhà
khoa học quan tâm và đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần quan trọng
trong việc đánh giá, quản lý và sử dụng hiệu quả các thảm thực vật (rừng).
Hoàng Mạnh Trí (1986) [15] với công trình “Sinh khối và năng suất rừng
Đước” đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” nghiên cứu năng suất, sinh khối một số
quần xã rừng Đước đôi (Zhizophora apiculata) rừng ngập mặn ven biển Minh Hải
là đóng góp có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối với hệ sinh thái rừng

ngập mặn ven biển nước ta .
Hà Văn Tuế (1994) [17] cũng trên cơ sở phương pháp “cây mẫu” của
Newboul, P.J (1967) nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng
nguyên liệu giấy tại vùng trung du Vĩnh Phúc .
Lê Hồng Phúc (1996) [8] đã có công trình “Đánh giá sinh trưởng tăng
trưởng, sinh khối và năng suất rừng trồng Thông ba lá (Pinus keysia) ở vùng Đà
Lạt, Lâm Đồng”. Tác giả đã kết luận, rằng mật độ rừng trồng ảnh hưởng lớn tới sinh
trưởng, tăng trưởng, sinh khối và năng suất của rừng .
Vũ Văn Thông (1998) [14] đã nghiên cứu cơ sở xác định sinh khối cây cá lẻ
và lâm phần Keo lá tràm tại tỉnh Thái Nguyên. Tác giả cũng đã thiết lập được một
số mô hình dự đoán sinh khối cây cá lẻ bằng phương pháp sử dụng cây mẫu.

13


Viên Ngọc Nam ( 1998 ) [7] nghiên cứu về sinh khối rừng đước đôi ở Cần
giờ , thành phố Hồ Chí Minh cũng đã xác định được sinh khối tổng số , sinh khối
trên mặt đất cũng như cấu trúc sinh khối theo cấp kính , lượng tăng sinh khối hang
năm , tăng trưởng đường kính , năng suất lượng rơi… Theo đó tác giả đã xác định
được sinh khối khô của rừng đước đôi 4, 8, 12, 16, 21 tuổi lần lượt là 16,9 tấn/ha,
92,2 tấn/ha ; 119,71 tấn/ha; 148,26 tấn/ha và 148,71 tấn/ha. Trong đó , sinh khối
than và cành chiếm tỷ lệ cao từ 61- 87,3 % trong các bộ phận của cây đước. Tác giả
nhận định rằng sinh khối của đước là khác nhau và tăng dần theo độ tuổi, tăng
nhanh ở giai đoạn cây từ 4 đến 8 tuổi sau đó tăng chậm cho đến khi cây 16 tuổi và
hầu như ít có sự tăng trưởng về sinh khối ở cây có độ tuổi cao hơn.
Đặng Thịnh Triều (2010) [16] khi nghiên cứu sinh khối của rừng trồng
Thông mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng sinh khối của rừng trồng Thông
mã vĩ từ 1 - 9 tuổi là: 20,6 - 313,43 tấn/ha, rừng trồng Thông nhựa là: 22,58 192,12 tấn/ha. Tác giả đã xây dựng bảng tra lượng sinh khối của cây cá thể Thông
mã vĩ và Thông nhựa theo nhân tố điều tra D 1.3 và Hvn theo từng cấp đất và chung
cho các cấp đất.

Nguyễn Văn Dũng (2005) [1], nghiên cứu tại Núi Luốt cho thấy rừng trồng
Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có tổng sinh khối tươi ( trong cây và vật rơi rụng ) là
321,7- 495,4 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4- 266,2 tấn/ha.
Rừng keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi ( trong cây và vật
rơi rụng ) là 251,1- 433,7 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 132,2223,4tấn/ha.

1.2.2. Những nghiên cứu về khả năng tích lũy CO2 trên thế giới và Việt Nam
• Trên thế giới
Quá trình biến đổi cacbon trong hệ sinh thái được xác định từ cân bằng
cacbon gồm cacbon đi vào hệ thống – thông qua quang hợp và tiếp thu các hợp chất
hữu cơ khác - và cacbon mất đi từ quá trình hô hấp của thực vật và động vật, lửa,
khai thác, sinh vật chết cũng như những quá trình khác [13].

14


Cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính:Thảm
thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc xác định lượng
cacbon trong rừng thường được thực hiện thông qua xác định sinh khối rừng
Brown J và Pearce D. W (1994) [21] đã nghiên cứu hấp thụ carbon của rừng
nhiệt đới. Kết quả cho thấy một khu rừng nguyên sinh có thể hấp thụ được 280 tấn
C/ha và sẽ cho ra 200 tấn C/ha nếu bị đốt do canh tác nương rẫy và sẽ giải phóng
cacbon lớn hơn nếu diện tích rừng chuyển bị chuyển thành đồng cỏ hay đất để sản
xuất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ khoảng 115 tấn cacbon và con số này
sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp.
McKenzie N và cộng sự (2001) [23], qua công trình nghiên cứu tương đối
toàn diện và có hệ thống về lượng cacbon tích lũy của rừng, kết quả nghiên cứu cho
thấy: Cacbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm
thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng.
Năm 1980, Brawn và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng

cacbon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh khối và
148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m tương đương 42-43 tỷ tấn cacbon trong
toàn châu lục. Tuy nhiên lượng cacbon có biến động rất lớn giữa các vùng và các
kiểu thảm thực bì khác nhau. Thông thường lượng cacbon trong sinh khối biến động
từ dưới 50 tấn/ha đến 360 tấn/ha , phần lớn ở các kiểu rừng là 100-200 tấn/ha ( dẫn
theo Phạm Xuân Hoàn , 2005) [3]
Dhruba Bijaya G. C (2008) [22], đã nghiên cứu khả năng tích tụ cacbon của
Dendrocalamus strictus. Kết quả cho thấy: sinh khối là 5,24 tấn/ha trong đó tổng 22
sinh khối thân là 4,59 tấn/ha, tổng sinh khối lá là 0,69 tấn/ha và. Tổng cacbon là
232,06 tấn/ha trong đó: Cacbon tích tụ trong thân là 1,52 tấn/ha, trong lá 0,14
tấn/ha, cacbon rễ 0,08 tấn/ha và cacbon tích lũy trong đất là 230,32 tấn/ha .
Pearson T. R. H, Brown. S và Ravindranath N. H (2005) [26] trong tài liệu
Ước tính các nguồn lợi cacbon tổng hợp vào các dự án của GEP, do UNDP và GEF
đã xuất bản và xây dựng phương pháp nghiên cứu hấp thụ cacbon dựa trên 5 bước
để tiến hành. Các bước đó là: Xác định vùng dự án, phân cấp diện tích, quyết định
bể cacbon đo đếm, xác định kiểu, số lượng, kích thước và hình dạng ô đo đếm và

15


cuối cùng là xác định dung lượng ô đo đếm. Phương pháp nghiên cứu hấp thụ
cacbon được ứng dụng và tỏ ra có hiệu quả, được ứng dụng ở nhiều nơi.
Các nghiên cứu trên đều quan tâm đến khả năng hấp thụ CO 2 của rừng và
cho thấy tầm quan trọng và những giá trị của rừng đối với môi trường , rừng vừa
lưu trữ vừa hấp thụ khí CO2 , giảm thiểu hiệu ứng nhà kính tác động lên môi trường
sống.

• Ở Việt Nam

Việt Nam đã nhanh chóng kí kết và tham gia cam kết với các tổ chức quốc tế


như: ký Công ước khung, Nghị đinh thư Kyoto, tham gia các dự án CDM, thành lập
các cơ quan đầu mối quốc gia. Việt Nam đã đủ điều kiện theo qui định của thế giới
về việc xây dựng và thực hiện các dự án tiềm năng về CDM trong các lĩnh vực: Bảo
tồn và tiết kiệm năng lượng; Chuyển đổi sử dụng nguyên liệu hóa thạch; Thu hồi và
sử dụng CH4 từ rác thải và khai thác mỏ quặng; Trồng rừng,… Bên cạnh những
năm gần đây Việt Nam đã có những nỗ lực thực nhiện một số nghiên cứu và hoạt
động liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu và CDM. Qua đó đã thu được một sô
thành tựu quan trọng như sau:
Nguyễn Văn Dũng (2005) [1] tại Núi Luốt – Đại học Lâm Nghiệp .Theo kết
quả nghiên cứu, cho thấy rừng Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có lượng carbon tích
luỹ là 80,7 - 122 tấn/ha; giá trị tích luỹ cacbon ước tính đạt 25,8 - 39,0 triệu
VNĐ/ha. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng lượng carbon tích luỹ là
62,5 - 103,1 tấn/ha; giá trị tích luỹ cacbon ước tính đạt 20 - 33 triệu VNĐ/ha.
Ngô Đình Quế và cộng sự (2006) [12] đã nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2
của một số rừng trồng chủ yếu ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, bằng các
phương pháp nghiên cứu đo đếm sinh trưởng, năng suất và sinh khối của rừng trên
các lập địa khác nhau ở nhiều nơi đã đưa ra phân hạng mức độ thích hợp cho từng
loại cây trồng chủ yếu phổ biến hiện nay: Keo tai tượng, Keo lá tràm, Keo lai,
Thông ba lá, Thông mã vi, Thông nhựa và Bạch đàn Urophylla.
Các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng cacbon tích luỹ của rừng
với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật độ. Đây là
những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh lượng cacbon tích luỹ của rừng
trồng nước ta thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản.

16


Khả năng tích luỹ cacbon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên cứu.
Vũ Tấn Phương (2006) [10] đã nghiên cứu trữ lượng cacbon theo các trạng thái

rừng cho biết: rừng giàu có tổng trữ lượng cacbon 694,9 - 733,9 tấn CO2; rừng trung
bình 539,6 - 577,8 tấn CO2/ha; rừng nghèo 387,0 - 478,9 tấn CO2/ha; rừng phục
hồi 164,9 - 330,5 tấn CO2/ha và rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn CO2/ha.
Hoàng Xuân Tý (2004) [18], nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m 3/ha/năm, tổng
sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm tương
đương 15 tấn CO2/ha/năm , với giá trị thương mại cacbonic tháng 5/2014 biên động
từ 3-5 USD/tấn CO2 thì 1ha rừng như vậy có thể đem lại 45-75 USD ( tương đương
675.000 – 1.120.000 đồng Việt Nam ) mỗi năm.
Võ Đại Hải (2007) [2] đã nghiên cứu sinh khối cây cá lẻ Mỡ trồng thuần loài
vùng trung tâm Bắc Bộ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh khối khô và
tươi cây cá lẻ Mỡ thay đổi theo tuổi và theo cấp đất. Cụ thể, tuổi tăng lên thì sinh
khối cũng tăng lên, ở cấp đất tốt thì sinh khối cao hơn ở cấp đất xấu. Cấu trúc sinh
khối cây cá lẻ gồm 4 phần, trong đó sinh khối thân chiếm tỷ lệ lớn nhất, sau đó đến
sinh khối rễ, cành và lá.
Nguyễn Ngọc Lung (2004) [4], công bố nghiên cứu sinh khối rừng Thông ba
lá để tính toán khả năng cố định CO 2 mà cây rừng hấp thụ. Đây là công trình
nghiêncứu có ý nghĩa trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2
của rừng, tạo tiền đề cho việc xây dựng dự án trồng rừng CDM sau này.
Đặng Thịnh Triều (2010) [16] khi nghiên cứu khả năng cố định cacbon của
rừng trồng Thông mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng lượng cacbon cố định
của rừng trồng Thông mã vĩ từ 1 - 9 tuổi là: 33,32 - 178,68 tấn/ha, rừng trồng
Thông nhựa là: 51,97 - 170,87 tấn/ha.

1.2.3. Những nghiên cứu về sinh khối và khả năng tích lũy CO2 của thảm cây bụi
Vũ Tấn Phương (2006) [10], nghiên cứu được tiến hành tại các vùng đất
không có rừng ở các huyện Cao Phong, Đà Bắc tỉnh Hoà Bình và Hà Trung, Thạch
Thành, Ngọc Lạc tỉnh Thanh Hoá. Đã xác định được và đưa ra kết quả về sinh khối
tươi, khô, trữ lượng cacbon trong sinh khối thảm tươi và cây bụi, đưa ra các kết
luận sau:


17


- Sinh khối tươi của thảm tươi và cây bụi biến động rất khác nhau trong các
đối tượng nghiên cứu: Lau lách có sinh khối lớn nhất, khoảng 104 tấn/ha, tiếp đến
là cây bụi cao 2 - 3m có sinh khôí tươi đạt khoảng 61 tấn/ha, cây bụi cao dưới 2m,
cỏ lá tre, cỏ tranh và thấp nhất là cỏ lông lợn/cỏ chỉ có sinh khối biến động khoảng
22-31 tấn/ha. Về sinh khối khô: Lau lách có sinh khối khô cao nhất 40 tấn/ha,cây
bụi cao 2-3m là 27 tấn /ha, cây bụi cao dưới 2m và tế guột là 20 tấn /ha; cỏ lá tre 13
tấn/ha; cỏ tranh 10 tấn/ha; cỏ chỉ, cỏ lông lợn 8 tấn/ha.
- Sinh khối khô và tươi của cây bụi thảm tươi nghiên cứu có sự chênh lệch
đáng kể do hàm lượng nước trong sinh khối tươi chiếm tỉ trọng khá lớn. Tỉ lệ sinh
khối khô so với sinh khối tươi biến động từ 43 - 46% đối với cỏ lá tre, tế guột và
cây bụi. Đối với cỏ lông lợn / cỏ chỉ, cỏ tranh và lau lách thì sinh khối khô chiếm từ
33 - 39% tổng sinh khối tươi của chúng.
- Trữ lượng cacbon của thảm tươi và cây bụi tỉ lệ thuận với sinh khối của
chúng. Trữ lượng cacbon của lau lách là cao nhất, tiếp đến là cây bụi cao 2- 3m, cây
bụi thấp dưới 2 m, cỏ lá tre, cỏ tranh và cỏ lông lợn/cỏ chỉ.
- Hàm lượng cacbon tập trung chủ yếu ở phần sinh khối trên mặt đất (gồm lá,
thân cành, cỏ) và dưới măt đất (rễ). Trữ lượng trên mặt đất chiếm khoảng 40 - 54 %
tổng trữ lượng cacbon và ở rễ là từ 30 - 57%. Đối với thảm mục, tỉ lệ này là khoảng
11 - 34%. Đây là kết quả nghiên cứu rất quan trọng không những chỉ đóng góp cho
phương pháp luận nghiên cứu sinh khối thảm tươi và cây bụi mà còn là căn cứ khoa
học để xây dụng kịch bản đường cacbon cơ sở trong các dự án trồng rừng/tái trồng
rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam.

 Tiểu Tiết chương 1 :
Qua một số công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên quan tới
đề tài nghiên cứu chúng ta thấy các công trình nghiên cứu trên thế giới được
tiến hành khá đồng bộ ở trên nhiều lĩnh vực cơ bản cho đến ứng dụng, trong

đó nghiên cứu sinh khối và tích lũy cacbon đã được nhiều tác giả quan tâm đặc
biệt trong những năm gần đây, các phương pháp tiến hành khá đa dạng, phong
phú đi sâu và hoàn thiện dần.
Ở nước ta hiện nay nghiên cứu về sinh khối và tích lũy cacbon vẫn còn ít
và chưa chuyên sâu cũng như chưa được công bố, không có hệ thống, các phương

18


pháp nghiên cứu còn kém tính đa dạng và khả năng ứng dụng, các công trình nghiên
cứu còn thiếu tính chính xác, … Vì vậy đề tài được thực hiện hết sức là cần thiết,
góp phần làm phong phú thêm những hiểu biết về sinh khối và khả năng tích lũy
cacbon ở thảm cây bụi , từ đó làm cơ sở cho việc xác định khả năng hấp thụ cacbon
và tính toán được những giá trị kinh tế, môi trường mà rừng đem lại, tiến đến là tính
lượng cacbon phục vụ cho công việc tính toán chi trả cho dịch vụ môi trường nhằm
phát triển bền vững thảm cây bụi nói riêng và toàn bộ cây lâm nghiệp nói chung.

19


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỜNG, ĐỊA ĐIỂM THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng : Sinh khối và khả năng tích lũy cacbon trên mặt đất của thảm cây bụi
ở Km8, Km9 và Km10 tại thị trấn Tam đảo
Phạm vi nghiên cứu : Thảm cây bụi ở ven v thị trấn Tam Đảo
2.2. Đặc điểm điều kiện tự nhiên- xã hội vùng nghiên cứu
2.2.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích

• Vị trí

Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên
dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng
Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái
Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng
75 km về phía Bắc.
Tọa độ địa lý của Vườn quốc gia Tam Đảo: 21°21'-21°42' vĩ Bắc và 105°23'105°44' kinh Đông.
Vùng nghiên cứu nằm dọc trên đường lên đỉnh núi Tam đảo của vườn quốc
gia Tam đảo, thuộc km8, km9 và km10 thuộc thị trấn Tam đảo Huyện Tam đảo,
Tỉnh Vĩnh phúc.

20


Hình 2.1 : Bản đồ vườn quốc gia Tam Đảo

• Ranh giới
- Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang.
- Phía Đông giáp huyện Bình Xuyên và tỉnh Thái Nguyên
- Phía Nam giáp huyện Tam Dương và huyện Bình Xuyên.
- Phía Tây giáp huyện Tam Dương và huyện Lập Thạch.

• Phạm vi và diện tích
Nằm trong địa giới 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Có
tổng diện tích là 36.883 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 17.295ha,
phân khu phục hồi sinh thái là 17.286 ha, phân khu hành chính, dịch vụ là 2.320 ha
(bao gồm diện tích thị trấn Tam Đảo) . Vùng đệm: 15.515 ha, bao gồm 23 xã thuộc
6 huyện thị: Tam Dương, Bình Xuyên, Thành phố Vĩnh Yên, Lập Thạch (Vĩnh
Phúc), Sơn Dương (Tuyên Quang), Đại Từ (Thái Nguyên).
2.2.2.Đặc điểm địa hình, địa chất, khí hậu, thủy văn


• Địa hình
Vườn Quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình
khối đồ sộ, nằm ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng tây-bắc – đông
nam. Cả khối núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu và

21


dầy. Chiều dài khối núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao sàn sàn trên 1000m được nối
với nhau bằng đường dông núi sắc, nhọn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là
ranh giới địa chính của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều
ngang biến động trong khoảng 10-15km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất
dốc, bình quân 25-35 độ, nhiều nơi trên 35 độ nên rất hiểm trở và khó đi lại. Dựa
vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành bốn kiểu địa
hình chính: - Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối cấp
III. Phân bố ở phần trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần về hai
đầu nhưng độ chênh không rõ), chạy dài gần 80km theo hướng tây-bắc – đông-nam
nên nó như một bức bình phong chắn gió mùa đông-bắc tràn về đồng bằng và trung
du Bắc Bộ, Vì vậy ảnh hưởng lớn đến chế độ khí hậu và thủy văn trong vùng.

22


• Địa chất
Theo tài liệu của Tổng cục Địa chất, tuổi tuyệt đối mẫu cục lấy ở khu nghỉ
mát Tam Đảo là 267 triệu năm, hơi cao hơn rionit ở dãy Phiabioc có tuổi từ 230 đến
240 triệu năm. Như vậy rionit Tam Đảo có tuổi Triat giáp Nori. Ở phần phía tây của
vùng (mỏ thiếc), các thể xâm nhập granit kết hợp chặt chẽ với rionit kết tinh khá
cao (giống ở dãy núi pháo Đồng Hỷ) chỉ có các đá granit chứa thiếc chắc chắn có

tuổi trẻ hơn (ở cuối chân núi xuất hiện cuội kết thuộc trầm tích kỷ Jura), Trong quá
trình phát sinh và phát triển của địa hình và lịch sử địa chất đã tạo nên một số loại
khoáng sản có nguồn gốc nội sinh như thiếc, vonfram. Năm (1992) mỏ này được
khai thác. Diện tích mỏ lên đến hàng nghìn hecta, nằm ở phía bắc khu bảo tồn. Nhìn
chung các lọai đá này rất cứng. Thành phần khoáng vật có nhiều thạch anh,
mouscovit khó bị phong hóa và hình thành các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ,
cấp hạt thô, dễ bị xói mòn và rửa trôi, nhất là những nơi có độ dốc cao hơn 350. Đất
bị xói mòn rất mạnh để trơ lại tầng đá gốc cứng rắn. Nếu vì một lí do nào đó làm
lớp phủ rừng bị phá hoại trên lập địa này, thì dù có đầu tư cao cũng khó phục hồi lại
lớp phủ rừng như xưa.
Điều tra, nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy Vườn quốc gia Tam Đảo
có 4 loại đất chính gồm :
- Đất Feralit mùn vàng phát triển trên đá macma axít, xuất hiện ở độ cao từ
700 m trở lên, có diện tích 8.968 ha.
-Đất feralit mùn vàng đỏ phân bố trên núi thấp từ độ cao 400–700 m, phát
triển trên đá macma kết tinh có diện tích 9.292 ha.
- Đất feralit đỏ vàng phát triển trên nhiều loại đá khác nhau ở độ cao 100–
400 m, có diện tích 1.7606 ha
- Đất dốc tụ và phù sa ở độ cao từ 100 m trở xuống có diện tích 1.017 ha

• Khí hậu
Do địa hình tương đối phức tạp nên khí hậu thời tiết ở Tam Đảo được chia
thành 2 tiểu vùng: Tiểu vùng khí hậu Tam Đảo núi quanh năm mát mẻ, rất thuận
tiện cho việc phát triển kinh tế du lịch và hình thành khu nghỉ mát; Tiểu vùng khí
hậu vùng thấp mang các đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến vùng Đông Bắc
Bắc bộ.

23



Dãy núi Tam Đảo tạo ra 2 sườn Đông và Tây rõ rệt, lượng mưa hàng năm
khác nhau đã góp phần tạo nên các tiểu vùng khí hậu khác biệt. Đây cũng là yếu tố
tạo ra 2 đai khí hậu nóng ẩm,nhiệt đới mưa mùa từ độ cao 700–800 m trở xuống và
đai khí hậu á nhiệt đới mưa mùa, cũng như một số khu vực có nhiệt độ, lượng mưa
rất khác nhau của Tam Đảo. Tất cả tạo nên một Vườn quốc gia Tam Đảo được che
phủ bởi một lớp thảm thực vật dày đặc, nhiều tầng và đa dạng về loài, đa dạng về
quần xã sinh học và hệ sinh thái.

• Độ ẩm
- Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm là 87,7%.
- Độ ẩm tương đối trung - bình thấp nhất bình quân nhiều năm là 76,2%;
- Độ ẩm tương đối thấp nhất tuyệt đối là 6%.
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 19,1%.
- Sương mù: Hàng năm bình quân có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
- Số giờ nắng: Một năm bình quân có 1212 giờ.
- Tổng lượng bốc hơi: Bình quân nhiều năm là 512mm, là khá thấp so với
bình quân - bốc hơi toàn quốc.
- Tốc độ gió: Bình quân là 3,0m/s; tốc độ gió cực đại đến 30m/s.
- Độ ẩm tương đối trung bình 85-86 %. Độ ẩm bình quân khu vực thấp là 8184%, trên cao là 87%. Vùng núi cao quanh năm có sương mù tạo nên cảnh quan rất
đẹp. Khu vực vùng núi có độ ẩm cao hơn khu vực thấp, nhất là khi có mưa phùn.
- Lượng mưa trung bình 2570 mm/năm. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10,
chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Tuy nhiên, mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8 và 9.
- Do ảnh hưởng của điều kiện địa hình, địa mạo nên nhiệt độ vùng thấp biến
động từ 22,9 đến 23,7 độ C, tháng lạnh nhất trên 15 độ (tháng 1), tháng nóng nhất
trên 28 độ (tháng 7). Riêng vùng núi có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân là 18
độ C, lạnh nhất là 10,8 độ (tháng1), tháng nóng nhất 23 độ (tháng 7). Đáng chú ý là
nhiệt độ khu nghỉ mát Tam Đảo thấp hơn nhiệt độ ở thành phố Vĩnh Yên khoảng 6
độ C.
- Hướng gió chủ đạo: Mùa hè là hướng Đông Nam, mùa Đông là hướng
Đông Bắc.

Nhìn chung, khí hậu ở Tam Đảo tương đối thuận lợi cho phát triển nông

24


nghiệp, đặc biệt vùng Tam Đảo núi có chế độ khí hậu lý tưởng cho việc phát triển
các khu nghỉ mát và phát triển du lịch sinh thái.

• Thủy văn
Trong khu vực có hai hệ thống sông chính, đó là sông Phó Đáy ở phía tây
(Tuyên Quang, Vĩnh Phúc) và Tam Đảo ở phía đông (Thái Nguyên). Đường phân
thủy rõ rệt nhất của hai hệ thống sông này là đường dông nối các đỉnh núi suốt từ
Mỹ Khê ở cực nam đến Đèo Khế ở điểm cực bắc. Mạng lưới sông suối hai sườn
Tam Đảo dồn xuống hai hệ thống sông này có dạng chân rết khá dày đặc và ngắn,
có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi. Từ chân núi trở đi sông lại có
dạng uốn khúc phức tạp trên mặt cánh đồng khá bằng phẳng, tương ứng với dạng
địa hình đã tạo ra nó. Mật độ sông suối khá dày (trên 2km/km2), các suối có thung
lũng hẹp, đáy nhiều ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém, chúng là
kết quả của quá trình xâm thực. Do đặc điểm khí hậu mưa lớn, mùa mưa dài, lượng
bốc hơi ít (ở đỉnh Tam Đảo) nên cán cân nước dư thừa. Đó là nguyên nhân làm cho
các dòng chảy từ đỉnh Tam Đảo xuống có nước quanh năm. Nhưng chế độ thủy văn
lại chia thành hai mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ trùng với mùa mưa (từ
tháng 4 đến tháng 10), mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lũ lớn thường
xảy ra vào tháng 8, lũ thường tập trung nhanh và rút cũng nhanh. Sự phân phối
dòng chảy rất không đều giữa hai mùa (xem bảng) (Sự phân phối dòng chảy theo
mùa của hai hệ thống sông). Như vậy lưu vực sông Phó Đáy lớn hơn Tam Đảovà
tổng lượng nước chảy cũng lớn hơn sông Công. Độ chênh lệch lượng nước chảy
mùa lũ và mùa cạn cũng rất lớn. Mô đun dòng chảy các mùa cũng thay đổi rất đáng
kể. (Mô đun dòng chảy hai hệ thống sông Phó Đáy và sông Công) Lưu lượng dòng
chảy lớn nhất tuyệt đối là 331m3/s, so với lưu lượng nhỏ nhất - tuyệt đối 3,7m3/s

thì lớn gấp 90 lần.
- Độ đục lớn nhất 541g/m3, gấp 100 lần độ đục nhỏ nhất. - Lượng bùn cát lơ
lửng 3,2kg/s với tổng lượng bùn cát là 101.000T/năm
- Môđun xâm thực trên sông Phó Đáy tới 84,8T/km2. Dòng chảy mùa cạn do
không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho sông hoàn toàn là do nước ngầm
(phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa phùn mùa đông). Cả hai
sông đều có dòng chảy rất nhỏ. Như vậy khả năng cung cấp nước cho mùa đông là

25


×