Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Xây dựng mô hình hương ước, quy ước bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng tại Thị Trấn Thứa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 74 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Phòng Đào tạo – Trường đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội
Bộ môn quản lý môi trường
Hội đồng chấm đồ án tốt nghiệp
Tên em là: Vũ Thị Hằng - Sinh viên chuyên nghành quản lý môi trường trường
đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội
Em xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm đồ án một cách khoa học và
chính xác, trung thực.
Các kết quả, số liệu nêu trong luận văn đều có thật, thu được trong quá trình ng
hiên cứu và chưa từng được công bố trong bất kỳ một tài liệu khoa học nào.
Bắc Ninh , ngày 31 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Vũ Thị Hằng

1


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại trường Đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô, gia đình và
bạn bè xung quanh.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý thầy cô ở khoa Môi trường –
trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã cùng với tri thức và tâm huyết
của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho em trong suốt thời gian học tập tại
đây. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá
trình nghiên cứu đồ án tốt nghiệp mà còn là hành trang quý báu giúp ích cho công việc
của em sau này để em thành công hơn trong cuộc sống
Để hoàn thành đồ án tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
TS.Nguyễn Thị Hồng Hạnh người đã tận tâm hướng dẫn em trong suốt quá trình viết
và hoàn thành đồ án tốt nghiệp.


Mặc dù đã cố gắng nhiều để hoàn thành đồ án một cách hoàn chỉnh song do
mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như hạn chế về kiến thức, ít tiếp
cận với thực tế và kinh nghiệm nên vẫn còn những thiếu sót mà bản thân chưa thấy
được. Nên em rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để đồ án được hoàn
chỉnh hơn
Sau cùng, em xin kính chúc quý thầy cô trong khoa Môi trường nói riêng và
toàn thể các thầy cô giáo trong Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội thật dồi dào
sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến
thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng!
Bắc Ninh, ngày 31 tháng 05 năm 2016

Sinh viên
Vũ Thị Hằng

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
CT
TT
CP
NQ

TW
BCH
TTLT
UBND
BVTV
BVMT


: Chỉ thị
: Thông tư
: Chính phủ
: Nghị quyết
: Nghị định
: Trung ương
: Ban chấp hành
: Thông tư liên tịch
: Ủy ban nhân dân
: Bảo vệ thực vật
: Bảo vệ môi trường

3


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thị Trấn Thứa được biết đến là một xã thuần nông của huyện Lương Tài, tỉnh
Bắc Ninh với gần 3.000 hộ dân sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Trong
những năm qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân trong
xã dần dần khởi sắc. Tuy nhiên, cùng với đó nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường phát
sinh ngày càng phức tạp. Tình trạng ô nhiễm môi trường chủ yếu do sản xuất nông
nghiệp, từ các KCN và một lượng không nhỏ chất thải rắn sinh hoạt người dân thải ra
đã khiến cho môi trường sống tại Thị Trấn Thứa đang xuống cấp.
Bảo vệ môi trường sống là trách nhiệm của cộng đồng, của mỗi người dân,
không phải là điều mới mẻ, thế nhưng chưa mấy ai làm được, nhất là đối với cư dân
các vùng nông thôn. Thực trạng này cũng diễn ra tại một số xã trên địa bàn huyện
Lương Tài. Do điều kiện sống, tập quán, và ý thức bảo vệ môi trường còn hạn chế nên
lâu nay, người dân vẫn xả rác, nước thải gây ô nhiễm môi trường những năm qua,
chính quyền địa phương luôn vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh
môi trường sống trong nhân dân, đặc biệt là việc thu gom, đổ rác thải sinh hoạt đúng
nơi qui định, xây bể chứa nước thải sinh hoạt trong từng hộ gia đình để không xả thẳng
nước thải ra môi trường…Tuy nhiên, chuyển biến trong hành động của người dân còn
rất chậm.
Hương ước bảo vệ môi trường (BVMT) được xây dựng trên cơ sở tham gia và
đồng thuận của tất cả các thành viên trong cộng đồng dân cư tại địa phương; nhằm
tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân xoá bỏ các hủ tục, thói quen mất vệ sinh, có
hại cho môi trường. Đồng thời, hương ước BVMT có tác dụng nâng cao trách nhiệm,
tính tự lực của từng người dân đối với nhiệm vụ BVMT tại địa phương, làm cho quê
hương làng xóm ngày càng xanh - sạch - đẹp, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
cho cả cộng đồng. Bên cạnh đó, góp phần thực hiện tốt và đạt 17 tiêu chí về môi
trường trong Bộ chỉ tiêu quốc gia về nông thôn mới.
Việc xây dựng hương ước, quy ước bảo vệ môi trường ở thôn, xã cần có sự
tham gia của cộng đồng trong việc phân tích hiện trạng môi trường tại địa phương, xác
định những hành động và quy định nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường. Đặc điểm
6



quan trọng của mô hình này là tập trung vào sự tham gia của cộng đồng và lồng ghép
các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng trong tất cả các giai đoạn
của dự án Hương ước, quy ước gồm những quy định cụ thể về vệ sinh nơi ở và những
khu vực chung, quản lý rác thải, sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón và chất kích thích
cây trồng, đồng thời quy định về việc bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Vì vậy trong báo cáo đồ án tốt nghiệp em đã chọn đề tài “Xây dựng mô hình
hương ước, quy ước bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng tại Thị
Trấn Thứa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xây dựng được mô hình hương ước, quy ước bảo vệ môi trường với sự tham
gia của cộng đồng nhằm thực hiện công tác xã hội hóa từ cấp trung ương đến địa
phương tại Thị trấn Thứa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
3. Nội dung nghiên cứu
- Hiện trạng môi trường tại thị trấn Thứa, Lương Tài, Bắc Ninh.
- Hiện trạng về công tác quản lý môi trường tại thị trấn Thứa.
- Bản hương ước, quy ước BVMT với sự tham gia của cộng đồng tại thị trấn
Thứa.

7


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại Thị Trấn Thứa
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Thị trấn Thứa Theo NĐ SỐ 42/1998/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 1998 thành
lập thị trấn Thứa, thị trấn huyện lỵ huyện Gia Lương trên cơ sở toàn bộ diện tích và
dân số của xã Phá Lãng cùng huyện. Ngày 11 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành

Nghị định số 68/1999/NĐ-CP tách huyện Gia Lương thành 2 huyện lấy tên là huyện
Gia Bình và huyện Lương Tài. Huyện lỵ Lương Tài đóng tại thị trấn Thứa. Theo số
liệu kiểm kê đất đai năm 2010, Thị trấn Thứa có tổng diện tích tự nhiên là 714,57 ha.
Phía Bắc giáp xã Tân Lãng, xã Quỳnh Phú (huyện Gia Bình)
Phía Nam giáp xã Phú Lương
Phía Đông giáp xã Trung Chính, xã Phú Hoà
Phía Tây giáp xã Bình Định

8


Hình 1.1. Bản đồ hành chính huyện Lương Tài
Thị trấn Thứa gồm 8 thôn: Bùi, Giàng, Đông Hương, Phượng Giáo, Phượng
Trì, Tân Dân, Đạo Sử, Kim Đào.
-

Địa hình, địa mạo
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên nhìn chung địa hình tương đối bằng
phẳng. Có hướng dốc chủ yếu từ Đông Bắc xuống Tây Nam về chênh lệch địa hình
trong khoảng 2,3 - 4,2m so với mực nước biển, do vậy gặp khó khăn trong sản xuất
vào mùa mưa.
- Khí hậu
Thị trấn Thứa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, vùng khí hậu
nóng ẩm mưa nhiều và chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Mùa hè nóng ẩm
mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình 28,5 oc, độ ẩm trung bình
87,5 %, tổng lượng mưa 1750 mm. Mùa đông ít mưa từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau, nhiệt độ trung bình 18,5 oC, tổng lượng mưa 255 mm.
Với điều kiện khí hậu như trên nhìn chung tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên có những giai đoạn khí hậu thay đổi
thất thường, mùa hè nhiệt độ lên cao tới 34 oC - 36 oC. Ngược lại mùa đông có ngày

nhiệt độ hạ thấp xuống dưới 10 oC. Có những năm hết hạn hán kéo dài lại đến bão
lụt xảy ra đã ảnh hưởng xấu đến trồng trọt và chăn nuôi.
Nhìn chung Thị trấn Thứa có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp đa dạng và phong phú. Mùa đông lạnh khô làm cho vụ đông trở thành vụ chính
có thể trồng nhiều loại rau màu ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Hạn chế lớn nhất đối
với sử dụng đất là mưa lớn tập trung, gây ra ngập úng các khu vực trũng và thấp, uy
hiếp hệ thống đê điều thuỷ lợi gây khó khăn cho việc canh tác thâm canh tăng vụ mở
rộng diện tích.

-

Thuỷ văn
Thị trấn có sông chính là sông Thứa, sông Bùi, sông Đồng Khởi ngoài ra còn có
hệ thống kênh mương nội đồng. Đây là nguồn nước tốt để cung cấp cho sản xuất nông
nghiệp. Diện tích được tưới tiêu chủ động là 90% diện tích đất canh tác. Nhưng điều
này cũng gây trở ngại lớn cho việc canh tác vào mùa mưa.
9


 Các nguồn tài nguyên
• Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn Thị trấn là 714,57 ha trong đó đất nông nghiệp là
484,17 ha, đất sản xuất nông nghiệp là 404,14 ha, đất nuôi trồng thuỷ sản là 80,03 ha.
Đất đai Thị trấn Thứa có nguồn gốc là loại đất Phù sa cổ glây của hệ thống sông Thái
Bình không được bồi đắp hàng năm, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến thịt trung
bình. Độ dày tầng canh tác từ 30 - 50cm.
Các yếu tố dinh dưỡng:
+ Mùn: hàm lượng từ trung bình đến giàu nhưng đất thành phần cơ giới nặng
gây khó khăn cho việc hấp thụ của cây trồng.
+ Kali: Hàm lượng Kali trao đổi và dễ tiêu nằm ở mức nghèo và rất nghèo.

+ Lân: Lân tổng số và lân dễ tiêu nằm ở mức nghèo, thiếu lân.
+ Độ chua: Do đất trũng, thành phần cơ giới nặng nên đất bị chua pH<5
Theo kết quả điều tra bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Bắc Ninh năm 2003, đất đai của
thị trấn Thứa được phân ra nhiều loại đất khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở 3 loại
đất chính sau:
* Đất phù sa không được bồi, không có tầng glây của hệ thống sông Thái Bình.
Hình thái phẫu diện phân hóa khá rõ, tầng đất mặt thường có màu nâu tươi, các
tầng dưới có mầu nâu lẫn các vệt vàng nâu. Thành phần cơ giới thường là thịt trung
bình, nhiều nơi có thành phần cơ giới thịt nặng. Phản ứng của đất chua, pH KCL: 4,5 5,5. Hàm lượng mùn khá ~ 2%, đạm tổng số từ trung bình đến khá (0,10 - 0,15%), lân
tổng số trung bình (0,05%), lân dễ tiêu rất nghèo (0,5 - 2 mg/100g đất), Kali tổng số
rất nghèo (<0,1%), Ka li dễ tiêu rất nghèo (<5mg/100g đất). Tổng lượng cation trao
đổi ở tầng mặt khoảng 8 - 11 meq/100g đất.
Nhìn chung, loại đất này có độ phì khá, chủ yếu được sử dụng để trồng 2 vụ lúa
hoặc 2 vụ lúa - 1 cây vụ màu.
Để đảm bảo tăng năng suất lúa và cây vụ đông cần tăng cường bón các loại
phân hữu cơ.
* Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thống sông Thái Bình.
Đất có thành phần cơ giới trung bình, phản ứng dung dịch đất chua pH KCL: 4,0 5,5; tầng canh tác có kali tổng số từ 0,3 - 0,7%; Kali dễ tiêu từ 7 - 12 mg/100g đất, lân
dễ tiêu và lân tổng số nghèo, mùn tổng sổ tầng mặt trung bình 1,5%.
10


Nhìn chung, các chất dinh dưỡng của đất đối với cây trồng đều từ nghèo đến
trung bình. Cây trồng chính là 2 lúa hoặc lúa - màu, để nâng cao hiệu quả của cây
trồng và nâng cao hiệu quả sử dụng đất lên tăng cường bón phân chuồng, lân và vôi.
* Đất phù sa úng nước mùa hè.
Hình thái phẫu diện tầng mặt thường có màu nâu xám, xuống các tầng dưới có
màu xanh hoặc màu xám đen. Phản ứng dung dịch đất chua pH KCL< 4,5; Hàm lượng
mùn giàu (>3,0%), đạm tổng số giàu (0,17%); lân tổng số nghèo, lân dễ tiêu nghèo;
kali tổng số nghèo (< 0,5%); Kali dễ tiêu trung bình (10 - 15 mg/100g đất/); lượng các

cation kiềm trao đổi thấp, tổng lượng canxi và magiee khoảng 9 meq/ 100g đất ở tầng
mặt.
Đất thích hợp với việc trồng 2 vụ lúa/năm. Để đảm bảo vừa nâng cao năng suất
cây trồng, đồng thời nâng cao độ phì cho đất cần tăng cường bón vôi để cải tạo độ
chua của đất.
• Tài nguyên nước
- Nguồn nước mặt: Thị trấn Thứa sử dụng nguồn nước mặt từ sông Lai, thông
qua hệ thống kênh mương để phục vụ sản xuất và sinh hoạt, lượng nước khá dồi dào.
Qua thực tế sử dụng cho thấy chất lượng nước mặt ở đây khá tốt, ít bị ô nhiễm.
- Nguồn nước ngầm: Thị trấn Thứa nằm trong vùng trầm tích Châu thổ sông
Hồng nên về mặt địa chất thủy văn mang rõ nét tính chất của vùng Châu thổ sông
Hồng. Nguồn nước ngầm hiện là nguồn chủ yếu được khai thác phục vụ cho sinh hoạt
và sản xuất. Hiện chưa có những nghiên cứu chi tiết về trữ lượng nước ngầm trong
vùng, nhưng qua thăm dò một số giếng nước trong khu dân cư cho thấy mực nước
ngầm nằm khá sâu (8 - 10m), chất lượng nước tốt phục vụ cho nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt của nhân dân.
• Tài nguyên nhân văn
Nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc nói chung và huyện Lương Tài nói riêng,
đây là miền quê có lịch sử lâu đời người dân Thị trấn Thứa vẫn giữ gìn phát huy giá trị
văn hóa vốn có của mình. Hệ thống đình chùa thường ngày vẫn hoạt động và nhất là
những dịp lễ hội của Làng được tổ chức hàng năm nhằm nâng cao và phát huy hơn
nữa nét đẹp sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Các dòng họ trong Làng thường xuyên

11


động viên, khuyến khích con em mình học tập tốt để phát huy truyền thống hiếu học
và khoa bảng của các bậc cha ông.
 Thực trạng môi trường
Nói chung môi trường của thị trấn Thứa đang còn khá tốt do mật độ dân số còn

chưa cao, chưa chịu ảnh hưởng nhiều bởi các ngành công nghiệp. Tuy nhiên cùng với
sự phát triển của xã hội môi trường và không khí ở thị trấn Thứa trong những năm gần
đây đã có những biểu hiện ô nhiễm bởi khói bụi và mất vệ sinh do việc chăn nuôi gia
súc, gia cầm trong khu dân cư. Ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân đã có nhiều
tiến bộ nhưng một số khu vực dân cư tình trạng đổ rác thải, chất thải diễn ra tự phát
gây khó khăn trong công tác thu gom xử lý.
1.1.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
1.1.2.1. Khu vực kinh tế nông nghiệp
Lĩnh vực kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của
thị trấn, với cơ cấu là nông nghiệp - thủy sản là ngành sản xuất chủ yếu. Trước đây
nền nông nghiệp chủ yếu của thị trấn là sản xuất lúa. Đến nay sản phẩm nông nghiệp
của thị trấn đa dạng hơn, với các loại rau, màu, thuỷ sản,... trong đó một số đã trở
thành nông sản hàng hoá có giá trị xuất khẩu.
a). Ngành trồng trọt
Trồng cây lương thực và cây chủ lực, trong đó chủ yếu là lúa. Diện tích gieo
trồng qua các năm đều đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch huyện giao, hệ số sử dụng đất 2,4
lần. Năng suất lúa bình quân cả năm tăng khá: Từ 55,5 tạ/ha năm 2005 lên 62,5 tạ/1ha
năm 2015. Trong đó vụ chiêm xuân năng suất tăng cao từ 60 tạ lên 67,2 tạ/ha. Vụ mùa
năng suất tăng từ 52 tạ/ha lên 57,5 tạ/ha. Sản lượng lương thực có hạt tăng từ 4.835 tấn
năm 2005 lên 4.731 tấn năm 2015, là thời kỳ sản lượng lúa tương đối ổn định. Năng
suất các loại cây trồng đã được tăng lên do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nông
nghiệp. Bình quân lương thực đạt trên 530 kg/người (năm 2015), đảm bảo đủ lương
thực cho người, chăn nuôi có dự trữ.

12


Bảng 1. . Năng suất sản lượng lúa của thị trấn qua các năm
Cây trồng
1. Lúa cả năm

+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sảnlượng
2. Lúa xuân
+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sảnlượng
3. Lúa mùa
+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sảnlượng

ĐVT

Năm 2005 Năm 2008 Năm 2010 Năm 2012 Năm 2015

Ha
Tấn/Ha
Tấn

790
55,5
4.385

763
56,5
4.312

744
57,0

4.407

784
60,7
4.761

757
62,5
4.731

Ha
Tấn/Ha
Tấn

385
58,8
2.265

383
60,2
2.310

394
58,7
2.311

394
67,3
2.650


388
67,2
2.608

Ha
Tấn/Ha
Tấn

405
52,3
2.120

380
52,7
2.002

380
55,2
2.096

390
54,1
2.111

369
57,5
2.123

b). Ngành chăn nuôi
Trong những năm qua, ngành chăn nuôi đang có xu hướng giảm, do dịch bệnh

cũng như do chăn nuôi nhỏ lẻ không mang lại lợi ích kinh tế cao nên người dân bỏ dần
chăn nuôi nhỏ và tập trung đầu tư trang trại ở xa khu dân cư.
Bảng 1. . Tình hình phát triển chăn nuôi của thị trấn qua các năm
Vật nuôi

ĐVT

1. Lợn
2. Đàn Trâu
3. Đàn Bò
4. Thuỷ sản (cá)

Con
Con
Con
Ha

Năm

Năm

2005

2008

185
294
60

13

251
64

Năm 2010

Năm 2012

10
252
61

11
170
61

Năm
2015
8
133
65

(Nguồn số liệu: Niên giám thống kê huyện Lương Tài)
c). Thủy sản
Thủy sản được đầu tư phát triển, đã có nhiều mô hình VAC kết hợp theo hướng
trang trại, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích nuôi trồng được mở rộng, riêng
diện tích nuôi thả cá đã tăng từ 60 ha năm 2005 lên 65 ha năm 2015.
1.1.2.2 Khu vực kinh tế công nghiệp
Công nghiệp và xây dựng của thị trấn có bước phát triển nhưng còn chậm, quy
mô sản xuất nhỏ. Năm 2015 trên địa bàn thị trấn có 9 doanh nghiệp lớn, thu hút gần
500 lao động, hang chục cơ sở sản xuất nhỏ.

Số cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh, năng lực trình
độ công nghệ của các cơ sở sản xuất cũng đã được nâng lên, một số sản phẩm đã có
13


sức cạnh tranh và tăng trưởng khá như: Thức ăn gia súc, may mặc, cơ khí – xây dựng,
… Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp đã góp phần tích cực trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thêm của cải vật chất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động và tăng thu ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, các giá trị của ngành công nghiệp và xây dựng vẫn còn rất nhỏ bé và
không ổn định, cơ cấu thành phần kinh tế trong công nghiệp chưa ổn định, có biến
động lớn.
1.1.2.3. Khu vực kinh tế dịch vụ
Các ngành kinh tế dịch vụ của thị trấn phát triển nhanh trong những năm gần
đây, tận dụng được lợi thế của khu kinh tế đô thị. Thị trường buôn bán được mở rộng,
hàng hoá ngày càng phong phú, hình thành chợ đầu mối tại trung tâm thị trấn Thứa,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng dịch vụ thương mại thông thương hàng hoá,
tiêu thụ sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Một số hộ làm dịch vụ
cung ứng vật tư nông nghiệp và thu gom sản phẩm khi đến vụ, các dịch vụ này thực
hiện không những trên địa bàn thị trấn mà còn cả ở các xã khác trong huyện.
Bảng 1. . Thống kê các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thị trấn
Tên doanh nghiệp
C.ty CP Tư Vấn Và Đầu Tư Xây
Dựng Thăng Long
C.ty Xây Dựng Tân Châu
C.ty Phát Triệu

Ngành nghề SXKD
chính
Xây Dựng Công Trình

Xây Dựng Công Trình
Dân Dụng
Xây Dựng Công Trình

Lao động bình quân
(người)
Tổng số Tr.đó: Nữ
42

9

48

16

Dân Dụng
SX Thức Ăn Chăn Nuôi
Bán Lẻ Hoá Mỹ Phẩm
Bán Buôn Vật Liệu Xây

29

11

183
16

36
7


6

1

C.ty Xây Dựng Việt Thành
C.ty CP Thương Mại XNK

Dựng
Bán Vật Liệu Xây Dựng
Kinh Doanh Thương

22

8

Lương Tài
C.ty Công Nghệ Thanh Thanh

Mại Tạp Hoá
Kinh Doanh Vật Liệu

78

43

Tùng

Xây Dựng

9


1

C.ty Minh Tâm
C.ty Hùng Cường
C.ty Huyền Nhung

14


1.1.3. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Theo số liệu niên giám thống kê, năm 2015, thị trấn Thứa có 8.955 người, mật
độ bình quân dân số là 1.253 người/km. Trong giai đoạn 2005-2010, thị trấn có tốc độ
phát triển dân số thấp, năm 2010 - 2011 là 0,81%, cao nhất là năm 2013 là 1,23%, năm
2012 là 1,05% đến năm 2015 là 1,12%. Cấu trúc dân số thuộc loại trẻ, nên tiềm năng
lao động và khả năng sinh đẻ còn rất lớn.
Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Người

2005
8.511


2010
8.723

2011
8.765

2012
8.808

2013 2014 2015
8.851 8.916 8.955

%

1,14

0,81

0,99

0,89

Hộ
Người/Km

2.163

2.567


2.608

2.644

2.689 2.752 2.798

1.230

1.221

1.233

1.239

1.248 1.221 1.253

4.441

4.439

4.497

4.526

4.601 5.059 5.123

Chỉ tiêu

ĐVT


1. Tổng nhân khẩu
2. Tỷ lệ tăng tự
nhiên
3. Tổng số hộ
4. Mật độ dân số

2

5. Tổng số lao
động

Người

1,23

Năm

1,05

Năm

1,12

(Nguồn số liệu: Niên giám thống kê huyện Lương Tài)

15


1.1.4. Thực trạng phát triển đô thị
Thị trấn Thứa là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của huyện Lương Tài

với tổng diện tích là 714,57 ha, dân số 8.955 người. Trong những năm gần đây cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng, các công trình văn hóa, y tế,
giáo dục, phúc lợi được đầu tư. Chất lượng sống ở thị trấn ngày càng được nâng cao.
Đồng thời các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn ngày
càng phát triển góp phần quan trọng và việc thúc đẩy kinh tế thương mại – dịch vụ của
huyện.
Tuy nhiên thị trấn vẫn chưa đạt chỉ tiêu đô thị loại IV. Quy mô đô thị còn nhỏ,
dân số chưa đông, khu vực trung tâm của thị trấn chủ yếu hình thành dọc theo các
tuyến tỉnh lộ. Dân cư không tập trung, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, chưa theo quy
hoạch và không có thiết kế kiến trúc đồng bộ.
Ngoài ra các vấn đề xử lý rác thải đô thị, cấp thoát nước sinh hoạt cũng khá
bức xúc cần được đầu tư xây dựng.
Bên cạnh đó, dân cư đô thị của thị trấn ngoài khu vực dân cư mới, phần lớn dân
cư vẫn chủ yếu sống dựa vào sản xuất nông nghiệp với tập quán sinh hoạt mang nét
đặc trưng của dân cư nông thôn. Trong tương lai việc phát triển các khu đô thị, thương
mại dịch vụ, công trình công cộng vẫn tập trung chính ở khu vực này. Việc bố trí đất
đai ở đô thị cần phải được xem xét thật hợp lý nhằm tạo điều kiện phát triển cho đô thị
mà vẫn đảm bảo tiết kiệm đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái cảnh quan thiên nhiên.
1.1.5. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
1.1.5.1. Giao thông
* Giao thông đối ngoại: trên địa bàn có hai tuyến giao thông đối ngoại chính:
- Đường TL 280 đi Cẩm Giàng (7.5 km) là đường giao thông chính của Thị trấn
có chiều dài 1.5 km.
- Đường TL 281 đi Kênh Vàng đoạn qua Thị trấn dài 3 km.
- Đường tỉnh lộ 284 đoạn qua Thị trấn dài 0.5 km
* Giao thông đối nội:
- Các con đường liên xã liên thôn, đường ngõ xóm. Phần lớn đã được dải bê
tông và cấp khối.

16



- Ngoài ra còn có các tuyến giao thông nội đồng, cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại
phục vụ sản xuất.
Nhìn chung, hệ thống giao thông của thị trấn Thứa còn chưa hoàn chỉnh. Thiếu
các tuyến giao thông theo hướng Bắc Nam để có thể phát triển không gian theo chiều
sâu.
1.1.5.2. Thủy lợi
Thị trấn Thứa đang sử dụng hệ thống thoát nước chung tuy nhiên hệ thống thoát
nước còn chưa đồng bộ. Tuyến cống thoát nước chính bằng BTCT nằm trên tuyến
đường trung tâm thu nước mặt rồi thoát về khu vực sông Thứa. Ngoài ra trong các
xóm, làng nước mặt tự chảy vào hệ thống mương tưới tiêu thủy lợi.
Hàng năm chuẩn bị tốt vật tư, phương tiện và các phương án phòng chống lụt
bão, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ được giao.
1.1.5.3. Giáo dục và Đào tạo
Sự nghiệp giáo dục đào tạo tiếp tục được giữ vững và có bước phát triển, chất
lượng và hiệu quả giáo dục nhìn chung ổn định và có bước phát triển theo tinh thần đổi
mới giáo dục, các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Các trường học của Thị trấn Thứa:
Trường mầm non có 3 cụm ( Tân Dân, Kim Đào, Bùi)
Trường tiểu học Thị trấn Thứa
Trường trung học cơ sở Thị trấn Thứa
Cả ba trường này đều đạt danh hiệu trường xuất sắc tiên tiến cấp tỉnh
Ngoài ra trên địa bàn của Thị trấn còn có các trường học của huyện đóng trên
địa bàn:
Trường mầm non Hoa Sen
Trường Trung học cơ sở Hàn Thuyên.
Trường Phổ thông trung học số 1 Lương Tài
Trường Phổ thông Dân Lập Lương Tài
Trung tâm giáo dục thường xuyên Lương Tài

Có thể nói cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giáo dục trên địa bàn Thị trấn đã
và đang được xây dựng khang trang để đáp ứng tốt cho sự nghiệp trồng người.

17


1.1.5.4. Y tế
Trên địa bàn đô thị có 1 bệnh viện đa khoa với diện tích là 1,2 ha vừa xây dựng
với cơ sở vật chất khang trang, hiện đại và 1 trung tâm y tế dự phòng và 1 trạm y tế
khu vực.
UBND Thị trấn thực hiện triệt để biện pháp bảo đảm giữ gìn vệ sinh phòng
chống dịch bệnh, thực hiện tốt và có hiệu quả các chương trình y tế cơ sở.
1.1.5.5. Văn hóa – thể thao
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác văn hoá còn hạn chế nhưng vẫn
đảm bảo phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương và đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Văn nghệ quần chúng ngày càng đa dạng và
phong phú. Đặc biệt hoạt động văn nghệ quần chúng cấp huyện được duy trì và phát
triển. Thiết chế văn hoá cơ sở được tăng cường.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và có bước phát triển mới
cả về chất và lượng. Số lượng người thường xuyên tập TDTT ngày càng tăng, đặc biệt
là hoạt động thể thao quần chúng (môn cầu lông) phát triển mạnh mẽ. Các cuộc thi đấu
gắn liền với các lễ hội truyền thống (môn vật truyền thống) tạo nên không khí sôi nổi
thi đua tập luyện, giao lưu đoàn kết.
Tuy nhiên cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ sự nghiệp văn hoá thể thao còn hạn
chế, đặc biệt là sân chơi thể thao ở các thôn cơ bản là chưa có hoặc có thì cũng xuống
cấp. Tương lai cần chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật mở rộng quỹ đất đai đáp
ứng nhu cầu cho các hoạt động vui chơi giải trí của nhân dân ngày một cao.
1.1.5.6. Năng lượng
Nguồn năng lượng sử dụng hiện nay của thị trấn chủ yếu là điện năng. Hiện nay
100% số hộ trên địa bàn thị trấn có điện lưới quốc gia. Tuy nhiên chất lượng điện vẫn

còn thấp, cùng với sự gia tăng nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và sinh hoạt trong
giai đoạn tới thì mạng lưới điện trên địa bàn huyện cần được đầu tư xây dựng mới
cũng như nâng cấp, cải tạo các tuyến cũ.
1.1.5.7. Bưu chính, viễn thông
Do trung tâm huyện đóng trên địa bàn của Thị trấn nên công tác Bưu chính viễn
thông của Thị trấn tương đối phát triển. Ngoài bưu điện của huyện ra ở các thôn của
Thị trấn đều có các điểm bưu điện ở các thôn. Các máy điện thoại trong trong các hộ
18


gia đình trong Thị trấn ngày càng tăng. Thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt 24/24
giờ, riêng tại bưu điện huyện liên lạc quốc tế thuận tiện, nhanh chóng và thông suốt
liên tục, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh đạo, quản lý, sản xuất và đáp ứng tốt
nhu cầu về thông tin liên lạc của nhân dân. Đến cuối năm 2010 đã có hơn 2.094 máy
điện thoại cố định, nâng tổng số máy bình quân 25 máy/ 100 dân.
Internet có bước phát triển mới trong cộng đồng, thị trấn có thuê bao internet,
đã lắp đặt cổng thuê bao đến các cơ quan, trường học.
Bưu chính, ngoài chuyển phát thư tín đã có nhiều hình thức dịch vụ tăng thêm
như: chuyển phát nhanh EMS, điện hoa, gửi tiết kiệm, chuyển tiền,… hoạt động có
hiệu quả và đa dạng.
1.2 Tổng quan các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu
1.2.1 Cơ sở pháp lý xây dựng hương ước, quy ước BVMT với sự tham gia của
cộng đồng
1) Nghị quyết 41/ NQ-TW Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41- NQ/TW ngày 15
tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước
- Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ môi
trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường,
Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác bảo vệ môi

trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống
chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có
hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các
cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và
sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ
đa dạng sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Những kết quả đó đã tạo tiền đề tốt
cho công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
- Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc
đã đến mức báo động: đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy
giảm mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; khối lượng phát
sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng; tài nguyên thiên nhiên trong
19


nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh học bị đe
doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi
không bảo đảm. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, quá trình đô thị hoá,
sự gia tăng dân số trong khi mật độ dân số đã quá cao, tình trạng đói nghèo chưa được
khắc phục tại một số vùng nông thôn, miền núi, các thảm hoạ do thiên tai và những
diễn biến xấu về khí hậu toàn cầu đang tăng, gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi
trường, đặt công tác bảo vệ môi trường trước những thách thức gay gắt.
Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là do chưa có nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, chưa biến nhận thức, trách
nhiệm thành hành động cụ thể của từng cấp, từng ngành và từng người cho việc bảo vệ
môi trường; chưa bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,
thường chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế mà ít quan tâm việc bảo vệ môi trường;
nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường của nhà nước, của các doanh nghiệp và cộng
đồng dân cư rất hạn chế; công tác quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều yếu kém,
phân công, phân cấp trách nhiệm chưa rõ ràng; việc thi hành pháp luật chưa nghiêm.

2) Chỉ thị số 29/ CT-TW Chỉ thị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết 41/
NQ-TW của Bộ chính trị
- Tổ chức kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ
Chính trị; xác định rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân, nhất là nguyên
nhân chủ quan, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; đề ra các giải pháp cụ thể để thực
hiện tốt các nhiệm vụ trong Nghị quyết 41 và Chỉ thị này; đưa nội dung kiểm điểm
công tác bảo vệ môi trường vào báo cáo tổng kết, đánh giá định kỳ của cơ quan, đơn
vị.
- Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ
môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về
bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân
hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí
hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất
20


nước; những bài học và kinh nghiệm về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu của các nước trong khu vực và trên thế giới; công bố công khai những tổ chức,
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và hình thức xử lý. Đưa nội dung
giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân.
Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân.
Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động của từng doanh nghiệp, cơ
quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá nhân, đảng viên, đoàn viên, hội
viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô hình, điển hành tiên tiến về bảo vệ
môi trường.Duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm.
- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
- Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách

khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường.Xây dựng và
phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của
cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi
trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ thu gom, vận
chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia
của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám
định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ
mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước.
3) Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN
ngày 31/3/2000 của Bộ Tư Pháp, Bộ Văn hoá Thông tin và Ban Thường trực Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp hướng dẫn việc xây dựng và thực
hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư
1.2.2 Nội dung và hình thức thể hiện của hương ước
Để khắc phục những hạn chế và tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện
hương ước ở cơ sở,theo Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTTBTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 của Bộ Tư Pháp, Bộ Văn hoá Thông tin và Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp hướng dẫn việc
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cưnhư
sau:
21


1.2.2.1 Nội dung của hương ước
Hương ước là văn bản quy phạm xã hội trong đó quy định các quy tắc xử sự
chung do cộng đồng dân cư cùng thoả thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội
mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán
tốt đẹp và truyền thống văn hoá trên địa bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần
hỗ trợ tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân
trí, phát huy phong tục, tập quán tốt đẹp, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống của
cộng đồng dân cư, nội dung của hương ước tập trung vào một số vấn đề cụ thể sau

đây:
- Đề ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp dân cư trên địa bàn tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo đảm và phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân
dân; động viên và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ công
dân;
- Bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn
minh trong ứng xử, giao tiếp,ăn, ở, đi lại, xoá bỏ hủ tục, phát triển các hoạt động văn
hoá lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân,
tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt các chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước;
- Đề ra biện pháp góp phần bảo vệ tài sản nhà nước tài sản công cộng và tài sản
công dân, bảo vệ môi trường sống,bảovệ rừng, biển,sông, hồ, danh lam thắngcảnh, đền
chùa,miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh mương, kè cống, đường dây
tải điện; xây dựng và phát triển đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh;
- Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong mỹtục, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã
hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi, việc tang; lễ hội, thờ phụng ở địa phương;
khuyến khích những lễ nghi lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng phí, tốn kém;
- Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, xây dựng làng, bản,
thôn, ấp, cụm dân cư văn hoá, hình thành các quy tắc đạo đức mới trong gia đình và
cộng đồng; khuyến khích mọi người đùm bọc, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn
nạn, ốm đau; vận động thực hiện các chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, xây
dựng các gia đình theo tiêu chuẩn gia đình văn hoá;
22


- Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận động các
thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xoá đói giảm nghèo, phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống, khuyến học, khuyến nghề ở địa phương; vận động
các thành viên trong cộng đồng tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã nhằm phát triển sản
xuất. Khuyến khích phát triển các làng nghề; đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các

công trình phúc lợi công cộng: điện, đường, trường học, trạm xá, nghĩa trang, các công
trình văn hoá thể thao trên địa bàn. Lập, thu chi các loại quỹ trong khuôn khổ pháp
luật và phù hợp khả năng đóng góp của nhân dân;
- Đề ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn, góp phần phòng
chống tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp, mại dâm và các
hành vị khác vi phạm pháp luật nhằm xây dựng địa bàn trong sạch. Phát động trong
nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về tạm trú,
tạm vắng; tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ những người lầm lỗi tại cộng đồng dân
cư. Đề ra các biện pháp cần thiết hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý vi
phạm pháp luật trên địa bàn; bảo đảm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật
về tổ chức tự quản ở cơ sở như tổ chức, hoạt động của Tổ hoà giải, Ban an ninh, Tổ
bảo vệ sản xuất, Ban kiến thiết và các tổ chức tự quản khác;
- Đề ra các biện pháp thưởng, phạt phù hợp để bảo đảm thực hiện hương ước:
Hương ước quy định các hình thức và biện pháp khen thưởng đối với cá nhân,
hộ gia đình có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện hương ước như: lập sổ vàng
truyền thống nêu người tốt, việc tốt, ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân;
bình xét, công nhận gia đình văn hoá, và các hình thức khen thưởng khác do cộng
đồng tự thoả thuận hoặc đề nghị các cấp chính quyền khen thưởng theo quy định
chung của Nhà nước.
Đối với những người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước thì chủ
yếu áp dụng các hình thức giáo dục, phê bình của gia đình, tập thể cộng đồng, thông
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng ở cơ sở. Trường hợp vi phạm nghiêm
trọng các quy định của hương ước thì trên cơ sở thảo luận thống nhất tập thể cộng
đồng, có thể buộc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng hoặc áp
dụng các biện pháp phạt nhưng không được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề xâm

23


phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp

pháp khác của công dân. Trong hương ước không đặt ra các khoản phí, lệ phí.
Hương ước có thể đề ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục những người có
hành vi vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn; giáo
dục, cảm hoá, giúp đỡ người phạm tội sau khi ra tù trở thành những người lương thiện,
có ích cho xã hội.
Những hành vi vi phạm pháp luật phải do các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo
quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hương ước không
thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.2.2 Hình thức thể hiện của hương ước
- Về tên gọi: có thể dùng tên gọi chung là Hương ước hoặc Quy ước (làng, bản,
thôn, ấp, cụm dân cư).
- Về cơ cấu và nội dung: Hương ước có thể có lời nói đầu ghi nhận truyền
thống văn hoá của từng làng bản, thôn, ấp, cụm dân cư và mục đích của việc xây dựng
hương ước.
Nội dung của hương ước được chia thành các chương, mục, điều, khoản, điểm.
Các quy định cụ thể của hương ước cần xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các thành
viên trong cộng đồng. Các biện pháp thưởng, phạt có thể quy định ngay tại các điều,
khoản cụ thể.
Các quy định của hương ước cần ngắn gọn, cụ thể, thiết thực, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ thực hiện.
Tuỳ theo đặc điểm và yêu cầu tự quản của từng địa bàn mà hương ước có thể
quy định bao quát toàn bộ hoặc một số điểm thuộc các nội dung được hướng dẫn tại
điểm 1 Phần a nói trên.
1.2.3 Quy trình xây dựng và triển khai hương ước, quy ước BVMT
Cũng giống như các hương ước khác, hương ước bảo vệ môi trường (gọi tắt là
hương ước môi trường) do chính người dân là “tác giả”, đồng thời là người thực hiện
và giám sát nhau thực hiện. Trước hết, họ phát hiện và xác định các vấn đề môi trường
tại địa phương mình (có sự đóng góp của các cán bộ chuyên môn), đưa ra phương
hướng giải quyết và văn bản hóa các yêu cầu đối với mỗi người dân của cộng đồng
trong công tác vệ sinh và bảo vệ môi trường.

24


Những người soạn thảo hương ước tại địa phương là người hiểu hơn ai hết vấn
đề của chính quê hương mình, điều kiện xã hội cụ thể của làng xã cũng như khả năng
thực hiện, một bản hương ước được xây dựng nên có tính hiện thực rất cao, rất sát với
địa phương, phù hợp với các đặc thù về cơ sở vật chất, nếp sống văn hoá, phong tục
tập quán của địa phương mình.
Trước khi trở thành một văn bản chính thức, bản dự thảo sẽ được gửi đến từng
gia đình góp ý rồi cũng nhau tổng hợp lại, bàn bạc, chỉnh sửa và thông qua. Bản hương
ước đã được đồng thuận có sự cam kết bằng chữ ký của các thành viên của cộng đồng
(đơn vị thường là gia đình) và các tổ chức xã hội (chi bộ, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,
hội phụ lão, hội cựu chiến binh, các trường học ở địa phương) có giá trị như các “lệ
làng” thời hiện đại.
Để có sự ràng buộc về mặt pháp lý, các bản hương ước có sự xác nhận của
Chính quyền địa phương (UBND xã, huyện…). Hương ước chỉ bổ sung hoặc thay đổi
trong trường hợp pháp luật Việt Nam có thay đổi, bổ sung hoặc chính địa phương cần
có những thay đổi bổ sung cho phù hợp với cách sống, phong tục của mình.
1.2.3.1. Thủ tục soạn thảo, thông qua, phê duyệt, tổ chức thực hiện và sửa đổi, bổ
sung hương ước
a. Hương ước phải được xây dựng một cách thực sự dân chủ, công khai, phù
hợp với các quy định của pháp luật, được chia theo các bước cơ bản như sau:
Bước 1. Thành lập Nhóm soạn thảo và tổ chức soạn thảo hương ước
Trưởng thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư (sau đây gọi chung là Trưởng thôn) chủ
trì cùng Bí thư chi bộ, Trưởng Ban công tác Mặt trận thống nhất các nội dung cơ bản
cần soạn thảo, đồng thời chỉ định các thành viên Nhóm soạn thảo. Thành viên Nhóm
soạn thảo là những người có uy tín và kinh nghiệm sống, có trình độ văn hoá, hiểu biết
về pháp luật và phong tục tập quán ở địa phương, có phẩm chất đạo đức tốt. Nhóm
soạn thảo cần có sự tham gia của đại diện một số cơ quan, tổ chức và đại diện của các
thành phần trong cộng đồng dân cư như: cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, các chức sắc

tôn giáo, già làng, trưởng bản, trưởng tộc và những người khác có uy tín, trình độ
trong cộng đồng.
Trưởng thôn chủ trì, phối hợp với Ban công tác Mặt trận, dưới sự lãnh đạo của
chi bộ Đảng ở cơ sở chỉ đạo Nhóm soạn thảo xây dựng hương ước.
25


×