Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Điểm khác biệt cơ bản giữa quy định pháp luật đấu thầu trong luật Thương mại và luật Đấu thầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.29 KB, 13 trang )

Phân tích ba điểm khác biệt cơ bản giữa quy định pháp luật về đấu
thầu trong Luật Thương mại năm 2005 và Luật Đấu thầu năm 2013 –

Cùng với sự phát triển của thế giới thì Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thị trường của thế giới. Do đó vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải đầu
tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cho đất nước. Đó là sự đánh giá
của một đất nước về phát triển kinh tế trong hiện tại và tương lai. Việc xây dựng các
công trình, mua sắm hàng hóa, cung ứng dịch vụ luôn đòi hỏi phải đáp ứng được
các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, thời gian thực hiện, tiết kiệm chi phí. Nhất là
đối với các dự án lớn, phức tạp, dự án của các Công ty nhiều Chủ sở hữu và đặc biệt
là các dự án thuộc khu vực Nhà nước, dự án có sự tài trợ của Quốc tế thì việc lựa
chọn được nhà thầu tốt nhất đáp ứng đủ các yêu cầu của gói thầu đưa ra và có giá cả
hợp lý luôn là sự mong muốn của người mua (bên mời thầu). Thông qua hoạt động
đấu thầu, người mua có thể tìm được người bán với chất lượng tốt nhất và giá cả
hợp lý nhất cho mình. Để tìm hiểu rõ hơn về hoạt động đấu thầu, sau đây em xin lựa
chọn đề bài:Phân tích 03 (ba) điểm khác biệt cơ bản giữa quy định pháp luật về
đấu thầu trong Luật Thương mại năm 2005 và Luật Đấu thầu năm 2013. Bài làm
tuy đã cố gắng xong không thể tránh khỏi thiếu sót, mong thầy cô góp ý để bài làm
của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
NỘI DUNG
I.Một số khái quát về đấu thầu.
Đấu thầu là quá trình chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình.
Trong đó bên mua sẽ tổ chức đấu thầu để bên bán( các nhà thầu ) cạnh tranh nhau.
Mục tiêu của bên mua là có được các hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của
mình về kỹ thuật, chất lượng và chi phí thấp nhất. Mục đích của nhà thầu là giành
được quyền cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó với giá đủ bù đắp các chi phí đầu vào và
đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể. Như vậy bản chất của đấu thầu đã được xã


hội thừa nhận như là một sự cạnh tranh lành mạnh để được thực hiện một việc nào
đó, một yêu cầu nào đó. Dưới góc độ của môn học Luật thương mại thì đấu thầu có


một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Đấu thầu là một hoạt động thương mại. Trong đó bên dự thầu là các
thương nhân có đủ điều kiện và mục tiêu mà bên dự thầu hướng tới là lợi nhuận còn
bên mời thầu là xác lập được hợp đồng mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ với các
điều kiện tốt nhất cho họ.
Thứ hai: Đấu thầu là một giai đoạn tiền hợp đồng. Hoạt động đấu thầu luôn gắn với
quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Trong nền kinh tế đấu thầu không
diễn ra như một hoạt động độc lập, nó chỉ xuất hiện khi con người có nhu cầu mua
sắm hàng hóa và sử dụng dịch vụ. Mục đích cuối cùng của đấu thầu là giúp bên mời
thầu tìm ra chủ thể có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt nhất
với giá cả hợp lý nhất. Sau khi quá trình đấu thầu hoàn tất, người trúng thầu sẽ cùng
với người tổ chức đấu thầu đàm phán để ký hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ hay xây lắp công trình.
Thứ ba: Chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Theo Luật thương
mại năm 2005,trong hoạt động đấu thầu có thể xuất hiện bên thứ ba như các công ty
tư vấn giúp lập hồ sơ mời thầu, chuyên gia giúp đỡ đánh giá hồ sơ dự thầu. Tuy
nhiên đây là hoạt động không qua trung gian, không có thương nhân làm dịch vụ
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân khác nhận thù lao. Trong khi đó Luật
đấu thầu năm 2013 đã quy định thêm về tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp bao gồm
đại lý đấu thầu, đơn vị sự nghiệp được thành lập với chức năng thực hiện đấu thầu
chuyên nghiệp. Việc thành lập và hoạt động của đại lý đấu thầu thực hiện theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp. Quan hệ đấu thầu luôn được xác lập giữa một
bên mời thầu và nhiều bên dự thầu. Nhưng vẫn có những ngoại lệ như trong trường
hợp chỉ định thầu.


Thứ tư: Hình thức pháp lý của quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hồ sơ mời thầu
và hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu là văn bản pháp lý do bên mời thầu lập, trong đó
có đầy đủ những yêu cầu về kỹ thuật, tài chính và thương mại của hàng hóa cần
mua sắm, dịch vụ cần sử dụng. Còn hồ sơ dự thầu thể hiện năng lực, mức độ đáp

ứng của bên dự thầu trước các yêu cầu trong hồ sơ mời thầu.
Thứ năm: Giá của gói thầu: Xét trên góc độ giá cả thì đấu thầu cần thiết phải có sự
khống chế về giá, gọi là giá gói thầu hoặc dự toán-được đưa ra bởi bên mời thầu
theo khẳ năng tài chính của bên mời thầu. Bên dự thầu đưa ra giá cao hơn khả năng
tài chính của bên mời thầu thì dù có tốt đến mấy cũng khó có thể thắng thầu. Bên dự
thầu nào đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu mà có giá càng thấp thì sẽ
càng có cơ hội chiến thắng.
II. Ba điểm khác biệt cơ bản giữa quy định pháp luật về đấu thầu trong Luật Thương
mại năm 2005 và Luật Đấu thầu năm 2013.
1.Phạm vi áp dụng của các hoạt động đấu thầu.
Như ta đã biết thì đấu thầu là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo
các quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung- cầu, quy luật giá cả- giá
trị. Thông qua hoạt động đấu thầu, những người mua (bên mời thầu) có nhiều cơ hội
để lựa chọn những người bán phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất- xứng
với giá trị của đồng tiền mà người mua sẵn sàng bỏ ra. Đồng thời những người bán
(bên dự thầu) có nhiều cơ hội để cạnh tranh nhằm đạt được các hợp đồng, có thể
cung cấp các hàng hóa sản xuất rahoặc các dịch vụ mà mình có khả năng đáp ứng
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên pháp luật đã có sự phân biệt về phạm vi áp
dụng giữa các hoạt động đấu thầu được quy định trong luật thương mại và hoạt
động đấu thầu quy định trong Luật đấu thầu năm 2013. Điều 214 LTM quy định:
“ 1. Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua
hàng hóa, dịch vụ thông qua mời thầu ( bên mời thầu ) nhằm lựa chọn trong số các


thương nhân tham gia đấu thầu ( bên dự thầu ) thương nhân đáp ứng tốt nhất các
yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để kí kết và thực hiện hợp đồng
( bên trúng thầu).
2. Các quy định về đấu thầu trong Luật này không áp dụng đối với đấu thầu mua
sắm công theo quy định của pháp luật. ”.
Trong khi đó Điều 4 khoản 12 Luật đấu thầu quy định: Đấu thầu là quá trình lựa

chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi
tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp
đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên
cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Như vậy về thực chất thì quá trình đấu thầu ở Việt Nam đối với các dự án sử dụng
vốn Nhà nước là một quá trình mua sắm, xây dựng công trình-quá trình chi tiêu, sử
dụng vốn Nhà nước. Về bản chất thì hoạt động đấu thầu được quy định trong Luật
đấu thầu thực chất là hoạt động đấu thầu mang bản chất tư nhưng tính chất công còn
hoạt độngđấu thầu được quy định trong Luật thương mại thì mang bản chất tư. Đấu
thầu trong Luật đấu thầu là lựa chọn 1 nhà thầu cho nhà nước còn đấu thầu trong
Luật thương mại là lựa chọn nhà thầu cho chính mình. Trong đó quy định về đấu
thầu trong luật thương mại thì nguồn vốn được sử dụng từ nguồn vốn của tư nhân,
thuộc sở hữu của bên mời thầu. Còn đấu thầu trong Luật đấu thầu thì sử dụng nguồn
vốn nhà nước. Theo điều 214 khoản 2 LTM thì các quy định về đấu thầu trong luật
thương mại chỉ áp dụng cho các hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu
của tư nhân mà không áp dụng cho đấu thầu mua sắm công theo quy định của pháp
luật. Xuất phát từ vai trò là công cụ pháp lý để quản lý nhà nước đối với việc đấu
thầu các dự án liên quan đến hoạt động chi tiêu, sử dụng vốn nhà nước trong mua
sắm hàng hóa, cung cấp dịch vụ tư vấn và xây lắp... Nên theo Điều 1 khoản 1 Luật
đấu thầu thì các dự án phát triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, Dự
án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; Dự án đầu tư phát triển có sử dụng
vốn của doanh nghiệp nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ


đồng trong tổng mức đầu tư của dự án; Các dự án liên quan đến hoạt động chi tiêu,
mua sắm của công, các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam mà dự án đó sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên
500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án; các dự án đầu tư theo hình thức đối
tác công tư (PPP), dự án đầu tư có sử dụng đất; các dự án đầu tưtrong lĩnh vực dầu
khí ( trừ việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ dầu khí liên quan trực tiếp đến

hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí theo quy định của
pháp luật về dầu khí ) thì phải sử dụng luật đấu thầu để điều chỉnh. Bởi một lý do cơ
bản là vốn của các dự án này đều được lấy từ nguồn vốn của Nhà nước để chi cho
các dự án đầu tư có tính chất công-tức mang tính cộng đồng, phục vụ cho lợi ích
cho một tập thể người trong xã hội hoặc liên quan đến chi tiêu mua sắm của bộ máy
nhà nước.
Trong thực tế cho thấy từ việc sử dụng vốn của nhà nước nên không ít trường hợp
các cá nhân, người được giao nhiệm vụ thực hiện các dự án này đã gian lận để tham
ô chiếm đoạt tài sản của nhà nước, gây thâm hụt và lãng phí ngân sách của nhà
nước. Do vậy để tránh thất thoáttài sản của nhà nước nên pháp luật đã quy định mọi
dự án đầu tư có sử dụng vốn nhà nước đều phải thực hiện theo quy định của Luật
đấu thầu. Tức các chủ thể trong đấu thầu đều phải chịu sự áp đặt ý chí của Nhà
nước mà không được tự do thỏa thuận. Trong khi đó đấu thầu được quy định trong
Luật thương mại là một hoạt động thương mại, do đó lợi nhuận là cái mà các bên
trong đấu thầu rất quan tâm. Mặt khác vốn đầu tư của dự án thuộc sở hữu của tư
nhân ( bên mời thầu ) nên trong trường hợp này bên mời thầu có quyền quyết định
lựa chọn cho mình nhà thầu đáp ứng tốt nhất các điều kiện về cung cấp hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ với mức giá tốt nhất. Tức pháp luật tôn trọng quyền tự do
thỏa thuận, tự do ý chí của các chủ thể trong đấu thầu hàng hóa.
Theo Điều 2 khoản 2 Luật đấu thầu quy định: “ Tổ chức, cá nhân có hoạt động đấu
thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này được chọn áp dụng quy định của
Luật này. Trường hợp chọn áp dụng thì tổ chức, cá nhân phải tuân thủ các quy định
có liên quan của Luật này, bảo đảm công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế ”.


Theo quy định này thì các tổ chức, cá nhân có hoạt động đấu thầu không thuộc quy
định này được chọn áp dụng quy định của Luật này và phải tuân thủ theo quy định
của Luật này. Như vậy có thể thấy phạm vi áp dụng của Luật đấu thầu rộng hơn các
quy định về đấu thầu được quy định trong Luật thương mại. Quy định về đấu thầu
trong Luật thương mại chỉ áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hóa, sử dụng

dịch vụ trong thương mại ( phạm vi áp dụng hẹp ), sử dụng nguồn vốn của tư nhân
và có tính mềm dẻo hơn còn LĐT thì điều chỉnh các hoạt động đấu thầu liên quan
đến sử dụng nguồn vốn nhà nước, phải tuân thủ các trình tự nghiêm ngặt theo quy
định của LĐT, không có tính mềm dẻo, chịu sự áp đặt ý chí của Nhà nước. Ngoài ra
LĐT còn điều chỉnh cả các hoạt động đấu thầu không thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật này mà chọn Luật này để điều chỉnh. Trừ trường hợp đối với việc lựa chọn
nhà thầu, nhà đầu tư thuộc dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA), vốn vay ưu đãi phát sinh từ điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế giữa Việt
Nam với nhà tài trợ thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế và thỏa thuận
quốc tế đó. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định về lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư khác với quy định của
Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Hình thức đấu thầu.
Bên cạnh việc quy định khác nhau về phạm vi áp dụng đấu thầu thì Luật đấu thầu
và các quy định về đấu thầu được quy định trong luật thương mại còn quy định khác
nhau về hình thức đấu thầu. Điều 215 LTM 2005 thì có hai hình thức đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ đó là đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Trong khi đó ngoài hai
hình thức trên thì LĐT còn quy định thêm 6 hình thức đấu thầu khác bao gồm: chỉ
định thầu; chào hàng cạnh tranh; mua sắm trực tiếp; tự thực hiện; lựa chọn nhà thầu,
nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt; tham gia thực hiện của cộng đồng ( từ Điều
22 đến Điều 27 Luật đấu thầu ). Như vậy nhìn một cách tổng quát thì LĐT năm
2013 quy định nhiều hình thức đấu thầu hơn so với LTM 2005. Bởi lẽ do quy mô,
tính chất phức tạp của các dự án đầu tư mà các quy định về đấu thầu trong LTM chỉ
điều chỉnh các hoạt động đấu thầu với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản, ít phức tạp.


Do đó quy định về đấu thầu trong LTM không thể đáp ứng được Đồng thời do sự
khác nhau về phạm vi áp dụng của các dự án đấu thầu nên LĐT đã phải quy định
thêm nhiều các hình thức đấu thầu khác nhau phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế
thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam đang mở cửa hội nhập với nền kinh

tế thế giới.
Điều 20 Luật đấu thầu quy định: “ Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu,
nhà đầu tư trong đó không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự. Đấu thầu
rộng rãi được áp dụng cho các gói thầu, dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
này, trừ trường hợp quy định tại các điều 21, 22, 23, 24, 25, 26 và 27 của Luật này”.
Còn Điều 215 điểm 1 khoản a LTM quy định: “ Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu
thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các bên dự thầu”. Như vậy cả LTM
và LĐT đều thừa nhận đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không giới hạn số
lượng nhà thầu tham gia, chỉ có 1 người mua và nhiều người bán. Với hình thức đấu
thầu này thì bên mời thầu (người mua ) sẽ dễ dàng lựa chọn được nhà thầu tốt nhất
với giá cả hợp lý nhất trong phiên đấu thầu có nhiều nhà thầu tham dự. Tuy nhiên
hình thức này cũng đem lại một số khó khăn cho bên mời thầu như phải quản lý hồ
sơ với số lượng lớn, chi phí cho hoạt động đấu thầu lớn, thời gian để hoàn thành
công tác tổ chức đấu thầu dài và có thể xảy ra trường hợp nhà thầu liên kết để đẩy
giá trúng thầu. Để các dự án kinh tế sử dụng vốn nhà nước đạt hiệu quả cao, tiết
kiệm thì LĐT chỉ cho phép các gói thầu, dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
này mà không thuộc trường hợp quy định tại các điều từ Điều 21 đến Điều 27 của
luật này mới được áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi ( chịu sự điều chỉnh về ý chí
của nhà nước ). Còn trong LTM thì do bên mời thầu tự quyết định-tức tôn trọng ý
chí chủ quan của bên mời thầu.
Trong một số trường hợp để tiết kiệm chi phí và thời gian cho hoạt động tổ chức
đấu thầu thì bên mời thầu có thể chỉ mời một số nhà thầu nhất định dự thầu (Điều
215 khoản 1điểm b LTM ). Việc lựa chọn hình thức đấu thầu hạn chế này là hoàn
toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bên mời thầu ( tự do cá nhân ) mà không
phải phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. Tuy nhiên đối với các gói thầu lớn, đòi hỏi


yêu cầu kĩ thuật cao hoặc mang tính đặc thù, chuyên ngành thì việc lựa chọn nhà
thầu là rất quan trọng.Thông thường các gói thầu liên quan đến sử dụng vốn nhà
nước đều là các gói thầu lớn với mục đích xây dựng các công trình phục vụ cho

cộng đồng nên yêu cầu bảo đảm kỹ thuật là tiêu chí quan trọng nhất.Bởi lẽ trên thực
tế không phải nhà thầu nào cũng đáp ứng được các yêu cầu mà bên mời thầu đưa ra
cho gói thầu. Do vậy để bảo đảm được chất lượng của gói thầu mà không tốn thời
gian, chi phí tổ chức thìĐiều 21 LĐT 2013 quy định: “Đấu thầu hạn chế được áp
dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc
thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu”. Với quy định này thì
những dự án sử dụng vốn nhà nước đòi hỏi yêu cầu kỹ thật cao hoặc kỹ thuật có
tính đặc thù mà chỉ một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ thuật của gói
thầu thì được áp dụng đấu thầu hạn chế. Trong khi LTM lại cho phép bên mời thầu
được tự do lựa chọn hình thức đấu thầu có thể là đấu thầu hạn chế hoặc đấu thầu
rộng rãi mà không phải chịu sự ràng buộc của bất kì điều kiện nào như Luật đấu
thầu.
Chỉ định thầu; chào hàng cạnh tranh; mua sắm trực tiếp; tự thực hiện; lựa chọn nhà
thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt; tham gia thực hiện của cộng đồng là
những hình thức đấu thầu được quy định trong Luật đấu thầu mà không được quy
định trong Luật thương mại để đáp ứng các nhu cầu thực tế về đấu thầu đối với các
gói thầu phức tạp, mang tính cấp thiết và mục đích nhân đạo... Trong đó chỉ định
thầu là một hình thức đấu thầu đặc biệt.
- Theo Điều 22 khoản 4 LĐT thì chỉ định thầu đối với nhà đầu tư được áp dụng
trong các trường hợp sau: Chỉ có một nhà đầu tư đăng ký thực hiện; Chỉ có một nhà
đầu tư có khả năng thực hiện do liên quan đến sở hữu trí tuệ, bí mật thương mại,
công nghệ hoặc thu xếp vốn; Nhà đầu tư đề xuất dự án đáp ứng yêu cầu thực hiện
dự án khả thi và hiệu quả cao nhất theo quy định của Chính phủ. Bằng hình thức chỉ
định thầu bên mời thầu không phải tổ chức đấu thầu, tiết kiệm được chi phí tổ chức
và thời gian. Qua đó đẩy nhanh được tiến độ gói thầu, bảo đảm được bí mật công
nghệ và đáp ứng tính cấp bách của dự án đầu tư cần triển khai. Tuy nhiên các gói


thầu được áp dụng chỉ định thầu phải thuộc các trường hợp quy định tại Điều 22
khoản 1 LĐT.Và việc thực hiện chỉ định thầu đối với gói thầu quy định tại các điểm

b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 22
khoản 2 của Luật này. Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá
gói thầu trong hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Theo đó các gói thầu này
phải nằm trong hạn mức do Chính phủ quy định: “Không quá 500 triệu đồng đối
với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ công; không quá
01 tỷ đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua thuốc, vật tư
y tế, sản phẩm công. Không quá 100 triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự toán mua
sắm thường xuyên” ( Điều 54 NĐ 63/2014/CP ).
- Chào hàng cạnh tranh là hình thức đấu thầu áp dụng đối với gói thầu có giá trị
trong hạn mức theo quy định của Chính phủ và thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Điều 23 khoản 1 LĐT . Trong đó chào hàng cạnh tranh theo quy trình thông
thường áp dụng đối với gói thầu có giá trị không quá 5 tỷ đồng. Chào hàng cạnh
tranh theo quy trình rút gọn áp dụng đối với gói thầu dịch vụ phi tư vấn thông dụng,
đơn giản có giá trị không quá 500 triệu đồng.Không quá 1 tỷ đồng đối với Gói thầu
mua sắm hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được
tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng; Gói thầu xây lắp công trình đơn
giản đã có thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt và không quá 200 triệu đồng đối
với gói thầu mua sắm thường xuyên.
- Mua sắm trực tiếp được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương tự
thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm hoặc thuộc dự án, dự toán mua sắm khác.
Mua sắm trực tiếp được thực hiện khi có đủ các điều kiện được quy định tại Điều 24
khoản 2 LĐT.
-Tự thực hiện là hình thức đấu thầu được quy định tai Điều 25 của LĐT. Trong đó
có thể hiểu tự thực hiện là hình thức đấu thầu đặc biệt trong đó bên mời thầu, bên
dự thầu và người trúng thầu đều là cùng một người. Tức chủ dự án đầu tư tự thực


hiện gói thầu của mình, tuy nhiên nếu chỉ quy định như vậy thì sẽ dẫn đến nhiều
trường hợp mà chủ đầu tư thực hiện dự án là người không có đủ khả năng đáp ứng

về mặt kĩ thuật cũng như chuyên môn. Nếu họ tự thực hiện thì rất dễ dẫn đến không
bảo đảm chất lượng của công trình, dự án, gây thất thoát tiền của nhà nước. Do vậy
theo quy định tại Điều 61 NĐ 63/2014/CP thì việc áp dụng hình thức tự thực hiện
phải được phê duyệt trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu và phải đáp ứng các điều
kiện: Có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù
hợp với yêu cầu của gói thầu; Phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực
hiện về khả năng huy động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ
thực hiện gói thầu; Đơn vị được giao thực hiện gói thầu khô
ng được chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu
trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng.
-Trường hợp gói thầu, dự án xuất hiện các điều kiện đặc thù, riêng biệt mà không
thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư quy định tại các điều 20,
21, 22, 23, 24 và 25 của Luật này thì người có thẩm quyền trình Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định phương án lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư. Ngoài ra đối với
các gói thầu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ xóa đói
giảm nghèo cho các huyện, xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; Gói thầu quy mô nhỏ mà cộng đồng dân cư, tổ chức, tổ,
nhóm thợ tại địa phương có thể đảm nhiệm thì có thể áp dụng hình thức tham gia
thực hiện của cộng đồng.
3. Phương thức đấu thầu.
Theo quy định tai điều 216 LTM 2005 có hai phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ là đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ. Trong đó bên mời hầu có quyền
lựa chọn phương thức đấu thầu và phải thông báo trước cho các bên dự thầu. Còn
theo LĐT từ Điều 28 đến Điều 31 thì có 4 phương thức đấu thầu là: Đấu thầu 1 giai
đoạn 1 túi hồ sơ; 1giai đoạn 2 túi hồ sơ; Đấu thầu 2 giai đoạn 1 túi hồ sơ; 2 giai
đoạn 2 túi hồ sơ. Xuất phát từ quy mô, tính chất phức tạp, vai trò và tầm quan


trọngcủa các gói thầu sử dụng vốn nhà nước mà LĐT đã quy định tới 4 phương thức
đấu thầu khác nhau để đáp ứng tốt nhất khả năng thực hiện và bảo đảm chất lượng
của gói thầu. Tức các gói thầu có sử dụng vốn nhà nước phải tuân thủ theo các điều

kiện chặt chẽ về phương thức đấu thầu theo LĐT, trong khi LTM lại do bên mời
thầu tự quyết định lựa chọn phương thức đấu thầu theo ý chí cá nhân của mình. Về
cơ bản thì phương thức đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ trong LTM và
phương thức đấu thầu 1 giai đoạn 1 túi hồ sơ, 1 giai đoạn 2 túi hồ sơ trong LĐT là
giống nhau.
Đối với phương thức 1 túi hồ sơ: Bên dự thầu nộp đề xuất kỹ thuật ( cách tiến hành
công việc ) và đề xuất tài chính ( giá cả cụ thể và phương thức thanh toán ) trong
cùng một túi hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở thầu được
tiến hành 1 lần ( mở cùng lúc cả đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính ). Còn đối với
phương thức 2 túi hồ sơ: Bên dự thầu nộp đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính
trong hai túi hồ sơ riêng biệt vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ kỹ thuật sẽ được
mở trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt điểm kỹ thuật theo yêu cầu sẽ được mở tiếp
túi hồ sơ đề xuất tài chính để đánh giá. Nếu nhà thầu nào đạt cả hai yêu cầu về kỹ
thuật và tài chính thì sẽ trở thành người trúng thầu. Tuy nhiên đối với phương thức
đấu thầu 1 giai đoạn 1 túi hồ sơ và 1 giai đoạn 2 túi hồ sơ chỉ áp dụng đối với các
gói thầu có quy mô sử dụng vốn nhà nước nhỏ, đơn giản và thuộc các trường hợp
quy định tại Điều 28,29 LĐT 2013. Trong khi LTM thì cho phép bên mời thầu tự
lựa chọn phương thức đấu thầu phù hợp với gói thầu của mình ( tự do lựa chọn ) mà
không phải chịu sự ràng buộc nào khác.
Các phương thức đấu thầu được quy định trong LĐT từ Điều 28 đến Điều 31 của
LĐT được quy định khắt khe theo độ phức tạp và quy mô sử dụng vốn của dự án.
Nếu như phương thức đấu thầu 1 giai đoạn 1 túi hồ sơ, 1 giai đoạn 2 túi hồ sơ được
áp dụng đối với các dự án đơn giản, quy mô vốn nhỏ thì phương thức đấu thầu hai
giai đoạn lại được áp dụng đối với các gói thầu có quy mô sử dụng vốn lớn và có
tính phức tạp cao hơn. Phương thức này chỉ được quy định trong LĐT mà không
được quy định trong LTM bởi lẽ các phương thức đấu thầu được quy định trong


LTM nghiêng về tôn trọng quyền tự quyết của cá nhân trong khi đối với các dự án
quy mô lớn, phức tạp, mang tính chất công thì việc bảo đảm tiến độ công trình, chất

lượng của dự án là vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
kinh tế của cả một đất nước. Vì vậy cần phải có một phương thức đấu thầu chặt chẽ
để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu tốt nhất, với giá cả hợp lý nhất.
Theo quy định tại Điều 30 LĐT thì phương thức hai giai đoạn một túi hồ sơ được áp
dụng trong trường hợp đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu mua
sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô lớn, phức tạp. Trong giai đoạn một, nhà
thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu
nhưng chưa có giá dự thầu. Trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn
này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai. Trong giai đoạn hai, nhà thầu đã tham
gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu bao gồm đề xuất về
kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, trong
đó có giá dự thầu và bảo đảm dự thầu. Xuất phát từ thực tế có rất nhiều nhà thầu
không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật của gói thầu nhưng do giá dự thầu thấp nên
đã trúng thầu. Tới khi thực hiện dự án thì không bảo đảmvề mặt chất lượng cũng
như tiến độ thi công của gói thầu. Bài học thực tế từ các nhà thầu Trung Quốc thời
gian qua là một ví dụ điển hình. Bằng chiêu trò đưa ra giá thấp nhất để được trúng
thầu những khi đã trúng thầu thì họ lại chây lì, không chịu thực hiện dự án với lý do
giá thấp, không đủ để thực hiện, buộc bên mời thầu (bên mua ) phải tăng giá gói
thầu lên thì mới chịu thực hiện. Kết quả giá của gói thầu đã bị đẩy lên cao gấp nhiều
so với thực tế. Chính vì vậy quy định này một phần loại trừ những nhà thầu không
đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật trước khi xem xét tới giá của gói thầu. Bảo đảm lựa
chọn được nhà thầu tốt nhất để thực hiện các công trình sử dụng vốn nhà nước một
cách hiệu quả.
Phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng trong trường hợp đấu thầu
rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có
kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, có tính đặc thù. Trong giai đoạn một, nhà thầu
nộp đồng thời hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất về tài chính riêng biệt theo


yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở ngay sau thời

điểm đóng thầu. Trên cơ sở đánh giá đề xuất về kỹ thuật của các nhà thầu trong giai
đoạn này sẽ xác định các nội dung hiệu chỉnh về kỹ thuật so với hồ sơ mời thầu và
danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu được mời tham dự thầu giai đoạn hai. Hồ sơ đề
xuất về tài chính sẽ được mở ở giai đoạn hai. Trong giai đoạn hai, các nhà thầu đáp
ứng yêu cầu trong giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu bao
gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu
giai đoạn hai tương ứng với nội dung hiệu chỉnh về kỹ thuật. Trong giai đoạn này,
hồ sơ đề xuất về tài chính đã nộp trong giai đoạn một sẽ được mở đồng thời với hồ
sơ dự thầu giai đoạn hai để đánh giá. Như vậy đối với các dự án đòi hỏi công nghệ
mới, phức tạp, có tính đặc thù thì sẽ áp dụng phương thức đấu thầu 2 giai đoạn, 2
túi hồ sơ. Trong phương thức đấu thầu này thì các yêu cầu về kỹ thuật là yếu tố
quan trọng nhất, quyết định tới việc trúng thầu của các bên dự thầu bởi cái bên mời
thầu quan tâm nhất chính là kỹ thuật công nghệ chứ không phải giá của gói thầu.
Tuy nhiên trong một số trường hợp chỉ có một hoặc một số nhà thầu mới đủ điều
kiện thực hiện được gói thầu đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao như vậy thì rất dễ dẫn đến
nhà thầu đòi giá gói thầu cao hơn nhiều lần so với giá thực tế. Đây cũng chính là
hạn chế của phương thức đấu thầu này bên cạnh những ưu điểm mà nó mang lại.
KẾT BÀI
Tóm lại:Trong quá trình tổ chức đấu thầu thì tùy thuộc vào quy mô, tính chất của
các dự án mà nhà thầu cần có phương án lựa chọn hình thức và phương thức đấu
thầu cho phù hợp đối với từng gói thầu. Tránh những rủi ro không đáng có, làm ảnh
hưởng tới tiến độ thi công của gói thầu. Qua đó lựa chọn được nhà thầu tốt nhất với
giá cả hợp lý nhất.



×