Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Trình bày ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.18 KB, 10 trang )

Trình bày ủy thác tư pháp quốc tế theo qui định của các điều ước
quốc tế song phương Viêêt Nam kí kết với các nước
Đề bài: Trình bày ủy thác tư pháp quốc tế theo qui định của các
điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước? Thực
tiễn thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế giữa Việt Nam với các nước
kí kết điều ước quốc tế về vấn đề này.

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ỦY THÁC TƯ PHÁP QUỐC TÊ
1.1 Khái niệm UTTPQT
Ủy thác tư pháp quốc tế là hình thức tương trợ tư pháp của các
quốc gia có chủ quyền. UTTPQT do quốc gia được uỷ thác thực
hiện bao gồm các hoạt động tiến hành hành vi tố tụng riêng biệt
đã được pháp luật của nước đó quy định: tống đạt giấy tờ; khám
xét, thu giữ và chuyển giao các vật chứng; tiến hành giám định lấy
lời khai của các bị cáo, người làm chứng, người giám định, các bên
đương sự và những người khác; xem xét vật chứng tại phiên toà,
thi hành các quyết định, dẫn độ người phạm tội, điều tra hình sự,
chuyển giao tài liệu và cung cấp các tin khác.
UTTPQT được tiến hành thông qua văn bản uỷ thác. Văn bản uỷ
thác thường nêu các điểm: 1) Tên cơ quan uỷ thác. 2) Tên cơ quan
được uỷ thác. 3) Tên công việc uỷ thác. 4) Họ tên, quốc tịch, nghề
nghiệp, nơi cư trú hay tạm trú của các bên đương sự, bị can, bị cáo
và những người khác có liên quan đến việc uỷ thác tư pháp.
UTTPQT được quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp và


pháp lí về các vấn đề dân sự, hình sự giữa Việt Nam với một số
nước trên thế giới.
1.2 Những qui định của pháp luật Việt Nam về UTTPQT
Pháp luật Việt Nam qui định về UTTPQT trong hai văn bản qui
phạm pháp luật chính đó là trong Bộ Luật tố tụng dân sự tại Phần


9 - Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và
tương trợ tư pháp trong trong tố tụng dân sự (Điều 405 đến 418)
cụ thể UTTPQT về dân sự được qui định tại Chương 36 - Tương trợ
tư pháp trong trong tố tụng dân sự (Điều 414 đến 418) và qui định
trong Luật tương trợ tư pháp 2008.
Trong hai văn bản qui phạm pháp luật này đều có qui định những
nội dung chính của UTTPQT đó là:
- Nguyên tắc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự
- Thực hiện ủy thác tư pháp
- Thủ tục thực hiện việc ủy thác tư pháp
- Văn bản ủy thác tư pháp
- Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
lập, cấp hoặc xác nhận
2. ỦY THÁC TƯ PHÁP QUỐC TÊ THEO QUI ĐỊNH CHUNG CỦA CÁC
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TÊ SONG PHƯƠNG VIỆT NAM KÍ KÊT VỚI CÁC
NƯỚC


2.1 Các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam kí kết với các
nước về UTTPQT
a. Hiệp định TTTP trong lĩnh vực dân sự, thương mại
*) Các Hiệp định đã ký
Hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực
dân sự với các nước được thực hiện trên cơ sở các Hiệp định Tương
trợ tư pháp (và pháp lý) được ký kết giữa Nhà nước ta với nước
ngoài. Tính đến thời điểm hiện nay, trên đầy đủ các lĩnh vực dân
sự, thương mại, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, Việt
Nam đã ký 26 Hiệp định TTTP với các nước (trong đó có 15 Hiệp
định điều chỉnh TTTP về dân sự, thương mại); đã và đang chuẩn bị
đàm phán 18 Hiệp định TTTP trên các lĩnh vực, đã và đang chuẩn

bị rà soát, sửa đổi, hiện đại hóa 04 Hiệp định đã ký với các nước
XHCN trước đây. Cụ thể về 26 Hiệp định TTTP đã ký như sau:
- 12 Hiệp định TTTP với phạm vi rộng, điều chỉnh TTTP trên đầy đủ
các lĩnh vực dân sự, hình sự và dẫn độ: đó là các Hiệp định với Liên
Xô cũ (10/12/1981), Tiệp khắc (12/10/1982), Cu Ba (30/11/1984),
Hung-ga-ri

(18/01/1985),

Bun-ga-ri

(03/10/1986),

Ba

Lan

(22/3/1993), CHDCND Lào (06/7/1998), Nga (25/8/1998), Ucraina
(16/4/2000), Mông Cổ (17/4/2000), Bê-la-rút (14/9/2000), CHDCND
Triều Tiên (04/5/200)[1];
- 03 Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực dân sự và
thương mại: với CH Pháp (24/02/1999), Trung Quốc (19/10/1998)
và Angeri (14 /4/2010);


- 02 Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực hình sự: với
Angeri (14/4/2010)[2] và Hàn quốc (9/2003).[3]
- 01 Hiệp định ASEAN về TTTP trong lĩnh vực hình sự.
- 02 Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực dẫn độ: với
Hàn Quốc (9/2003) và Angeri (14/4/2010).[4]

- 05 Hiệp định quy định riêng về TTTP trên lĩnh vực chuyển giao
người đang chấp hành hình phạt tù với các nước: Vương quốc Anh
và Bắc Ailen (12/9/2008)[5], với Australia (12/9/2008), Hàn quốc
(29/5/2009), Thái Lan (19/7/2010)[6], Ấn Độ (đã đàm phán xong và
hoàn thành thủ tục ký tắt ngày 19/6/2009).
- 01 Hiệp định về TTTP trong lĩnh vực hình sự giữa các nước ASEAN
(Việt Nam phê chuẩn năm 2008)
Ngoài ra, trong lĩnh vực hợp tác về hình sự, trong đó có hợp tác
phòng chống tội phạm quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia, hợp tác phòng chống ma túy, Việt Nam đã ký kết, tham gia rất
nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương. Có thể kể đến
việc ngay từ năm 1997, Việt Nam đã tham gia ký 03 Công ước
quốc tế về kiểm soát ma tuý của Liên Hợp Quốc (Công ước 1961,
1971 và 1988); đã ký nhiều Hiệp định, Thoả thuận hợp tác quốc tế
về phòng chống ma tuý và Hiệp định có liên quan đến phòng
chống ma tuý với các nước trong khu vực và trên thế giới; 01 Công
ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia (Việt Nam tham gia ký ngày 13/12/2000).


*). Các Hiệp định đang được đàm phán/ chuẩn bị đàm phán:
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang chuẩn bị các điều kiện, thủ tục cần
thiết để triển khai việc đàm phán và ký kết mới 06 Hiệp định TTTP
về dân sự, thương mại với các nước Anh, Hàn Quốc, Campuchia,
Kazakhtan, Ấn Độ.
*) Các Hiệp định đang được rà soát và sửa đổi, bổ sung, hiện đại
hóa:
Đa phần các Hiệp định TTTP với các nước trước đây thuộc hệ thống
XHCN được Nhà nước Việt Nam ký vào những năm 80, khi thể chế
về TTTP của nước ta còn rất sơ sài. Cùng với sự phát triển của thể

chế về tư pháp quốc tế trong đó đặc biệt là về TTTP, nhu cầu rà
soát, sửa đổi, bổ sung, hiện đại hóa hoặc thay mới (nếu cần thiết)
các Hiệp định đã ký trước đây là rất cần thiết để đảm bảo sự tương
thích giữa các Hiệp định đó với Luật Tương trợ tư pháp, các Hiệp
định đa phương về TTTP cũng như phù hợp với thực tiễn triển khai
công tác tương trợ tư pháp.
Vào đầu năm 2010, Bộ Tư pháp đã tiến hành đàm phán với Cộng
hoà Séc về việc sửa đổi Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về
các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHXHCN Tiệp Khắc ký ngày 12 tháng 10 năm 1982, đã được Cộng
hòa Séc và Cộng hòa Xlô-va-kia kế thừa.
Hiện nay Bộ Tư pháp đang chuẩn bị các điều kiện, thủ tục cần thiết
để triển khai việc rà soát, hiện đại hóa các Hiệp định TTTP đã ký
với các nước XHCN cũ, trước mắt là với 03 nước Ba Lan, Xlovakia,
Hungari.


2.2 Nội dung chủ yêu của các điều ước quốc tế về UTTPQT mà Việt
Nam kí kết với các nước
Nội dung các hoạt động UTTPQT giữa Việt Nam với các nước có
nhiều điểm khác nhau tùy thuộc vào quan hệ song phương cũng
như ý chí của các bên kí kết. Tuy nhiên có thể thấy nội dung chủ
yếu của các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam kí kết với
các nước bao hàm 4 phần chính sau:
- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp
về dân sự.
- Triệu tập người làm chứng, người giám định.
- Thu thập, cung cấp chứng cứ.
- Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự.
Các vấn đề mà các quốc gia chủ yếu thực hiện UTTPQT nằm ở 2

giai đoạn:
- Giai đoạn điều tra: các hoạt động UTTPQT thực hiện việc tống đạt
giấy tờ đến các đương sự, lấy lời khai, giám định, thu thập chứng
cứ, xác nhận tư cách chủ thể của các bên, xác định tình trạng
nhân thân, tài sản của đương sự ở nước ngoài.
- Giai đoạn công nhận, thi hành quyết định, bản án dân sự của
nhau, cơ quan tư pháp cần xác minh làm rõ thông tin liên quan
đến một số vụ việc.


Cần phân biệt hai loại UTTPQT đó là:
- Các UTTP do tòa án nước ngoài yêu cầu tòa án Việt Nam thực
hiện: đây chủ yếu là các ủy thác về tống đạt giấy tờ và lấy lời khai
đương sự trong vụ kiện truy nhận cha và cấp dưỡng nuôi con hoặc
yêu cầu tòa án Việt Nam thực hiện giám định nhóm máu trong các
vụ việc xác định cha cho con, ủy thác tống đạt giấy tờ liên quan
đến các vụ ly hôn. Ngoài ra thì ủy thác tống đạt giấy tờ về vụ kiện
thương mại cũng là loại mới và phát sinh ngày càng nhiều.
- Các UTTP do tòa án Việt Nam yêu cầu tòa án nước ngoài hoặc đại
sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thực hiện: các ủy thác này chủ yếu
là tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đương sự là công dân Việt Nam
đang cư trú ở nước ngoài trong vụ kiện ly hôn do tòa án Việt Nam
yêu cầu hoặc ủy thác tống đạt giấy tờ lấy lời khai đối với bị đơn là
công dân nước ngoài trong các vụ án ly hôn. Ngoài ra, phía Việt
Nam cũng ủy thác về việc lấy lời khai của đương sự là công dân
Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài trong các vụ kiện về dân sự do
tòa án trong nước xét xử.
a. Nhận xét chung
Có thể nhận thấy rằng các Hiệp định TTTP đã ký trong thời gian
qua hoặc đang trong quá trình đàm phán đều có nội dung phù hợp

với các quy định của Hiến pháp, Luật TTTP và các văn bản quy
phạm pháp luật khác của Việt Nam, pháp luật và tập quán quốc tế,
các điều ước đa phương trong cùng lĩnh vực; việc đàm phán, ký kết
được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, nguyên tắc quy định tại
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.


b. Phạm vi điều chỉnh và nội dung chính của các Hiệp định TTTP
Hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký với các nước XHCN trước đây là
loại điều ước song phương có phạm vi rất rộng, bao gồm cả các
vấn đề bảo hộ pháp lý, những quy phạm xung đột thống nhất để
giải quyết xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền, công nhận
và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài,
quyết định của trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên Hiệp định được ký
kết gần đây và các dự thảo Hiệp định TTTP trong lĩnh vực dân sự
và thương mại đang được đàm phán mới có phạm vi hẹp hơn, được
xây dựng theo nguyên tắc điều chỉnh các vấn đề mang tính
nguyên tắc, thủ tục tương trợ tư pháp và dẫn chiếu đến luật tố
tụng và nội dung của quốc gia ký kết. Xu hướng ký kết Hiệp định
TTTP theo từng lĩnh vực chuyên ngành (hoặc chỉ chuyên về hình
sự, dẫn độ, hoặc chuyên về tố tụng dân sự), không quy định xen
kẽ, lồng ghép nhiều lĩnh vực với nhau, đang được các quốc gia và
các tổ chức quốc tế ngày càng chú trọng. Dự thảo Hiệp định loại
này có ưu thế là đơn giản và dễ thống nhất. Đây cũng là mô hình
các Hiệp định TTTP mà ta đã ký với Trung Quốc, Pháp, An-giê-ri,
hay Dự thảo Hiệp định đang và sẽ được đàm phán với Vương quốc
Anh, Hàn quốc, Ka-dắc-xtan, Ấn Độ v.v…
Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại quy định trong
các dự thảo Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và các nước phù hợp với
Điều 10 Luật TTTP, bao gồm tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên

quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; triệu tập người làm chứng,
người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ và các yêu cầu
tương trợ tư pháp khác về dân sự


3. THỰC TIỆN THỰC HIỆN ỦY THÁC TƯ PHÁP QUỐC TÊ GIỮA VIỆT
NAM VỚI CÁC NƯỚC KÍ KÊT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TÊ VỀ VẤN ĐỀ NÀY
(bài học kì - mục tài liệu bài tập)
Mặc dù Luật tương trợ tư pháp có hiệu lực thi hành từ 1/7/2008,
nhưng đây cũng chỉ mới là luật khung, chỉ đưa ra các nguyên tắc
về UTTP, mà chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện. Do đó, để
bảo đảm việc giải quyết các vụ - việc dân sự, TAND TP HCM và Bộ
Tư pháp căn cứ trên một số nguyên tắc và văn bản luật thống nhất
về UTTP làm căn cứ giải quyết án. Theo đó, đối với đương sự là cá
nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ UTTP gửi cho Tòa án có thẩm
quyền của nước tiếp nhận UTTP thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam;
đối với cá nhân, tổ chức Việt Nam thì hồ sơ UTTP gửi cho Đại sứ
quán Việt Nam ở nước tiếp nhận UTTP thông qua Bộ Tư pháp Việt
Nam.
Tuy nhiên, theo ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TP HCM
trong hầu hết trường hợp UTTP là không có kết quả; không nhận
được sự trả lời của đương sự liên quan, không có hồi âm của Bộ Tư
pháp và Đại sứ quán Việt Nam đã thực hiện việc chuyển hồ sơ
UTTP… Vì vậy, hồ sơ vụ - việc dân sự chỉ có bản lưu của hồ sơ
UTTP đã gửi đi, các biên nhận của bưu điện về việc đã chuyển hồ
sơ của Tòa án cho Bộ Tư pháp… Tòa án lấy đó làm căn cứ để giải
quyết vụ - việc dân sự.
Đối với các vụ án hôn nhân gia đình, bị đơn thường là công dân
Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân nước ngoài, hoặc người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư ở nước ngoài. Với các

vụ án dân sự yếu tố nước ngoài thường là những người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài. Các vụ kinh doanh


thương mại thì công ty chính ở nước ngoài. Các vụ lao động thì chủ
doanh nghiệp là người nước ngoài đã trở về nước mà không thanh
toán các khoản tiền cho người lao động. Việc UTTP để ghi lời khai
của người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định
tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả
Các vụ án này thường thời hạn xét xử không đảm bảo, việc kéo dài
và bế tắc khi không có kết quả ủy thác sẽ làm người trong nước
thiệt thòi. Nếu họ đi bước nữa thì cuộc sống hôn nhân tự nhiên trái
pháp luật, do đó các quyền lợi về vợ chồng không được đảm bảo…
Đối với án xử xong, nếu có đương sự trong nước kháng cáo thì hồ
sơ không thể chuyển ngay để Tòa phúc thẩm giải quyết mà phải
chờ kết quả ủy thác bản án đối với người đang ở nước ngoài, kéo
dài thời gian thêm thời gian giải quyết vụ án…

Ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TP HCM, cho biết TAND TP
HCM đã có nhiều công văn đề nghị TAND Tối cao, Hội đồng Thẩm
phán TAND Tối cao có hướng dẫn thực hiện thủ tục UTTP nhưng
đến nay vẫn chưa chuyển biến.



×