Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quy định của bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bị hại, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.5 KB, 17 trang )

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người
bị hai, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện
KT VAHS là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền
xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết
định không KTVA. Quyết định KTVA là sơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc
điều tra. Quyết định này làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ
quan có thẩm quyền và những người tham gia tố tụng. Các hoạt động điều tra và
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chỉ được tiến hành sau khi có quyết định KTVA.
Khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền KT VAHS để mọi
tội phạm đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Việc KT VAHS không phụ thuộc vào
người có quyền lợi bị xâm hại có đồng ý hay không. Nhà nước không cho phép một
cá nhân, tổ chức nào được can thiệp để tội phạm xảy ra mà không bị khởi tố. Tuy
nhiên, trên thực tế có trường hợp đặc biệt đó là cơ quan có thẩm quyền chỉ được KT
VAHS khi có yêu cầu của người bị hại. Đó là trường hợp quy định tại Điều 105 BL
TTHS năm 2003. Việc pháp luật quy định cho người bị hại có đặc quyền KT VAHS
như vậy là để hạn chế những trường hợp khi có tội phạm xảy ra, việc KT VA có thể
gây thêm tổn thất cho chính họ, đồng thời còn tạo khả năng và điều kiện cho người
bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp hoặc
là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thỏa. Chính vì lẽ đó,
KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại là một vấn đề rất thiết thực, được nhiều
người quan tâm và nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
1. Khái niệm KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại


Khoản 1 Điều 51 BL TTHS năm 2003 quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Theo quan điểm của BL TTHS
Việt Nam, người bị hại chỉ có thể là cá nhân, là con người cụ thể bị hành vi phạm
tội trực tiếp xâm hại, không thể là pháp nhân hay tổ chức. Điều này xuất phát từ các
đặc trưng của người bị thiệt hại là họ bị xâm hại về thể chất, tinh thần và các quyền


nhân thân khác gắn liền với cá nhân không thể là của tổ chức. Thiệt hại của người bị
hại phải là thiệt hại thực tế, bao gồm: thiệt hại về thể chất là thiệt hại về sức khỏe,
tính mạng mà tội phạm gây ra trên cơ thể con người, tức là thương tích hoặc tổn hại
về sức khỏe; thiệt hại về tinh thần là thiệt hại về danh dự nhân phẩm do hành vi
phạm tội gây ra; thiệt hại về tài sản là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra đối với
tài sản của con người như tài sản bị hủy hoại, bị chiếm đoạt, bị làm hỏng…
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003: “Những vụ án về các tội phạm
được quy định tại Khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122,
131 và 174 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”, ta có thể rút ra một số đặc điểm về KT
VAHS theo yêu cầu của người bị hại như sau:
Thứ nhất: những tội chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là những trường
hợp mà tính chất của tội phạm là ít nghiêm trọng (trừ tội hiếp dâm, cưỡng dâm),
không có tình tiết tăng nặng TNHS và mức nguy hiểm cho xã hội thấp.
Thứ hai: về phía người bị hại, họ “là người mà quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham gia
tố tụng”. Việc KT VA trong một số trường hợp có thể gây thêm những tổn thất về
tinh thần cho người bị thiệt hại, nhất là những trường hợp tội hiếp dâm, cưỡng dâm.
Cũng có trường hợp người bị hại vì nhiều lý do mà không muốn đưa vụ việc ra
trước pháp luật, họ muốn chọn cách thỏa thuận với người gây thiệt hại cho mình
giải quyết sự việc. Bởi vậy, quy định KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại nhằm


thể hiện sự thận trọng và cân nhắc tới tâm tư nguyện vọng của người bị thiệt hại, sự
đồng cảm của xã hội đối với người là nạn nhân của tội phạm.
Thứ ba: theo quy định của Điều 105 BL TTHS năm 2003, đối với những tội quy
định ở trên, yêu cầu của người bị hại là một điều kiện bắt buộc để KT VAHS; cơ
quan có thẩm quyền không thể tự ý quyết định KT VA.
BL TTHS hiện hành chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm KT VAHS theo

yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, từ những phân tích ở trên ta có thể rút ra khái
niệm: KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp mà do tính chất của vụ
án và vì lợi ích của người bị hại, cơ quan có thẩm quyền không được tự ý quyết
định việc KT VAHS mà việc khởi tố được thực hiện theo yêu cầu của người hại.
2. Ý nghĩa của quy định pháp luật về KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại là một trường hợp đặc biệt của KT VAHS.
Vì vậy, KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại sẽ mang những ý nghĩa của giai
đoạn KTVA nói chung, đó là:
- Về mặt chính trị xã hội, KT VAHS bảo đảm phát hiện nhanh chóng hành vi phạm
tội, là biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội và là
công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ.
Việc khởi tố, điều tra và xét xử nhanh chóng, kịp thời các VAHS sẽ tạo trong công
chúng niềm tin vào việc thực thi pháp luật, đồng thời có ý nghĩa trong việc giáo dục
mọi công dân tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
- Về ý nghĩa pháp lý, KT VAHS là giai đoạn tố tụng mở đầu cho hoạt động điều tra,
tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Khi chưa KT VAHS thì
không được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt.


Ngoài những ý nghĩa trên, KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại còn mang
những ý nghĩa khác, cụ thể là thể hiện sự cảm thông với những đau đớn, mất mát
của người bị hại, hạn chế việc người bị hại có thể phải chịu thêm những tổn thương
về mặt tinh thần trong trường hợp KT VAHS. Ngoài ra, trong một số trường hợp
còn để giữ bí mật đời tư và danh dự cho người bị hại.
Quy định về KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại cũng tạo khả năng và điều
kiện cho người bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết phù hợp với mình. Tất
nhiên, mức độ thể hiện ý chí cá nhân chỉ trong một giới hạn Nhà nước và xã hội có
thể chấp nhận được
Ngoài ra quy định KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại còn có ý nghĩa khuyến

khích sự hòa giải trong dân, góp phần giữ gìn tình cảm xóm làng, anh em, họ
hàng…Qua đó, còn có thể giảm bớt các vụ phạm tội phải xét xử tại TA, giảm bớt áp
lực cho các cơ quan THTT.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
1. Yêu cầu KT VAHS của người bị hại
1.1 Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố
a. Người bị hại:
Trong vụ án hình sự người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị
xâm hại; đồng thời, người bị hại cũng là người biết rõ các tình tiết của sự việc. Sự
tham gia của người bị hại vào quá trình giải quyết vụ án là cần thiết. Vì vậy, pháp
luật dành cho họ những quyền đồng thời cũng quy định một số nghĩa vụ nhất định
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại cũng như tạo thuận lợi cho
việc giải quyết vụ án. KT VAHS là quyền đặc thù của người bị hại vì trong các chủ
thể tham gia tố tụng chỉ có người bị hại có quyền này.


b. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Đây là một quy định mới của BL TTHS năm 2003 so với BL TTHS năm 1988, quy
định này có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất.
1.2 Những trường hợp chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003, việc KT VAHS theo yêu
cầu của người bị hại được áp dụng đối với những trường hợp sau: Khoản 1 Điều
104 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác; Khoản 1 Điều 105 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
Khoản 1 Điều 106 BLHS năm 1999: tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Khoản 1 Điều
108 BLHS năm 1999: tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác; Khoản 1 Điều 109 BLHS năm 1999: tội vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm qui tắc nghề nghiệp hoặc qui tắc
hành chính; Khoản 1 Điều 111 BLHS năm 1999: tội hiếp dâm; Khoản 1 Điều 113
BLHS năm 1999: tội cưỡng dâm; Khoản 1 Điều 121 BLHS năm 1999: tội làm nhục
người khác; Khoản 1 Điều 122 BLHS năm 1999: tội vu khống; Khoản 1 Điều 131
BLHS năm 1999: tội xâm phạm quyền tác giả (đã bị bãi bỏ theo Luật sửa đổi, bổ
sung BLHS ngày 16/09/2009); Khoản 1 Điều 171 BLHS năm 1999: tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Khách thể bị xâm phạm trong 11 trường hợp phạm tội trên là sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, quyền tác giả, quyền liên quan quyền tác giả và quyền sở hữu công
nghiệp của người bị hại. Đây là quyền nhân thân của người bị hại. Như vậy, các
trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003 chủ yếu là


các tội có tính chất ít nghiêm trọng (trừ tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm), không có tình
tiết tăng nặng TNHS, mức nguy hiểm cho xã hội thấp; việc truy tố, xét xử chủ yếu
nhằm mục đích giáo dục người phạm tội. Hơn nữa, có nhiều trường hợp giữa người
bị hại và người thực hiện hành vi phạm tội có mối quan hệ đặc biệt, bản thân người
bị hại không muốn đưa vụ việc ra xét xử. Vì vậy, nhìn chung quy định KT VAHS
theo yêu cầu của người bị hại đối với những trường hợp trên là phù hợp, có tính đến
yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa đảm bảo được quyền và lợi ích
cho người bị thiệt hại, vừa góp phần giảm bớt áp lực cho cơ quan THTT và người
THTT.
1.3 Nội dung, hình thức và thời điểm yêu cầu KT VAHS.
a. Nội dung:
BL TTHS năm 2003 chưa có quy định cụ thể về nội dung yêu cầu KT VAHS. Theo
Bình luận khoa học BL TTHS, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, yêu cầu khởi tố của người bị thiệt hại, người đại diện hợp pháp của
người bị hại “phải là yêu cầu truy cứu TNHS người đã gây thiệt hại cho họ”. Nếu
chỉ yêu cầu người phạm tội bồi thường thiệt hại hoặc chỉ yêu cầu cải chính, xin lỗi

thì không phải là yêu cầu KT VAHS. Bởi vì một trong những mục đích của việc KT
VAHS là nhằm truy cứu TNHS của người phạm tội. KT VAHS theo yêu cầu của
người bị hại cũng không ngoài mục đích đó.
b. Hình thức yêu cầu KT VAHS
Theo quy định tại Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày
07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số
quy định của BL TTHS năm 2003 quy định: Yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc
người đại diện thể hiện bằng đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu
người bị hại hoặc người đại diện trực tiếp đến trình bày thì CQĐT, VKS phải lập
biên bản ghi nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản.


Biên bản do VKS lập phải được chuyển ngay cho CQĐT để xem xét việc KT VAHS
và đưa vào hồ sơ vụ án.
Pháp luật quy định cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại
có quyền yêu cầu KT VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, tuy
nhiên cũng quy định họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp tố
cáo sai sự thật nhằm vu khống người khác. Bởi vậy, với quy định về hình thức yêu
cầu KT VAHS có thể hiểu pháp luật muốn người có quyền yêu cầu KT VAHS phải
thể hiện ý chí của mình, hạn chế trường hợp yêu cầu khởi tố làm sai lệch và cũng
nhằm đề cao trách nhiệm của người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị
hại khi yêu cầu, tránh trường hợp người bị hại phủ nhận việc yêu cầu khởi tố
c. Thời điểm yêu cầu KT VAHS
Khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003 quy định: “chỉ được khởi tố vụ án khi có
yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại…”. Như
vậy, theo tinh thần của Khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003 thì thời điểm xuất
hiện yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại phải có trước
thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định KT VAHS
1.4 Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu KT VAHS
Theo khoản 3 Điều 51 BL TTHS năm 2003: “Trong trường hợp vụ án được khởi tố

theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa”. Lời buộc
tội của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là việc họ bày tỏ
tâm tư, nguyện vọng của mình, họ tự phán xét hành vi phạm tội và mong muốn kẻ
phạm tội phải trừng phạt ở mức độ phù hợp với những thiệt hại mà họ phải gánh
chịu. Thông thường lời buộc tội của người bị hại là yêu cầu TA giải quyết đúng đắn
vụ án, trừng trị người phạm tội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của họ. Căn cứ
vào mục I.7 Nghị quyết số 03/ 2004/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định


trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BL TTHS năm 2003 ta có thể biết
được về thời điểm người bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Thời điểm đó là
sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và bị cáo hoặc người bào chữa trình bày
lời bào chữa.
2. Rút yêu cầu KT VAHS của người bị hại
2.1 Chủ thể có quyền rút yêu cầu KT VAHS
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong trường hợp người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình
chỉ”. Như vậy, chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố là người bị hại; người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
2.2 Thời điểm rút yêu cầu KT VAHS
Theo quy định Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003, thời điểm rút yêu cầu KT
VAHS là “trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm”. Đây là một quy định mới so với
BLTTHS năm 1988. Trước đây BLTTHS năm 1988 quy định tại Khoản 2 Điều 88
như sau: “Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa thì vụ
án phải được đình chỉ”. Theo như trên thì thời điểm rút yêu cầu là “trước khi mở
phiên tòa”, quy định này mang tính chất chung chung, khó áp dụng thống nhất trên
thực tế, dễ dẫn đến những cách hiểu khác nhau như hiểu là trước phiên tòa sơ thẩm
hoặc hiểu là trước phiên tòa phúc thẩm. Quy định của BLTTHS năm 2003 đã phần

nào khắc phục được những hạn chế đó. Như vậy, thời điểm rút yêu cầu khởi tố là
bất kì giai đoạn nào trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, có thể là ngay sau khi vừa yêu
cầu khởi tố hay giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm.
2.3 Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu KT VAHS


- Trường hợp không có căn cứ để xác định việc rút lại yêu cầu KT VAHS là do ép
buộc, cưỡng bức.
Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ rút yêu cầu khởi tố trước ngày
mở phiên tòa thì vụ án phải được đình chỉ. Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều
164, Khoản 1 Điều 169, đoạn 1 Điều 180 BL TTHS năm 2003 và hướng dẫn tại
Mục 7.2 Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP thì nếu vụ án đang
trong giai đoạn điều tra thì CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra; nếu đã chuyển hồ
sơ cho VKS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án; nếu vụ án đang trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết
định đình chỉ vụ án. Ngoài ra theo quy định tại Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm
2003 thì người đã rút yêu cầu khởi tố vụ án không có quyền yêu cầu lại, trừ trường
hợp bị ép buộc, cưỡng bức. Quy định này tạo sự chủ động cho các cơ quan THTT
khi tiến hành giải quyết yêu cầu của người bị hại, đồng thời tránh việc người bị hại
lợi dụng kẽ hở của pháp luật để kéo dài quá trình tố tụng. Theo quy định tại Khoản
3 Điều 99 BL TTHS năm 2003, trong trường hợp TA đình chỉ vụ án do việc rút đơn
yêu cầu khởi tố thì người bị hại phải trả án phí.
- Trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu KTVA trái
ý muốn do bị ép buộc, cưỡng bức.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 105 BL TTHS năm 2003, trong trường hợp có căn
cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút đơn trái ý muốn do họ bị ép buộc,
cưỡng bức thì CQĐT, VKS, TA vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Quy định này tạo sự thuận lợi hơn cho cơ quan THTT khi áp dụng, đồng thời cũng
đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, tránh việc áp dụng theo ý muốn chủ quan

của người THTT. Ngoài ra, quy định này cũng góp phần đề cao tính nghiêm minh
của người bị hại, khiến họ có thái độ thận trọng hơn khi rút đơn yêu cầu khởi tố,
tránh trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu sau đó lại yêu cầu khiến cho việc giải
quyết vụ án kéo dài, gây tốn kém, lãng phí về tiền bạc của Nhà nước. Việc người bị


hại rút đơn yêu cầu do bị ép buộc cưỡng bức vừa là căn cứ để CQĐT, VKS, TA tiếp
tục THTT đối với vụ án; vừa là điều kiện để người bị hại được yêu cầu lại. Quy
định này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị hại.
III. Những tồn tại, vướng mắc và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định
của pháp luật về KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
1. Những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định KT VAHS theo yêu
cầu của người bị hại
1.1 Về các trường hợp KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
Trong BLHS năm 2003 quy định 11 tội chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại và đều thuộc Khoản 1 của các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122,
131 và 171 của BLHS
Thực tiễn cho thấy, có những hành vi thuộc một số loại tội lẽ ra nên trao cho người
bị hại quyền yêu cầu khởi tố nhưng luật lại không quy định. Cụ thể như: trong các
tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân có quy định tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở của công dân, tội buộc người lao động,
cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật, các tội này xâm phạm đến các quyền cơ
bản của con người như quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,
quyền được lao động. Đối tượng bị xâm hại trực tiếp là các quyền của người bị hại,
vì vậy, nên để cho người bị hại được tự do lựa chọn hình thức xử lý sao cho có lợi
nhất đối với họ thông qua việc yêu cầu hoặc không yêu cầu KTVA.
1.2 Về chủ thể yêu cầu khởi tố
- Tại khoản 1 Điều 105 BL TTHS năm 2003 quy định một số trường hợp chỉ được
khởi tố khi có “yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị
hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Như



vậy, chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố trước hết là người bị hại, trong trường hợp
người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất thì người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố.
Trong thực tế, khi áp dụng quy định này đã nảy sinh vướng mắc ở một số trường
hợp. Ví dụ như: trường hợp hai người đánh nhau, người bị hại chỉ có tỉ lệ thương tật
là 15% thuộc khoản 1 Điều 104 BLHS, trong quá trình điều tra, người bị hại (gần
đủ 18 tuổi) không yêu cầu xử lý nhưng cha của người bị hại lại yêu cầu xử lý. Về sự
việc này có một số ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng: người bị hại tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng hoàn toàn có khả
năng thể hiện được ý chí của mình nên phải chấp nhận theo yêu cầu của người bị
hại, chỉ trong trường hợp người bị hại còn quá nhỏ hoặc bị bệnh không đủ khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi để đưa ra yêu cầu của mình thì lúc đó người đại
diện hợp pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu. Ý kiến thứ hai cho rằng:
trong mọi trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì quyền yêu cầu khởi tố phải thuộc về người đại diện hợp pháp
của người bị hại, điều đó xuất phát từ những nghiên cứu tâm sinh lý của người chưa
thành niên và người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, do còn nhỏ tuổi hoặc
có nhược điểm về tâm thần, thể chất mà làm hạn chế khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của những người này nên tinh thần của điều luật quy định đã thể hiện
rõ không giao quyền yêu cầu khởi tố cho họ.
Trong sự việc trên, nhận thức ý kiến thứ hai là đúng tuy nhiên, xem xét kỹ ý kiến
thứ nhất cho thấy không phải là không có những hạt nhân hợp lý ở đó�. Vướng
mắc ở đây không hoàn toàn do luật định mà chủ yếu do nhận thức của người đánh
giá.
- Đối với trường hợp người bị hại chết, người đại diện hợp pháp của người bị hại
muốn làm đơn yêu cầu KT VAHS để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị hại
nhưng luật không quy định cho họ có quyền này. Theo quy định tại Khoản 5 Điều



51 BLTTHS năm 2003 ta có thể hiểu là khi người bị hại chết thì người đại diện hợp
pháp của họ có đầy đủ quyền của người bị hại quy định tại Khoản 2 Điều 51 BL
TTHS năm 2003. Quy định này không bao gồm quyền được yêu cầu KT VAHS
theo Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003.
Ví dụ: Do mâu thuẫn, A dùng dao chém B một nhát vào chân. Ngay sau khi bị
chém, B được mọi người đưa đi cấp cứu; trên đường đến bệnh viện thì xảy ra tai
nạn giao thông đường bộ làm B tử vong. Kết luận giám định pháp y xác định B chết
vì chấn thương sọ não (do tai nạn giao thông); riêng vết thương phần mềm ở chân
do A dùng dao chém có tỷ lệ thương tật là 4%. Trong vụ án này, B chưa thể hiện ý
chí của mình là có yêu cầu khởi tố hay không khởi tố VAHS thì bị tử vong do tai
nạn giao thông. Chị K vợ của B, muốn làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền KT
VAHS “cố ý gây thương tích” nhưng không có căn cứ của pháp luật để thực hiện.
1.3 Về trường hợp rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa
Tại Khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được
đình chỉ”, trừ trường hợp “có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu, CQĐT, VKS, TA vẫn có thể tiếp tục THTT đối với vụ án”.
Như vậy, BLTTHS chỉ quy định về trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, còn trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu tại phiên tòa thì chưa có quy định xử lý như thế nào. Do vậy, trong thực tế khi
có trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa đã gây ra sự lúng túng
cho các cơ quan THTT. Ví dụ như: Tối ngày 18/11/2009, Đinh Tấn Trung cùng các
bạn đến nhà mẹ vợ uống bia. Tại đây, một người trong nhóm đi ra ngoài, đã xô xát
với một thanh niên khác. Trung nghe tiếng bạn kêu vội chạy xuống bếp lấy dao lao
đến, đánh nhau một hồi Trung đâm chết một người và gây thương tích 2% cho anh
Đặng Mẫu Dũng. Sau đó Trung bị khởi tố về tội giết người. Đồng thời anh Dũng có



đơn yêu cầu khởi tố Trung về tội cố ý gây thương tích nên Trung bị khởi tố thêm tội
danh này theo điểm a Khoản 1. Tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm ngày 24/08/2009,
kết thúc phần xét hỏi, anh Dũng đã rút đơn yêu cầu khởi tố Trung�
Xung quanh vấn đề này có các ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, gặp
trường hợp này thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, sau đó ra quyết định đình
chỉ vụ án; ý kiến thứ hai cho rằng, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử và tuyên án
bình thường như trường hợp người bị hại không rút đơn yêu cầu khởi tố; ý kiến thứ
ba cho rằng, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và kết luận bị cáo phạm tội
nhưng cho họ được miễn hình phạt; ý kiến thứ tư cho rằng, Hội đồng xét xử vẫn
tiếp tục xét xử và kết luận bị cáo phạm tội nhưng không áp dụng hình phạt tù đối
với họ nếu có đủ những điều kiện khác (có thể phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ nếu tội đó có quy định loại hình phạt này, cũng có thể miễn hình phạt hoặc cho
bị cáo hưởng án treo nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ).
Nhận thức theo ý kiến thứ nhất, thứ hai, thứ ba thì chưa hợp lý. Ý kiến thứ nhất, đặt
quá nhiều yêu cầu của người bị hại (thiên về tư tố) mà coi nhẹ tính chất của công tố,
yêu cầu của người bị hại không phải là quyết định đối với cơ quan THTT; hơn nữa,
luật chỉ quy định cho người bị hại quyền rút yêu cầu khởi tố trước ngày khởi tố
phiên tòa; vì vậy, trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa không
thể dẫn tới việc đình chỉ vụ án. Ý kiến thứ hai lại xem nhẹ yêu cầu của người bị hại,
không tính đến yêu cầu của người bị hại, trong khi đó loại tội phạm này chỉ khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại. Ý kiến thứ ba có điểm chưa hợp lý ở chỗ điều kiện
miễn hình phạt là trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại
Khoản 1 Điều 46 BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức
được miễn TNHS; như vậy nếu người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố nhưng không
có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS thì cũng không thể miễn hình phạt được. Chỉ có ý
kiến thứ tư là phù hợp nhất, không đặt nặng hoặc xem nhẹ yêu cầu của người bị hại
mà có tính đến yêu cầu, nguyện vọng của họ khi quyết định hình phạt.
1.4 Một số vướng mắc khác trong thực tiễn



- Trong các tội xâm phạm sức khỏe nhất là đối với tội cố ý gây thương tích, có
trường hợp người bị hại bị chém rách mặt, thủng phổi hay đứt gân tay chưa cần
giám định cũng biết thương tích của họ trên 11%, có thể khởi tố và áp dụng ngay
biện pháp ngăn chặn đối với đối tượng gây án nhưng luật lại không đề cập đến điều
đó, mà chỉ được KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại, trong khi nhiều người bị
hại từ chối giám định thương tích, không đề nghị khởi tố, vì họ đã bị đối tượng gây
thương tích tác động, hay vì khoản tiền đền bù hậu hĩnh…Nên cơ quan pháp luật
không thể xử lý được, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc đấu tranh, xử lý tội
phạm, nhất là các tội phạm hoạt động có tổ chức về tính chất côn đồ, sử dụng hung
khí nguy hiểm.
-Trường hợp một người gây thương tích cho nhiều người và đều thuộc trường hợp
quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLHS nhưng chỉ có một người có yêu cầu khởi tố.
Về sự việc này có ý kiến cho rằng đưa tất cả những người bị thương tích là người bị
hại và xử lý người gây thương tích về hành vi gây ra cho tất cả những người bị hại
đó. Ý kiến khác lại cho rằng, chỉ có một người bị hại là người có yêu cầu khởi tố,
những người còn lại không phải là người bị hại và người gây thương tích không
phải chịu TNHS về hành vi gây ra cho những người này.
- Theo Khoản 3 Điều 51 BL TTHS có quy định người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là một quy định phù hợp,
bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại trong trường hợp vụ án được khởi tố theo
yêu cầu của họ. Tuy nhiên trên thực tế quy định này khi được đem ra thi hành đã
không phát huy hiệu quả. BLTTHS không quy định rõ đây là quyền hay là nghĩa vụ
của người bị hại. Về phía người bị hại do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế,
họ không biết trình bày lời buộc tội như thế nào, nội dung của lời buộc tội ra sao,
thậm chí họ cũng không được cơ quan THTT thông báo về việc trình bày lời buộc
tội tại phiên tòa. Cụ thể như vụ án: Chị Nguyễn Thị Hương là người nơi khác, lên
Quỳ Hợp, Nghệ An sinh sống được hai năm thì xảy ra xô xát, Hương bị đánh do
mâu thuẫn trong việc làm ăn với người khác. Kết luận giám định cho thấy Hương bị



tổn hại sức khỏe 25%. Chị Hương đã yêu cầu KT VAHS. Từ đây bắt đầu quá trình
tố tụng kéo dài 4 năm với 11 lần trả hồ sơ giữa các cơ quan THTT, 6 bản cáo trạng
và 6 lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Bản án thứ 6 mới tuyên được bị cáo có tội và
áp dụng hình phạt�. Điều đáng nói ở đây là tại phiên tòa sơ thẩm, Hương chỉ khai
báo và trình bày ý kiến chứ không biết gì về “buộc tội”, và chị cũng cho biết là
không có thủ tục TA yêu cầu chị “trình bày lời buộc tội”.
Những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định KT VAHS theo yêu
cầu của người bị hại do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: quy định của pháp luật về vấn đề KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại
chưa thật sự hoàn chỉnh
Thứ hai: công tác giải thích pháp luật chưa kịp thời, đầy đủ
Thứ ba: hệ thống cơ quan THTT chưa thực hiện tốt công tác đội ngũ, cán bộ
Thứ tư: một nguyên nhân khác không thể không kể đến đó là ý thức của người dân
trong việc thực hiện những quy định của pháp luật chưa tốt.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về KT VAHS theo yêu
cầu của người bị hại.
Thứ nhất: về các trường hợp KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại. Các nhà làm
luật nên xem xét và quy định thêm một số trường hợp phải khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại như: tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở
của công dân, tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật.
Thứ hai: về chủ thể yêu cầu KT VAHS


- Đối với trường hợp đưa ra ở phần 1.2 tại trang 8, trang 9, để đảm bảo cho việc
nhận thức của người đánh giá luật cũng như những người áp dụng luật được thống,
các nhà làm luật cần quy định rõ ràng hơn về chủ thể KT VAHS. Theo đó, pháp luật
của chúng ta có thể quy định theo hướng: nếu người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ người đại diện hợp
pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu.
- Còn ở trường hợp khi người bị hại chết. Để đảm bảo cho người bị hại không bị

chết oan, đồng thời phần nào có những khoản bồi đắp cho những mất mát cả về tinh
thần lẫn vật chất của những người thân, người đại diện hợp pháp của người bị hại.
Vì vậy, cần bổ sung quy định khi người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của
họ cũng có đầy đủ quyền của người bị hại quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLTTHS
đồng thời còn bao gồm cả quyền được KT VAHS theo Khoản 1 Điều 105 BLTTHS.
Thứ ba: về trường hợp rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa.
Để tránh trường hợp khó xử, lúng túng của cơ quan THTT khi gặp trường hợp
người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì luật cần sửa đổi theo hướng: khi
người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục
tiến hành xét xử và kết luận bị cáo phạm tội nhưng có thể miễn hình phạt nếu có
nhiều tình tiết giảm nhẹ; phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ nếu tội đó có quy
định loại hình phạt này hoặc cho bị cáo hưởng án treo nếu có đủ điều kiện. Có lẽ
quy định quy định như vậy sẽ phần nào khắc phục được những khó khăn ở trên.
Thứ tư:
- Đối với tội cố ý gây thương tích, có trường hợp người bị hại bị chém rách mặt,
thủng phổi hay đứt gân tay chưa cần giám định cũng biết thương tích của họ trên
11%, thì luật nên sửa đổi theo hướng vẫn quy định tội cố ý gây thương tích phải KT
VAHS theo yêu cầu của người bị hại nhưng loại trừ trường hợp hành vi có tính chất
côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm.


- Còn đối với trường hợp một người gây thương tích cho nhiều người và đều thuộc
trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLHS nhưng chỉ có một người có yêu
cầu khởi tố thì để đảm bảo việc thực hiện được thống nhất giữa các cơ quan THTT
ở các địa phương được đồng đều thì liên nghành Tư pháp trung ương cần sớm có
những hướng dẫn cụ thể.
- Về vấn đề trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Để đảm bảo tính dân chủ trong quá
trình xét xử, luật nên quy định trình tự, thủ tục pháy lý một cách đầy đủ và khoa học
trên nguyên tắc là tạo điều kiện để người THTT, cơ quan THTT, người tham gia tố
tụng thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa. Đặc biệt, cần tạo điều

kiện thuận lợi cho người bị hại có yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội đối với bị
cáo.
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy quy định về quyền KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại là
một quy định rất có ích cho xã hội. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho người
bị hại có thể lựa chọn những cách giải quyết hợp lý nhất không chỉ cho bản thân
mình mà còn cho cả những người gây ra thiệt hại. Tuy nhiên trong thực tiễn việc áp
dụng quy định này còn có nhiều hạn chế, bất cập, do vậy để cho việc thực hiện
quyền KT VAHS theo yêu cầu của người bị hại đạt được hiệu quả cao nhất thì cần
sớm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện BL TTHS



×