Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tác động của luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.6 KB, 11 trang )

Tác động của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản luật của Việt
Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm
Theo khoa học pháp lý quốc tế hiện đại, Luật Quốc tế là hệ thống các nguyên tắc,
quy phạm pháp luật, được quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế thỏa thuận
xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ
phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế.

Mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia là vấn đề mang tính lý luận cơ
bản, có ý nghĩa quan trọng trong q trình xây dựng và thực hiện pháp luật ở từng
quốc gia. Mối quan hệ này được thể hiện ở nhiều nội dung và dưới nhiều cấp độ
khác nhau. Trên quy mô toàn cầu, mối quan hệ biện chứng qua lại giữa Luật Quốc
tế và Luật quốc gia diễn ra theo hai chiều hướng: Luật quốc gia ảnh hưởng quyết
định đến sự phát triển, quá trình xây dựng và thực hiện Luật Quốc tế; Luật Quốc tế
thường xuyên thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật quốc gia. Đối với
từng quốc gia, sự tác động qua lại giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia tùy thuộc vào
mức độ tham gia quan hệ quốc tế của quốc gia đó.

Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã chủ động từng bước tham gia vào quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong quá trình tham gia vào quan hệ quốc tế, ảnh
hưởng qua lại giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia của Việt Nam là tương đối rõ nét.
Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận, em xin được chọn đề tài:
Phân tích tác động của Luật quốc tế tới q trình hoàn thiện các văn bản luật của
Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận


1. Khái niệm đấu tranh phịng chống tội phạm
Để có cách sử dụng chính xác thuật ngữ “đấu tranh phịng, chống tội phạm” đảm
bảo tính khoa học và tồn diện, cần phân tích nội hàm của các thuật ngữ này qua
các từ của thuật ngữ. “Đấu tranh” là từ Hán Việt, có nghĩa tương đương với


“chống”, theo đó “đấu tranh” ở đây được hiểu là công tác điều tra, truy tố, xét xử
người phạm tội. “Chống” được hiểu là sự đấu tranh trực diện giữa một bên là chủ
thể có thẩm quyền và một bên là tội phạm. Còn “phòng ngừa” là ngăn ngừa hoặc
ngăn chặn để không cho tội phạm xảy ra
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp
dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng
đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế,
đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
2. Một số văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực phòng chống tội phạm
- Luật phòng, chống mua bán người ngày 29/03/2011
- Nghị định số 72/2010/NĐ-CP ngày 08/7/2010 quy định về phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường
- Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP “Về tăng cường cơng tác phịng, chống tội phạm
trong tình hình mới” ngày 31/7/1998.
- Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
09/1998/NQ-CP và Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm của Chính phủ
đến năm 2010”


- Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/04/2014 quy định về phòng,
chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng cơng nghệ cao.
- Một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên:
+ Công ước New York ngày 15/11/2000 về Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia (kèm theo bảo lưu và tuyên bố), có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày
08/6/2012
+ Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
+ Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm có tổ chức xun quốc gia
+ Cơng ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia

- Các hiệp định song phương và đa phương khác về tương trợ tư pháp, dẫn độ tội
phạm…
3. Luật Quốc tế có tác động đến sự phát triển và hoàn thiện của Luật quốc gia
Khi tham gia quan hệ quốc tế, quốc gia có nghĩa vụ phải tận tâm thiện chí thực hiện
các cam kết quốc tế của mình. Điều này được quốc gia thể hiện thơng qua nhiều
hành vi cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật quốc gia sao cho các quy định của pháp luật quốc gia vừa mang tính
đặc thù của mỗi quốc gia vừa phù hợp với các cam kết quốc tế của quốc gia. Chính
vì vậy, các quy định có nội dung tiến bộ của Luật Quốc tế thể hiện thành tựu mới
của khóa học pháp lý dần dần sẽ được truyền tải vào trong các văn bản pháp luật
quốc gia. Những thành tựu này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của pháp luật
quốc gia, đảm bảo cho quốc gia vừa có thể hội nhập vào nền tảng pháp lý chung,


vừa có thể thiết lập được một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn chỉnh, phù hợp với
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề áp dụng các điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định của
pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, cụ thể là: “Trong trường hợp
việc thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi phải bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành văn
bản pháp luật của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cơ quan các ngành
hữu quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trình kiến nghị về việc bổ sung,
sửa đổi hoặc ban hành văn bản pháp luật đó” (khoản 6 điều 11)
Điều ước quốc tế được Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết với danh nghĩa
Nhà nước, Chính phủ hoặc cấp ngành. Do vậy, khi một điều ước quốc tế được phía
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì có nghĩa là Nhà nước, Chính phủ hoặc ngành
liên quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế đó bằng cách nội luật hóa hoặc
quy chiếu trực tiếp, có nghĩa là nó sẽ nằm trong hệ thống pháp luật quốc gia, khi đó,
mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ xã hội được nó điều chỉnh phải tuân
theo. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập quy
định những vấn đề mà pháp luật trong nước chưa điều chỉnh thì nó có thể trở thành

căn cứ pháp lý để ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong nước, đặc biệt
là các văn bản của bộ, ngành. Trường hợp điều ước quốc tế và luật nội địa cùng quy
định về một vấn đề thì về nguyên tắc, luật nội địa phải phù hợp với điều ước quốc tế
bằng cách phải sửa đổi, bổ sung hoặc dẫn chiếu áp dụng điều ước quốc tế. Như vậy,
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là
căn cứ cho việc ban hành văn bản. Chính vì vậy mà các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung là cơ sở, căn cứ quan
trọng để chúng ta phát triển, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước.
II. Tác động của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản luật của Việt
Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm


Để phân tích tác động của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản luật của
Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, em xin được đi vào phân
tích tác động của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản luật của Việt
Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm cụ thể, đó là: đấu tranh phịng
chống tội phạm bn bán người; đấu tranh phịng chống tội phạm tham nhũng và
đấu tranh phòng chống khủng bố quốc tế.
1. Tác động của Luật Quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản pháp luật của
Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phịng chống tội phạm bn bán người
Hiện nay, ở Việt Nam tình hình bn bán người đang gia tăng và diễn biến phức
tạp. Việc nghiên cứu các quy định trong Cơng ước về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia và các nghị định thư bổ sung, đặc biệt là Nghị định thư về phịng
chống bn bán người vào thời điểm này rất có ý nghĩa thực tiễn về mặt pháp lý,
một trong những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm thiểu nạn buôn bán người là việc
thơng qua Luật phịng chống mua bán người.
Những quy định cơ bản của pháp luật về bn bán người
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam thơng qua Luật phịng chống bn bán người và
Luật quốc tế thông qua Nghị định thư về phịng chống bn bán người đều quy định
những vấn đề như:

- Hình sự hóa những hành vi liên quan đến tội phạm buôn bán người: phù hợp với
quy định tại Điều 5 Nghị định thư về chống buôn bán người, pháp luật Việt Nam đã
quy định tương đối đầy đủ các hành vi phạm tội có liên quan đến tội bn bán
người và những hành vi phạm tội đó đều chịu những mức xử lý nghiêm khắc. Liên
quan đến hành vi phạm tội buôn bán người được quy định tại Điều 119, 120, Điều
20 tội đồng phạm, Điều 254, 255, 256, 273, 274, 275 BLHS; Điều 3 Luật phòng
chống buôn bán người; Nghị định 68/2002/CP ngày 10/07/2002 quy định chi tiết thi
hành một số điều luật của Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi có nhiều


điều khoản liên quan đến phịng chống bn bán người như: điều 2, 18, 21, 35, 50,
58.
- Thẩm quyền điều tra, quyền tài phán ngoài phạm vi lãnh thổ: pháp luật Việt Nam
đã cụ thể hóa các quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia tại Điều 5, Điều 6 BLHS. Theo như quy định này thì Việt Nam
cũng có thể có thẩm quyền tài phán ngồi lãnh thổ đối với các tội phạm được thực
hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam trong các trường hợp như người bị hại là cơng dân
Việt Nam, người khơng có quốc tịch thường trú tại Việt Nam; hành vi phạm tội có
tổ chức được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam nhằm để thực hiện một tội phạm
nghiêm trọng tại Việt Nam hoặc hành vi tham gia rửa tiền hay rửa tiền chưa đạt
được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhằm để sẽ rửa tiền tại Việt Nam. Quyền
tài phán ngoài lãnh thổ được quy định rất rõ trong các Hiệp định song phương hay
đa phương mà Việt Nam ký kết với các nước khác trong từng lĩnh vực cụ thể.
- Dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp: Nghị định thư về chống buôn bán người
không đề cập vấn đề dẫn độ tội phạm buôn bán người, nhưng tại khoản 1, khoản 3
Điều 16 của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia có quy định về
dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp. Pháp luật Việt Nam quy định các trường hợp
dẫn độ tội phạm theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia theo
nguyên tắc có đi có lại (quy định cụ thể trong chương 4 Luật tương trợ tư pháp và
trong điều 343 BLTTHS). Các quy định về dẫn độ trong pháp luật Việt Nam nói

chung đã đáp ứng được những yêu cầu khách qua trong việc thực hiện tương trợ tư
pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế và cũng phù hợp với tinh thần chung của pháp
luật quốc tế về phịng chống bn bán người
- Những quy định về việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân của tội phạm bn bán người:
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam cũng đã quy định đầy đủ về vấn đề trợ giúp và tái
hòa nhập cộng đồng của các nạn nhân bị buôn bán và điều này cũng phù hợp với
tinh thần chung của Công ước Liên hợp quốc về phịng chống tội phạm có tổ chức
xun quốc gia (Điều 24, 25) và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về chống


buôn bán người (Điều 6, 7, 8). Cả pháp luật Việt Nam và Luật quốc tế đều quy định
các vấn đề như: không trừng phạt nạn nhân; bảo vệ an toàn thể chất, bảo vệ đời tư
và nhân dạng cho nạn nhân; các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân trong q trình
tố tụng; hồi hương và tái hịa nhập cộng đồng…
Những quy định trong pháp luật Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng với các
quy định của pháp luật quốc tế về phịng chống tội phạm bn bán người; điều đó
chứng tỏ tác động khơng nhỏ của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản
pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phịng chống tội phạm bn bán
người.
2. Tác động của Luật Quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản pháp luật của
Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng
Ngày 21/11/2005, Quốc hội Việt Nam đã thơng qua Luật phịng chống tham nhũng.
Q trình xây dựng Luật này cũng đã tham khảo những quy định trong Công ước
của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Từ các quy định của Công ước, quy định
của Luật phòng chống tham nhũng, đồng thời quán triệt Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X (kỳ họp thứ ba), các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng chống tham nhũng. Cụ thể
là:
- Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về phòng chống tham nhũng đến năm
2020 và kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược; đã ban hành một loạt các Nghị

định, Quyết định, Chỉ thị quy định về minh bạch tài sản, thu nhập, chuyển đổi vị trí
cơng tác đối với cán bộ, cơng chức, viên chức; tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở,
trang thiết bị và phương tiện làm việc; tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng; xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng;
vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng; trả lương qua tài
khoản đối với đối tượng hưởng lương từ ngân sách...


- Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng và Ủy ban Kiểm tra Trung
ương đã xây dựng, trình Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quy chế phối hợp
giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống
tham nhũng trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng có liên quan
đến PCTN (Quyết định số 264-QĐ/TW ngày 12/10/2009);
- Thực hiện Nghị quyết 1039/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 28/8/2006 của Ủy ban
Thường Vụ Quốc hội, các cơ quan: Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng
chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ, Kiểm tốn Nhà nước, Bộ Cơng an, Toà án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế về việc phối
hợp trong cơng tác phịng chống tham nhũng (Quy chế số 01/QCPH ngày
15/01/2009);
- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án đưa nội dung phòng
chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng (Quyết định số
137/2009/QĐ-TTg); Ban hành Quyết định về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế
hoạt động của Bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng chống tham nhũng
(Quyết định số 138/2009/QĐ-TTg ngày 09/12/2009)
- Các văn bản pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là các lĩnh vực nhạy
cảm, dễ xảy ra tham nhũng cũng đã được rà sốt, sửa đổì, bổ sung, ban hành mới
theo thẩm quyền.
Về việc thực hiện một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng: Theo Điều 8 Cơng
ước, các quốc gia thành viên Cơng ước có nghĩa vụ “trong khuôn khổ hệ thống pháp
luật và thể chế nước mình, những quy tắc hoặc chuẩn mực xử sự (cho công chức) để

đảm bảo việc thực hiện chức năng cơng được chính xác, chuẩn mực và đúng đắn”.
Thực thi quy định này, hầu hết các cơ quan nhà nước Việt Nam ở trung ương đều đã
ban hành và thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Một số tổ
chức xã hội nghề nghiệp ở trung ương cũng đã xây dựng và thực hiện quy tắc đạo
đức nghề nghiệp của hội viên như: Hội Kế toán, Kiểm toán, Hội nhà báo, Tổng hội


Y dược học...; các tổ chức khác cũng đang khẩn trương xây dựng quy tắc để ban
hành.
3. Tác động của Luật Quốc tế tới q trình hồn thiện các văn bản pháp luật của
Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống khủng bố quốc tế
Khủng bố quốc tế là hành vi của cá nhân hay tổ chức sử dụng các thủ đoạn bạo lực
hoặc phi bạo lực tấn công và gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hai) nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe tài sản của cá nhân, tổ chức, tàn sát dã man dân thường để
nhằm đạt được các mục đích chính trị, kinh tế hay xã hội
Các quy định pháp luật về phòng, chống khủng bố có ở nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau như: BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; BLTTHS
năm 2003; Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 1997... và nhiều văn bản dưới luật khác.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động khủng bố quốc tế là một loại tội phạm xuyên quốc
gia rất nguy hiểm; quá trình đấu tranh chống tội phạm khủng bố quốc tế đòi hỏi các
nước trên thế giới phải đẩy mạnh hợp tác tương trợ tư pháp hình sự trên nhiều mặt,
như cơng tác điều tra, thu thập chứng cứ, cung cấp, trao đổi thông tin, bắt giữ và
dẫn độ, chuyển giao người bị kết án… Để có cơ sở pháp lý đầy đủ cho các hoạt
động này, Việt Nam cần tiếp tục đàm phán, ký kết với các nước Hiệp định tương trợ
tư pháp về hình sự, Hiệp định về dẫn độ và các điều ước quốc tế khác có điều chỉnh
vấn đề hợp tác đấu tranh chống tội phạm khủng bố. Nghị quyết 48/NQ-TW đã định
hướng: "Ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các hiệp
định tương trợ tư pháp". Đối với bốn điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt

Nam chưa phải là thành viên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần đẩy nhanh
tiến độ nghiên cứu, đề xuất Nhà nước gia nhập các điều ước quốc tế này, nhất là
Cơng ước quốc tế về chống bắt cóc con tin. Việc Việt Nam tham gia công ước quốc
tế này trong thời điểm hiện nay là cần thiết.


Tuy đã gia nhập hoặc ký kết nhiều điều ước quốc tế đa phương, song phương về
phòng, chống khủng bố hoặc liên quan đến phòng, chống khủng bố nhưng cho đến
nay ở Việt Nam vẫn chưa tạo lập được cơ chế tổ chức thực hiện các điều ước quốc
tế đó. Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế phòng, chống khủng bố, cần xây dựng
một văn bản quy phạm pháp luật phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn
bản pháp lý quốc tế về phòng, chống khủng bố; đặc biệt là các điều ước của Liên
hợp quốc về phịng, chống khủng bố. Nếu khơng ban hành văn bản hướng dẫn thi
hành các điều ước quốc tế về phịng, chống khủng bố thì các điều ước đó chỉ tồn tại
mang tính hình thức.
Luật phịng, chống khủng bố cần tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ, phải bảo đảm yêu cầu
nội luật hoá các quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế về phòng, chống khủng
bố mà Việt Nam đã là thành viên, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp tục tham gia các
điều ước quốc tế còn lại về chống khủng bố trong thời gian tới; đồng thời, tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng, chống
khủng bố của các quốc gia trên thế giới. Đây là những yêu cầu rất đáng chú ý trong
quá trình xây dựng dự án Luật để đảm bảo sự tương thích của pháp luật Việt Nam
với pháp luật quốc tế về phòng, chống khủng bố. Việc tiếp thu kinh nghiệm quốc tế
về phịng, chống khủng bố cũng phải được tính tốn, cân nhắc có chọn lọc, theo
hướng lựa chọn những kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn chính trị, kinh tế, pháp
luật Việt Nam, tránh rập khn, máy móc...
III. Một số hạn chế ngăn cản sự tác động của Luật quốc tế tới q trình hồn thiện
các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm
Thứ nhất, việc triển khai thực hiện các hiệp định đã được ký kết còn nhiều hạn chế,
chưa phù hợp với pháp luật quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự hoặc chưa đúng

với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Để tăng cường phịng,
chống tội phạm, cơng cụ đầu tiên là BLHS và BLTTHS. Thực tiễn mấy năm qua
cho thấy có nhiều chậm trễ, bất hợp lý trong pháp luật hình sự Việt Nam. Những


kinh nghiệm từ nhiều quốc gia phát triển đang rất cần cho xã hội Việt Nam, đã từng
được đề xuất nhưng chưa được áp dụng.
Thứ hai, về phòng chống tội khủng bố: các dấu hiệu pháp lý của tội khủng bố trong
pháp luật hình sự Việt Nam cịn có những điểm chưa tương thích với các quy định
về khủng bố trong các công ước quốc tế, chưa đáp ứng thực tiễn hoạt động phạm tội
khủng bố trong tình hình hiện nay.
Thứ tư, về phòng chống tội phạm tham nhũng: Việt Nam cịn ít kinh nghiệm, nhiều
quy định của Cơng ước còn tương đối mới đối với Việt Nam. Pháp luật Việt Nam
tuy cơ bản phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, song
bản thân hệ thống pháp luật đó đang trong giai đoạn hồn thiện.
KẾT LUẬN
Ngày nay, xu thế tồn cầu hóa và khu vực đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao
thoa pháp luật. Sự giao thoa này chắc chắn sẽ dẫn đến quá trình tiếp thu và học hỏi
cái mới, văn minh, tiến bộ nhằm hoàn thiện những lỗ hổng và bất cập trong hệ
thống pháp luật quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam mở
rộng quan hệ quốc tế và hợp tác về trật tự an toàn xã hội đã và sẽ giúp Việt Nam
tranh thủ được các kinh nghiệm và thành tựu, các phương tiện kỹ thuật hiện đại của
thế giới để bảo vệ an ninh, trật tự; đồng thời tạo thành một thế trận, một môi trường
an ninh, trật tự ổn định để phát triển kinh tế đất nước. Cùng với đó, cũng tạo được
cơ sở vững chắc để xây dựng hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện.



×