Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIVAIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của nghệ an, 2008 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
-------------0--------------

NGUYỄN VĂN ĐỊNH

HIỆU QUẢ CAN THIỆP TƯ VẤN,
CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS
TẠI CỘNG ĐỒNG Ở 5 HUYỆN CỦA NGHỆ AN,
2008 - 2012

LUẬN ÁN TIÉN SỸ Y TÉ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2015


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Nguyễn Văn Định
Hoàn thành luận này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Long, Thứ
trưởng Bộ Y tế và Phó giáo sư - Tiến sỹ Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh, là những người thầy trực
tiếp hướng dẫn, truyền thụ kiến thức cho tôi, dẫn dắt tôi trên con đường nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương và Lãnh
đạo Viện, Phòng Đào tạo sau đại học đã luôn quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo tận tình trong quá trình thực hiện luận án và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của tôi.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tập thể Khoa HIV - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã trực tiếp giúp
đỡ tôi tổ chức thực hiện nghiên cứu và hoàn thành luận án.


Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc - Sở Y tế Nghệ An, Ban Giám đốc và tập thể cán bộ, nhân viên Trung tâm
Phòng chống HIV/AIDS Nghệ An đã động viên, cổ vũ và hỗ trợ nhiệt tình cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc và các cán bộ Trung tâm Y tế 5 huyện/thành/thị, cán bộ các phòng khám ngoại trú
đã hỗ trợ tôi trong triển khai nghiên cứu, thu thập số liệu cho luận án.
Xin trân trọng cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn chia sẻ cùng tôi những khó
khăn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Sau cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, những người đã luôn động viên, chia sẻ và hết lòng ủng hộ
tôi trong thời gian qua.

Nguyễn Văn Định


MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC


AIDS Immunodeficiency Syndrome
Acquired
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
ARVRetro Virus
Anti
Thuốc điều trị kháng retro vi rút
BCScao su
Bao
Bơm
BKTkim tiêm

Bệnh
lây truyền qua đường tình dục.
BLTQĐT
Bạn
D tình bất chợt Bạn tình thường xuyên Chỉ số hiệu quả Dự phòng lây truyền mẹ
con
Quan hệ tình dục
BTBC
Network
BTTX for Therapeutic Solidarity in Hospitals
Tổ
chức liên đới mạng điều trị
CSHQ
Family
Health International
DPLTMC
Tổ
chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế
QHTD
Giáo
dục viên đồng đẳng
ESTHER
Gái mại dâm
Human
FHI Immunodeficiency Virus Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người
Vietnam-USA Collaboration Project on HIV/AIDS Prevention and Care in Vietnam
GDVĐĐ
Dự
án “Dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS tại Việt Nam”
GMD

Men
who have sex with men Quan hệ tình dục đồng giới nam
HIV

MS


NCMT
NTCH
OR
Nghiện chích ma túy Nhiễm trùng cơ hội Odds Ratio - Tỷ suất chênh
PEPFAR
The United States President’s Emergency Plan for AIDS Relief Chương trình hỗ trợ khẩn cấp
của Tổng thống Hoa Kỳ Phòng khám ngoại trú Phụ nữ bán dâm
PKNT
Dự án "Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS"
PNBD
Tiêm chích ma túy
QTC
Tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ
TCMT
Tư vấn xét nghiệm tự nguyện
TVCSHT
The Joint United Nations Programme on AIDS
TVXNT
Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về AIDS
N
World Health Organization
UNAIDS
Tổ chức Y tế Thế giới



Bảng 3.19. Thay đổi về hành vi sinh con sau nhiễm 90 HIV
DANH MỤC CÁC BẢNG
Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết các nội dung cơ bản của chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS

tại

cộng 35


đồng................................................................................
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ triển khai nghiên cứu............................................................................... 43
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ biện pháp can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm tại cộng đồng 45

ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1996 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại Nghệ An được phát hiện và từ đó cho tới nay
con số người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn liên tục tăng. Tính đến 31/12/2013, số người nhiễm
HIV/AIDS được phát hiện tại Nghệ An đã lên tới 7.294 người, trong đó 4.323 người biểu hiện AIDS
và 2.571 người đã chết do AIDS. Hiện tại, Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6 của cả nước về số người nhiễm
HIV/AIDS còn sống với khoảng 5.545 người [82], [83].
Nhận thức được mối hiểm hoạ to lớn của đại dịch HIV/AIDS, nhằm ngăn chặn sự lan truyền
của HIV. Trong những năm qua, nhiều hoạt động phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai thực
hiện. Đặc biệt, từ năm 2007, sau khi Nghệ An được đưa vào một trong 7 tỉnh trọng điểm của chương
trình PEPFAR Hoa Kỳ thì các hoạt động phòng chống HIV/AIDS thực sự chuyển biến mạnh mẽ và
thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ [82].
Về hoạt động tư vấn, chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS tại Nghệ An. Tính đến
31/12/2013, có 9 PKNT được triển khai ngoài cộng đồng (trong đó có 1 PKNT trẻ em), 2 cơ sở điều



trị trong trung tâm 05 - 06 và 2 cơ sở điều trị trong trại giam. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 11
phòng tư vấn, 12 nhóm GDVĐĐ, 5 câu lạc bộ người nhiễm và nhiều dịch vụ khác như dự phòng lây
truyền mẹ - con, khám và điều trị BLTQĐTD, khám và điều trị Lao/HIV... Có thể nói với sự hỗ trợ
tích cực của các chương trình, dự án, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong
thời gian qua hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS đã có sự chuyển biển mạnh
mẽ với hàng ngàn người được TVXNTN, người nhiễm HIV/AIDS đã chủ động công khai danh tính
để hưởng thụ các dịch vụ và tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, được quản lý và
được tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ tại nhà, tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ và nhiều hoạt động hỗ trợ
khác từ các tổ chức, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn. Tính đến cuối 2013, số người nhiễm
HIV/AIDS đang được điều trị ARV tại các phòng khám ngoại trú là 2.223 người, trong đó có 105 là
trẻ em [82].
Tuy nhiên, hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ An vẫn còn một số tồn tại, như: độ
bao phủ của các dịch vụ chưa cao, nhiều huyện vùng xa, miền núi cao việc tiếp cận với các dịch vụ
của người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều khó khăn, hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị cho
người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập; lây nhiễm HIV vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm, số
người nhiễm HIV tiến triển thành AIDS và nhu cầu chăm sóc, điều trị ngày càng nhiều [82].
Thực trạng hành vi nguy cơ lây truyền HIV và tư vấn, chăm sóc, điều trị người nhiễm
HIV/AIDS đã được một số nghiên cứu đề cập, nhưng chưa đầy đủ, chưa có tính đại diện để làm cơ sở
cho việc chăm sóc người nhiễm và khống chế sự lan truyền HIV. Mặt khác, hoạt động phòng chống
HIV/AIDS tại cộng đồng và hiệu quả của nó tại Nghệ An chưa có nghiên cứu nào phân tích, đánh giá.
Từ thực tế trên, chúng tôi đề xuất nghiên cứu: "Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người
nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ An, 2008 - 2012" với các mục tiêu sau:

1. Mô tả hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng và hành vi nguy cơ
trước can thiệp tại 5 huyện của Nghệ An năm 2008.

2. Đánh giá hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng, 2008 2012.
Chương 1


1.1.
1.1.1.

TỔNG QUAN
MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIV/AIDS
Khái niệm nhiễm HIV/AIDS
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh " Human Immunodeficiency Virus", là vi rút gây

suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh [68].


AIDS được viết tắt từ tiếng Anh "Acquired Immunodeficiency Syndrome", có nghĩa là "hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải" do nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người - HIV (Human
Immunodeficiency Virus). HIV tấn công, tiêu huỷ dần các tế bào miễn dịch và làm suy giảm hệ thống
miễn dịch của cơ thể. AIDS là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV, khi cơ thể không còn khả
năng chống đỡ, nên dễ mắc thêm nhiều loại bệnh cơ hội dẫn đến tử vong [68].

1.1.2.

Tác nhân gây bệnh
HIV có 2 týp huyết thanh HIV-1 và HIV-2 do Montagnier cùng cộng sự (Viện Pasteur Paris)

tìm ra năm 1983 - 1986 tại Trung Phi. Đây là các Retrovius (vi rút sao mã ngược) có vật liệu di
truyền ARN, thuộc họ Lentivirus (vi rút chậm). Đích tấn công của HIV là các tế bào miễn dịch có
điểm tiếp nhận CD4 (tế bào Lympho T, niêm mạc ruột ưa crôm, niêm mạc đường hô hấp, đệm thần
kinh và tế bào thượng bì). HIV lây nhiễm, nhân lên và tiêu diệt tế bào miễn dịch của cơ thể. Hàng
ngày, có hàng tỷ HIV được tạo thành và cũng có hàng tỷ tế bào miễn dịch của cơ thể bị tiêu hủy [47],
[86], [88], [110].
Trên kính hiện vi điện tử, HIV có cấu trúc hình cầu, đường kính trung bình khoảng 110 nm
(dao động từ 70 - 130 nm). HIV có đặc điểm chung của họ Retroviridae. Hạt vi rút hoàn chỉnh

(virion) có cấu tạo gồm 3 lớp: vỏ ngoài, vỏ trong và lõi [47], [88], [110].

Hình 1.1. Hình dạng HIV

1.1.3.

Nhiễm HIV là nhiễm suốt đời
Đối với các nhiễm trùng thông thường, mầm bệnh chỉ tồn tại một thời gian ngắn trong cơ thể.

Riêng HIV, một khi đã tích hợp vào bộ gen của tế bào chủ, sẽ tồn tại cùng với vật chủ suốt đời, vì vậy
người nhiễm HIV/AIDS có thể truyền bệnh cho người khác suốt cả đời mình [45], [55], [106], [114].

1.1.4.

Dịch HIV/AIDS là một dịch ẩn


Thời gian từ khi một người nhiễm HIV đến khi diễn biến thành AIDS trung bình khoảng 5 - 7
năm. Trong thời gian này, mặc dù không có triệu chứng gì trên lâm sàng, nhưng người nhiễm HIV
vẫn luôn có khả năng lây nhiễm cho người khác. Đến khi có biểu hiện của AIDS thì người nhiễm đã
có thể gây bệnh cho nhiều người. Do vậy, dịch HIV/AIDS là một dịch ẩn rất khó phòng, chống [7],
[42].

1.2.

TÌNH HÌNH NHIỄM HIV TRÊN THÉ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.2.1.

Trên thế giới
Kể từ khi ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Los Angeles, Hoa Kỳ vào năm 1981, đến
31/12/2012, UNAIDS và WHO đã công bố có khoảng 35,3 triệu người nhiễm HIV/AIDS còn sống,

trong đó có 32,1 triệu người lớn và 3,3 triệu trẻ em. Riêng trong năm 2012, 3,3 triệu người nhiễm
HIV/AIDS được phát hiện và 1,6 triệu người tử vong do AIDS, có gần 1/7 số chết là trẻ em. Mỗi
ngày trôi qua, trên thế giới có thêm 6.300 người mới nhiễm HIV, 95% các trường hợp này ở các nước
có thu nhập thấp và trung bình. Số người nhiễm HIV/AIDS hiện còn sống phần lớn ở các nước khu
vực cận Sahara châu Phi (25 triệu), ở vùng Nam và Đông Nam Á (3,9 triệu) [116], [142].
Châu Phi là châu lục chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch HIV/AIDS. Tại vùng cận Sahara
châu Phi, với dân số chỉ chiếm 10% dân số thế giới, nhưng đã có khoảng 25 triệu người (23,5 - 26,6)
đang sống bị nhiễm HIV, chiếm 70,8% tổng số người nhiễm HIV/AIDS còn sống toàn thế giới. Trong
năm 2012, tại vùng cận Sahara, ước tính có khoảng 1,6 triệu (1,4 - 1,8) người mới bị nhiễm HIV
[132], [133], [142]. Ước tính trong năm 2012, AIDS đã cướp đi sinh mạng của khoảng 1,2 triệu người
dân châu Phi (1,1 - 1,3), chiếm 75% số người đã chết do AIDS trên toàn thế giới [134], [142].
Tại châu Á và Thái Bình Dương: ước tính có khoảng 5 triệu người đang sống bị nhiễm
HIV/AIDS. Trong năm 2012, ước tính có 351.000 người mới bị nhiễm HIV và có khoảng 261.000
người bị chết do AIDS [132], [142].
Tại Ân Độ, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở người trưởng thành là 0,27% với số lượng khoảng 2,1
triệu người đang sống bị nhiễm HIV/AIDS, trong đó 39% là phụ nữ và 7% là trẻ em. Nhìn chung,
dịch HIV/AIDS của Ân Độ đang chậm lại, với mức giảm 57% số ca nhiễm mới năm 2011 so với năm
2000, và giảm 29% các trường hợp tử vong liên quan đến AIDS năm 2011 so với 2007 [131], [132],
[142].


Đỡng
Tá] &
A Ali ATriinn
iTUmjflU TVTg"
860000 7.3 trie u
ĐốngÁ
//"/ 13'thểu
SBC
// '990000- 1jí’ẻu]

/
Ễ2C
Tilin g&llỉmPhĩ
[55M'-Ũĩlél]
/Tỉ'
g
\ \ \ \ \\\
Vine Ca "toe
ĐÓI 1000Í Bin í Đông
' 2 5 0 000
MUỊ
Ham Á
L
J . J . 1 [$OQõữ-péõooq ị
.i.s.treu .
Căr-SaharanCìiãu Pm
1]
mi
25 trie u
f
TrunqẴ Nam Mỹ
CIHIIĐỊÌ duơng
pisrej-frf.hj]
f
ỉ.%? HlSu
51 000
v\\ \ \ • n!
/
.
NN\\ \ \


f

Hình 1.2. Ước tính số còn sống nhiễm HIV/AIDS toàn cầu đến cuối năm 2012
Nguồn: Báo cáo của UNAIDS [142]
Tại vùng Nam Á và Đông Nam châu Á, trong năm 2012, có khoảng 270.000 người mới bị
nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV/AIDS còn sống ở vùng này lên 3,9 triệu người. Các nước
trong vùng có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao là Thái Lan, Campuchia, Myanmar [131], [132], [142].
Tại châu Mỹ La tinh: mức độ lây nhiễm HIV ít thay đổi, ước tính có 86.000 người trong vùng
bị nhiễm HIV trong năm 2012, nâng tổng số người đang sống bị nhiễm HIV/AIDS lên 1,5 triệu
người. QHTD không an toàn giữa nam giới với nam giới và nam giới với gái mại dâm là con đường
lây nhiễm HIV chủ yếu trong khu vực [142].
Tại vùng Caribe, tính đến năm 2012, ước tính có 250.000 người nhiễm HIV/AIDS đang còn
sống. Trong năm 2012, có 12.000 người mới bị lây nhiễm HIV và 11.000 người đã chết do AIDS. Tỷ
lệ nhiễm HIV trung bình ở người lớn vùng này là 1%. Con đường lây truyền chủ yếu vẫn là quan hệ
tình dục khác giới không an toàn [132], [142].
Tại khu vực Đông Âu và Trung Á: ước tính có khoảng 1,3 triệu người đang sống bị nhiễm
HIV, 90% số người này đang sống tại Nga và Ucraine. Trong năm 2012 có 130.000 người trong vùng
mới bị lây nhiễm HIV và 91.000 người đã chết vì AIDS. Tiêm chích ma túy là con đường lây truyền
HIV chủ yếu tại khu vực này với 62% những trường hợp mới nhiễm HIV là do TCMT [142].
Tại các nước phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ: ước tính có khoảng 2,16 triệu người đang sống
bị nhiễm HIV/AIDS, trong đó có khoảng 77.000 người mới bị nhiễm HIV trong năm 2012. Chỉ riêng
tại Hoa Kỳ, trong năm 2012 ước tính có 49.000 ca nhiễm mới HIV, đưa tổng số người bị nhiễm
HIV/AIDS còn sống lên 1,3 triệu người, tỷ lệ lây nhiễm qua tình dục đồng giới nam chiếm tới 38,8%
tổng số nhiễm mới ở nam giới trong năm 2012 [112], [142].

1.2.2.

Tại Việt Nam



Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1990 ở th ành
phố Hồ Chí Minh. Tính đến hết năm 2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 210.703, số
bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 61.669 và 63.372 trường hợp tử vong do AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV
toàn quốc theo số báo cáo là 239 người trên 100.000 dân, tỉnh Điện Biên vẫn là địa phương có tỷ lệ
nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất cả nước (1.015,8), tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh (677),
thứ 3 là Thái Nguyên (610,6) [4], [101].
Về địa bàn phân bố dịch: tính đến hết năm 2012, toàn quốc đã phát hiện người nhiễm
HIV/AIDS tại 79,1% xã/phường (tăng 1,6% so với cuối năm 2011), gần 98% quận/huyện và 63/63
tỉnh/thành phố [4], [101].
Riêng trong năm 2012, cả nước phát hiện 14.127 trường hợp nhiễm HIV, 6.734 bệnh nhân
AIDS và 2.149 người tử vong do AIDS. So với năm 2011, số trường hợp nhiễm HIV phát hiện và báo
cáo giảm 26%, số người tử vong giảm gần 2 lần. 10 tỉnh có số trường hợp xét nghiệm phát hiện
dương tính lớn nhất trong năm 2012 và tỷ lệ tương ứng so với tổng số cả nước trong năm 2012, bao
gồm thành phố Hồ Chí Minh: 2.721 trường hợp (chiếm 19,3%); Hà Nội: 751 trường hợp (chiếm
5,3%); Điện Biên: 671 (chiếm 4,8%); Nghệ An: 575 trường hợp (chiếm 4,1%); Thái Nguyên: 479
trường hợp (chiếm 3,2%); Cần Thơ: 422 trường hợp (chiếm 3,0%); Thanh Hóa: 335 trường hợp
(chiếm 2,4%); Yên Bái: 328 trường hợp (chiếm 2,3%). Các tỉnh có số người nhiễm HIV/AIDS phát
hiện trong năm 2012 tăng với năm 2011, bao gồm Đồng Nai (0,6%); Đắk Lắk (0,4%), Cần Thơ
(0,3%); Tây Ninh (0,3%); Bình Định (0,1%); các tỉnh khác tăng nhẹ như Trà Vinh, Lào Cai [4].

1.2.3.

Tại Nghệ An.
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Nghệ An là vào năm 1996. Tính đến

ngày 31/12/2013, lũy tích số người nhiễm HIV ở Nghệ An đã lên tới 7.294 người, với 4.323 người
chuyển sang AIDS, 2.571 người đã chết do AIDS. Phân bố theo địa dư, 20/20 huyện/thành/thị, với
413/480 xã phường (86,0%) đã có người nhiễm HIV/AIDS. Hiện tại, Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6 của
cả nước về số người nhiễm HIV/AIDS còn sống [82], [83].



Bảng 1.1. Phân bố lũy tích nhiễm HIV/AIDS tại Nghệ An tính đến 31/12/2013
Thứ tự
1
2

Địa phương

Nhiễm HIV

Chuyển AIDS

Chết do AIDS

TP. Vinh

1.928

1.348

Quế Phong

1.073

324

152

866


3

Tương Dương

851

537

371

4

Quỳ Châu

497

233

130

5

Đô Lương

393

242

Diễn Châu


346

229

117

Nhiễm HIV

Chuyển AIDS

Chết do AIDS

312

189

91

159

94

6
Thứ tự
7
8
9

Địa phương

TX Thái Hoà
Thanh Chương

262

166

Con Cuông

232

172

Quỳ Hợp

225

144

72

Nghĩa Đàn

177

109

51

Nghi Lộc


146

85

38

13

Yên Thành

145

93

39

14

Tân Kỳ

134

76

29

15

Nam Đàn


132

100

68

Hưng Nguyên

129

99

56

Quỳnh Lưu

124

77

32

TX Cửa Lò

79

47

35


Kỳ Sơn

63

32

24

Anh Sơn

46

10
11
12

16
17
18
19
20

Cộn

g

7.294

28

4.323

126

14
2.571

Nguồn: Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Nghệ An
Theo số liệu báo cáo của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Nghệ An: trong 5 năm từ 2009


đến 2013, số liệu người nhiễm HIV/AIDS mới phát hiện toàn tỉnh nằm trong khoảng từ 553 - 575,
riêng năm 2013 là 510 người, giảm 65 người so với năm 2012. Thành phố Vinh hiện vẫn là địa
phương có số người nhiễm cao nhất với 1.928 người. 3 huyện có tổng số người nhiễm tăng cao nhất
trong 5 năm (2009-2013) là Quế Phong (818), Tương Dương (353), Quỳ Châu (308). Đây là 3 huyện
nằm ở miền núi phía Tây của Nghệ An và giáp với biên giới Cộng hòa nhân dân Lào. Như vậy, mặc
dù dịch HIV/AIDS ở Nghệ An có xu hướng chững lại, nhưng trong khi các huyện vùng trung tâm và
đồng bằng có xu hướng giảm nhẹ, thì các huyện miền núi cao dịch lại tăng cao. Điều này phù hợp với
thực tế là tình hình buôn bán ma túy và số người NCMT tại các huyện đang tăng nhanh trong những
năm gần đây. Bên cạnh đó, do điều kiện phức tạp về địa lý, hạn hẹp về kinh phí nên độ bao phủ của
các chương trình dự án, các dịch vụ về phòng chống HIV/AIDS tại các địa phương này còn rất thấp,
đặc biệt là chương trình can thiệp giảm hại [82], [83].
Về phân bố nhiễm mới HIV qua các năm cho thấy: nữ giới nhiễm HIV đang có xu hướng
tăng, nữ chỉ chiếm dưới 10,0% số nhiễm mới hàng năm từ 1999 - 2003, nhưng đã tăng lên đến trên
20,0% trong 3 năm gần đây nhất.
Phân tích nhiễm HIV theo nhóm đối tượng: đối tượng TCMT chiếm chủ yếu trong số nhiễm
mới hàng năm và đang có xu hướng giảm dần, từ 94,7% năm 2000, xuống 90,8% năm 2006 và 76,4%
năm 2013. Ngược lại, lây nhiễm HIV qua QHTD với các nhóm bạn tình lại tăng dần qua các năm: từ
2,5% năm 2000 lên 6,7% năm 2006 và 21,8% năm 2013.
Phân tích nhiễm HIV/AIDS theo tuổi: đang có xu hướng tăng dần của nhóm tuổi 30 - 39 và

giảm dần của nhóm tuổi 20 - 29 từ năm 2010 đến nay. Nhóm tuổi 20 - 29 giảm từ 51,9% (2010)
xuống 35,1 (2013), nhóm 30 - 39 từ 34,6% (2010) lên 50,2% (2013).
Số liệu giám sát trọng điểm qua các năm cho thấy: tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm TCMT cao
nhất vào năm 2005 (34,3%), sau đó giảm dần qua các năm và ở mức 12% năm 2012 và 2013. Nhóm
PNBD có tỷ nhiễm HIV cao trong những năm đầu và cao nhất vào năm 2008 (7,8%), giảm dần những
năm gần đây và còn 1% năm 2013. Nhóm nam mắc BLTQĐTD có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất năm
2007 (6,8%) và giảm xuống còn 2,0% năm 2013. Đặc biệt, từ năm 2009 Nghệ An bắt đầu lấy mẫu
giám sát trọng điểm nhóm đồng bào dân tộc miền núi tuổi từ 15 - 49 và kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm
trong nhóm này rất cao, cao nhất là năm 2010 với 5,5%, 2012 là 4,5% và năm 2013 là 1,5%. Điều
này cũng phù hợp với tình trạng số người nhiễm HIV/AIDS phát hiện mới tăng nhanh tại các địa
phương này và chủ yếu lây nhiễm trong nhóm NCMT [82], [83].

1.3.

HÀNH VI NGUY CƠ LÂY TRUYỀN HIV TỪ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS
Nguy cơ lây nhiễm HIV được định nghĩa như là khả năng của một người có thể bị lây nhiễm

HIV. Những hành vi nhất định tạo ra, làm tăng và duy trì khả năng lây nhiễm được coi là nguy cơ


(UNAIDS, 1998). Những hành vi đó bao gồm TCMT, QHTD không an toàn và QHTD với nhiều bạn
tình trong thời gian dài không sử dụng hoặc ít sử dụng BCS (UNAIDS, 2007). Nguy cơ nhiễm HIV
nảy sinh do cá nhân bị lôi kéo vào các hành vi nguy cơ từ nhiều lý do khác nhau như thiếu thông tin,
không có khả năng đàm phán về tình dục an toàn, không sẵn có BCS... Những năm gần đây, sự tiếp
cận với HIV/AIDS đã được mở rộng không chỉ tập trung vào nguy cơ cá nhân mà còn vào cả yếu tố
môi trường, xã hội, cũng như vai trò ảnh hưởng đến nguy cơ từ các mối quan hệ và bất bình đẳng giới
(UNAIDS, 1998) [59], [135].
1.3.1. Tiêm chích ma túy không an toàn.
Hiện nay, Việt Nam và một số nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương lây nhiễm HIV
trong nhóm những người TCMT đã, đang và tiếp tục có xu hướng gia tăng. Tại Việt Nam, nghiên cứu

của Nguyễn Trần Hiển và cộng sự trong 1.519 người TCMT tại TP. Hồ Chí Minh về yếu tố nguy cơ
nhiễm HIV và dùng chung BKT của họ. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV tăng từ 27,0% năm 1997
lên 38,0% vào năm 1998 ở các cơ sở cai nghiện, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm TCMT tại cộng đồng
cũng tăng cao hơn [46].
Năm 1997, trong một nghiên cứu ở các đối tượng TCMT nhiễm HIV tại 5 tỉnh miền Bắc,
Nguyễn Chí Phi và cộng sự đã nhận thấy: 96,0% các đối tượng TCMT, HIV dương tính đã từng dùng
BKT, chỉ có 5,0% trong số đối tượng nghiên cứu biết cách và đã làm sạch BKT đúng cách và 18,9%
người nhiễm HIV/AIDS dùng BKT sạch [65].
Năm 2002, điều tra của ngân hàng Phát triển châu Á, cho thấy: tỷ lệ dùng BKT của nhóm
người nhiễm HIV/AIDS đã từng TCMT rất cao (Đồng Tháp: 61,5%, Kiên Giang: 55,2% Lai Châu:
54,8% và An Giang: 25,0%) [21]. Cũng trong năm 2002, điều tra lượng giá nguy cơ nhiễm
HIV/AIDS của ngân hàng Thế giới cũng cho thấy: tỷ lệ đối tượng còn TCMT trong tháng trước điều
tra cao (Thanh Hoá: 93,0%, Nghệ An 81,7%, Hà Tĩnh: 77,8%, Bình Dương: 88,9%, Long An:
86,8%). Tỷ lệ đối tượng dùng lại BKT trong tháng trước điều tra cũng cao (Thanh Hoá 97,5%, Nghệ
An: 47,6%, Hà Tĩnh: 55,6% , Bình Dương: 67,5%, Long An: 32,9% [17].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà (2004) về hành vi TCMT trong nhóm người nhiễm
HIV/AIDS tại tỉnh Phú Thọ cho kết quả: Hầu hết đối tượng đã từng TCMT (97,8%), tỷ lệ TCMT
trong tháng trước điều tra cao (79,8%) và gần một nửa (47,9%) người nhiễm HIV/AIDS đưa BKT đã
qua sử dụng cho người khác dùng [41]. Nghiên cứu của Lê Trường Sơn tại Thanh Hóa cũng cho thấy:
89,4% đối tượng đã từng TCMT và 48,2% trong số đó vẫn tiếp tục dùng BKT sau khi nhiễm HIV
[72].
Các số liệu trên cho thấy mức độ nguy hiểm của đại dịch HIV/AIDS không chỉ thể hiện ở tình
trạng lây lan HIV từ người nhiễm ra cộng đồng, mà còn ở tình trạng tái nhiễm vi rút đối với người đã


nhiễm HIV.
Quan hệ tình dục không an toàn

1.3.2.


Quan hệ tình dục không an toàn cũng có nguy cơ lây nhiễm HIV cao tại Việt Nam nhất là
nhóm người nhiễm HIV/AIDS vì họ vẫn tiếp tục quan hệ tình dục không an toàn với các loại bạn tình
sau khi biết đã nhiễm HIV.
Khi nghiên cứu hành vi quan hệ tình dục của 396 người TCMT có HIV dương tính tại 5 tỉnh
miền Bắc Việt Nam, Nguyễn Chí Phi và cộng sự đã cho nhận xét: tỷ lệ có quan hệ tình dục ở nhóm
đối tượng này rất cao, hầu hết có quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ tình dục lần đầu thường
với gái mại dâm và có liên quan đến việc sử dụng ma tuý, có 48,6% sử dụng BCS trong quan hệ tình
dục, nhưng chỉ có 71,7% trong số này sử dụng BCS đúng cách [65].
Kết quả điều tra của ngân hàng Phát triển châu Á năm 2002 trên các đối tượng nhiễm
HIV/AIDS cho thấy: tỷ lệ dùng BCS trong lần quan hệ tình dục gần nhất của đối tượng tại Lai Châu:
50,0%, An Giang: 50,0%, Kiên Giang: 34,7%, Đồng Tháp: 23,0%. Mặt khác, phần lớn người nhiễm
HIV/AIDS có quan hệ tình dục với gái mại dâm trong 12 tháng trước điều tra, nhưng tỷ lệ luôn sử
dụng BKT khá thấp (Lai Châu: 42,3%, An Giang: 34,6%, Kiên Giang: 22,4%, Đồng tháp: 19,6%)
[21].
Kết quả điều tra của ngân hàng Thế giới năm 2002 cũng nhận xét: người nhiễm HIV/AIDS
không thường xuyên sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình, nhất là với gái mại dâm [17].

1.3.3.

Nguy cơ phối hợp
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy: có sự đan xen giữa hai nhóm hành vi nguy cơ này. Một

tỷ lệ khá cao người nhiễm HIV/AIDS vừa TCMT có dùng chung BKT, vừa có QHTD không dùng
BCS thường xuyên. Mặt khác, một số người nhiễm HIV/AIDS vừa có hoạt động mại dâm không
dùng BCS, vừa TCMT có dùng chung BKT. Do vậy, một số đối tượng nhiễm HIV/AIDS đã không
thể xác định được nguyên nhân lây nhiễm HIV của bản thân do TCMT hay do QHTD [3], [18], [73],
[78].
Số liệu giám sát hành vi vòng 1 tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng: những hành vi đan xen có thể
có những nguy cơ lây nhiễm HIV đặc biệt cao. Gái mại dâm đồng thời TCMT có nguy cơ lây truyền
HIV cao hơn rất nhiều so với những gái mại dâm không TCMT. Người TCMT có QHTD với GMD

có nguy cơ lây truyền HIV cao hơn rất nhiều so với những đối tượng TCMT không có QHTD với
GMD do họ không thường xuyên sử dụng BCS khi
QHTD, có nhiều bạn tình hơn và dùng chung BKT trong TCMT thường xuyên hơn [3], [18], [98].
Theo nhận định của UNAIDS: sự kết hợp giữa TCMT và mại dâm là một sự phối hợp chết người và
đang châm ngòi cho một vụ dịch nghiêm trọng ở Việt Nam. Tại thành phố Hồ Chí Minh, một nghiên


cứu đã cho thấy: 38,0% gái mại dâm có TCMT và khoảng một nửa số đó đã bị nhiễm HIV, trong khi
chỉ 8,0% gái mại dâm không TCMT bị nhiễm bệnh. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra: tỷ lệ GMD có
TCMT sử dụng BCS chỉ bằng một nửa của số GMD không TCMT; tỷ lệ sử dụng BCS ở gái mại dâm
đường phố có TCMT, dùng chung BKT thấp hơn 6 lần so với GMD không TCMT. Nói cách khác,
những GMD có nguy cơ lây nhiễm HIV cao nhất lại chính là người ít thường xuyên sử dụng BCS
nhất [3], [39], [51].
Ngoài ra, nguy cơ lây truyền từ mẹ nhiễm HIV/AIDS sang con cũng xuất hiện ngày càng
nhiều hơn và bắt đầu được nghiên cứu, tìm hiểu.
1.4. TÌNH HÌNH TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

1.4.1.

Trên thế giới
Cho tới nay, thế giới vẫn chưa có thuốc điều trị khỏi và chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu

về HIV/AIDS, vì vậy trong những năm qua các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa tác hại và sự
lan truyền HIV ra cộng đồng là dự phòng với 3 mục tiêu chính:

-

Hạn chế tốc độ lây lan HIV.

-


Làm chậm quá trình tiến triển của bệnh.

-

Làm giảm ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội của HIV/AIDS.
Tại các nước đang trong giai đoạn dịch tập trung, HIV chủ yếu lan truyền trong các nhóm
nguy cơ cao (TCMT và GMD). Do đó, các hoạt động giảm tác hại được thực hiện tập trung vào các
nhóm này nhằm hạn chế sự lây truyên HIV ra cộng đồng. Bốn nhóm biện pháp chính trong phòng
chống HIV/AIDS, đó là [16], [22], [60]:

-

Thông tin, giáo dục, truyền thông và truyền thông thay đổi hành vi.

-

Can thiệp giảm tác hại trong nhóm đối tượng nguy cơ cao (cấp phát BKT sạch, cấp phát và tiếp thị xã
hội BCS, điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone...).

-

Giám sát HIV/AIDS (giám sát huyết thanh, giám sát hành vi, giám sát thế hệ 2), phát hiện và điều trị
sớm các BLTQĐTD, bệnh lao.

-

Tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị người nhiễm HIV/AIDS.
Hoạt động tư vấn, xét nghiệm tự nguyện là một nội dung quan trọng. Đó là chương trình can
thiệp dự phòng HIV dựa trên nhu cầu của đối tượng tư vấn, nó cung cấp cơ hội cho đối tượng hiểu

được nguy cơ nhiễm HIV và biết được kết quả xét nghiệm HIV của mình một cách bí mật [23], [27].
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, TVXNTN là bộ phận quan trọng trong chương trình phòng chống
HIV/AIDS, đóng vai trò vừa dự phòng lây truyền HIV, vừa chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS.
Dựa trên nền tảng TVXNTN, các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và hỗ trợ khác được hình thành như
chăm sóc y tế, giáo dục đồng đẳng, can thiệp giảm tác hại, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con...


[23], [24], [27]. Các nghiên cứu trên thế giới gần đây còn chỉ ra rằng TVXNTN là loại hình can thiệp
có chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao trong phòng lây nhiễm HIV.
Hiện nay, số lượng người sử dụng xét nghiệm HIV và dịch vụ tư vấn đã tăng gấp nhiều lần
trong 10 năm qua. Tuy vậy, tỷ lệ đáp ứng so với số muốn làm xét nghiệm vẫn còn thấp. Trong năm
2003, ước tính có 0,2% người lớn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình nhận được các dịch vụ
TVXNTN. Họ ngại không đi xét nghiệm vì nhiều nguyên nhân, như: khó tiếp cận các dịch vụ xét
nghiệm và điều trị ; sợ kỳ thị và phân biệt đối xử; sợ xét nghiệm sẽ dương tính. Điều đó đồng nghĩa
với việc hàng ngàn cơ hội tiếp cận điều trị, chăm sóc, hỗ trợ và dự phòng đang bị bỏ qua. Để giải
quyết vấn đề này, UNAIDS và WHO đã và đang hỗ trợ chương trình mở rộng tiếp cận với xét nghiệm
và tư vấn HIV thông qua việc phát triển các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm ban đầu lồng ghép với các
hoạt động chăm sóc sức khỏe sẵn có tại các cơ sở y tế. Những nỗ lực như vậy không những cần thiết
cho cải thiện sức khỏe từng cá nhân mà còn thiết yếu cho tiếp cận toàn cầu trong dự phòng, chăm sóc,
hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS [138].
Hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS cũng đang được đặt ra là một trọng tâm
của chương trình phòng chống HIV/AIDS. Zămbia là một trong những nước châu Phi đầu tiên thực
hiện dịch vụ chăm sóc HIV/AIDS tại nhà. Dịch vụ này đã được quốc tế công nhận vì chất lượng hoạt
động cao. Kinh nghiệm phòng chống AIDS tại một số nước như Brazil, Ân Độ, Thái Lan và nhiều
quốc gia khác cũng cho thấy: tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS là biện pháp tốt
nhất để khống chế, đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS do giảm sự sợ hãi, kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan
đến HIV/AIDS, làm tăng số người đến xét nghiệm và tư vấn HIV/AIDS [7], [136].
Nhận thức tầm quan trọng của điều trị, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS, chính
sách của UNAIDS về vấn đề này nêu rõ: điều trị, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm
HIV/AIDS là một nhân tố quan trọng trong việc đáp ứng bệnh dịch, không chỉ trực tiếp mang lại lợi

ích cho người nhiễm, mà còn làm giảm những tác động đến kinh tế, xã hội và đẩy mạnh dự phòng lây
nhiễm HIV. Chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV/AIDS có các nội dung: tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ
tâm lý, hỗ trợ dinh dưỡng, thực phẩm và điều trị (điều trị thuốc kháng vi rút và điều trị các bệnh
nhiễm trùng cơ hội) [136].
Với các nội dung chăm sóc và hỗ trợ dinh dưỡng, thực phẩm, UNAIDS xác định: dinh dưỡng
tốt đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS. Dinh dưỡng đầy
đủ rất cần thiết để duy trì hệ thống miễn dịch, giữ vững hoạt động thể chất, đảm bảo chất lượng sống
con người. Ở hầu hết các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi HIV/AIDS, sự khan hiếm lương thực và đói
nghèo đã làm cho việc đảm bảo dinh dưỡng gần như không thực hiện được. Thực phẩm là một phần
trong gói liệu pháp kháng vi rút toàn diện. Nhu cầu hỗ trợ về thực phẩm và dinh dưỡng cũng nằm


trong chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Vì vậy, dinh dưỡng nên trở thành một
nội dung lồng ghép trong đáp ứng của mỗi quốc gia với HIV/AIDS. Đặc biệt, chương trình của
UNAIDS đã khuyến cáo việc tăng cường cam kết chính sách với dinh dưỡng và HIV trong khuôn khổ
chương trình nghị sự về sức khỏe của mỗi nước, tăng cường thành tố dinh dưỡng trong các chính
sách và chương trình HIV/AIDS, cũng như lồng ghép chương trình HIV/AIDS với chính sách và
chương trình dinh dưỡng quốc gia [137].
Về nội dung điều trị kháng vi rút sao mã ngược (ARV): Vấn đề hỗ trợ thuốc điều trị kháng vi
rút sao mã ngược hiệu quả cao được bắt đầu thực hiện từ năm 1996 đã mở ra những triển vọng mới,
mang lại hy vọng kéo dài cuộc sống cho người nhiễm HIV/AIDS. Ở các nước phát triển, việc kết hợp
TVCSHT với liệu pháp điều trị ARV gần đây đã được triển khai rộng rãi làm cải thiện cuộc sống cho
những người nhiễm HIV/AIDS, đồng thời còn làm thay đổi nhận thức về HIV/AIDS từ một bệnh chết
người sang một bệnh mạn tính, có thể điều trị được [62]. Thế nhưng, với những nước nghèo hơn, đặc
biệt các khu vực dịch HIV/AIDS đang phát triển mạnh, sự thay đổi nhận thức này chưa được coi
trọng. Năm 2003, ở các nước đang phát triển, trong số 6 triệu người cần được điều trị ARV thì chỉ
khoảng 480.000 người (8,0%) nhận được thuốc. Tháng 9 năm 2003 Tổ chức Y tế Thế giới, Chương
trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS đã tuyên
bố việc tiếp cận với điều trị ARV là một vấn đề cấp bách toàn cầu. Những tổ chức này cùng các đối
tác khác đã kêu gọi nỗ lực nhằm thực hiện mục tiêu có 3 triệu người (trong tổng số 7 triệu người cần

điều trị) ở các nước đang phát triển (trong đó có các nước thuộc khu vực Thái Bình Dương:
Campuchia, Trung Quốc, Papua New Guinea và Việt Nam) được điều trị ARV vào cuối năm 2005
(sáng kiến 3x5 - Three by Five Initiative). Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2005, mục tiêu này mới thực
hiện đạt khoảng 1,3 triệu người được điều trị ARV [8], [43].
Do các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ và phối hợp điều trị HIV/AIDS còn ở quy mô nhỏ hoặc
chưa có, một số nước đã gặp khó khăn trong việc thiết lập hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện (gồm
các dịch vụ y tế, hỗ trợ tâm lý, dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS và điều phối sự tham gia của các cơ
quan ban ngành) để thúc đẩy và mở rộng điều trị ARV. Các dự án thực địa được triển khai thí điểm là
cơ sở để nhân rộng mô hình. Việc sử dụng hệ thống chăm sóc toàn diện sẵn có để mở rộng điều trị
ARV được áp dụng ở nhiều nước như Brazil, Thái Lan... Tại Thái Lan, với sự cam kết mạnh mẽ của
chính phủ, ngày càng có nhiều người nhiễm HIV/AIDS được tiếp cận với các dịch vụ TVCSHT, đặc
biệt là dịch vụ điều trị ARV. Năm 2004 có 50.000 người tiếp cận dịch vụ này, năm 2005 có 80.000
người và dự kiến đến cuối năm 2006 toàn bộ người nhiễm HIV/AIDS ở Thái Lan được tiếp cận,
chăm sóc và điều trị ARV [43].
Để giải quyết những vấn đề thực tế trên, UNAIDS và các đối tác hiện đang tập trung vào nội


dung nâng cao năng lực cho các chương trình chăm sóc sức khỏe ở những nước có thu nhập thấp và
trung bình nhằm cung cấp những dịch vụ toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS. Sự tăng cường hợp
tác và phối hợp giữa nhiều ban ngành, đoàn thể đã đáp ứng nhu cầu của người nhiễm, giải quyết mục
tiêu dự phòng lây nhiễm HIV, giảm nhẹ đói nghèo, giảm kỳ thị và phân biệt đối xử. Sự phối hợp này,
thông thường mang lại hiệu quả tối ưu tại cộng đồng. Chiến lược nhằm giải quyết đồng thời các vấn
đề sức khỏe bao gồm: xây dựng và tăng cường các cơ sở y tế sẵn có, tăng số lượng và chất lượng cán
bộ y tế, tăng các dịch vụ phối hợp và lồng ghép [136].
Với những nỗ lực không ngừng đó, tính đến cuối năm 2012, thế giới đã có 9,7 triệu người
tiếp cận được với điều trị ARV, trong đó có 7,5 triệu người ở châu Phi. Số trẻ em dưới 15 tuổi được
điều trị là 630.000 và có 900.000 phụ nữ mang thai được điều trị DPLTMC. Nhu cầu đến năm 2015,
cần đưa được 15 triệu người vào điều trị ARV [141], [143].
Ngoài ra, những kinh nghiệm trên thế giới cũng đã được đúc rút trong việc triển khai nội
dung TVCSHT cho người nhiễm HIV/AIDS, đó là [62]:

- Đơn giản và chuẩn hóa.

-

Có sự tham gia của những người nhiễm HIV/AIDS.

-

Thực hiện trong một mạng lưới chăm sóc, hỗ trợ thích hợp, sẵn có và với gói dịch vụ toàn diện (gồm:
tư vấn và xét nghiệm HIV, chăm sóc lâm sàng, hỗ trợ tâm lý và kinh tế xã hội, dự phòng lây nhiễm
HIV và huy động sự hợp tác).

1.4.2.
1.4.2.1.

Tại Việt Nam
Những kết quả đạt được
Năm 1992, Bộ Y tế đưa ra hướng dẫn thành lập mạng lưới tư vấn toàn quốc từ cấp tỉnh/thành

phố tới quận/huyện, xã/phường. Hoạt động tư vấn đã được thực hiện từ thời điểm đó. Mặc dù đã
thành công trong việc xây dựng hệ thống xét nghiệm ở tất cả các tỉnh/thành phố, tuy vậy, trước năm
2000 xét nghiệm tự nguyện chưa thực sự được thực hiện tại Việt Nam. Hầu hết các xét nghiệm được
làm trước đó là bắt buộc và gắn với giám sát dịch tễ học HIV (giám sát trọng điểm). Việc xét nghiệm
sẵn có không làm cho nó trở nên tự nguyện, tư vấn trước và sau xét nghiệm mới chỉ thực hành một
cách qua loa. Theo kết quả của chương trình giám sát hành vi năm 2000, chỉ có khoảng một nửa
GMD và đối tượng TCMT đã từng làm xét nghiệm HIV tự nguyện [98].
Về nội dung chăm sóc, hỗ trợ: tháng 4 năm 1996, Ban AIDS Bộ Y tế tiến hành triển khai thí
điểm mô hình Quản lý - Chăm sóc - Tư vấn tại thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Khánh Hoà.
Sau một năm thực hiện, mô hình đã được nhân rộng ra 20 tỉnh/thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất
vào thời điểm đó. Tuy nhiên, hoạt động của mô hình đã gặp nhiều khó khăn, nhất là với nội dung tư

vấn. Mặt khác, do thiếu thuốc điều trị, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được quản lý, chăm sóc, hỗ trợ


thấp cùng sự sợ hãi dẫn đến kỳ thị, phân biệt đối xử đã làm hiệu quả của mô hình không cao. Tại Đà
Nẵng, 71,1% người nhiễm HIV/AIDS và 45,0% thân nhân của họ không muốn người khác biết tình
trạng nhiễm HIV của mình hoặc người thân [58].
Tại Việt Nam, người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu đang sống ở 2 khu vực: tại cộng đồng và
trong các trại tạm giam, trại giam, các cơ sở giáo dục lao động xã hội (thường gọi là các trung tâm 05,
06). Tại cộng đồng, việc quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn do
đối tượng thường xuyên thay đổi địa chỉ, phải chuyển đến các địa phương khác sinh sống vì sợ bị
phân biệt đối xử và nhiều người phải đi làm ăn, lao động xa quê để kiếm sống. Mặt khác, lực lượng
cán bộ y tế mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc nên khó đảm đương được công việc khi số người nhiễm
HIV và bệnh nhân AIDS gia tăng nhanh chóng. Kinh phí dành cho những nội dung hoạt động này
cũng rất hạn hẹp. Tính đến cuối năm 2000, trong số những người nhiễm HIV/AIDS quản lý được
theo danh sách (khoảng 45% số phát hiện), chỉ có dưới 10% được khám sức khỏe định kỳ. Một số địa
phương triển khai các nhóm/câu lạc bộ người nhiễm, như: “Bạn giúp bạn”, “Vì ngày mai tươi sáng”,
“Bầu trời xanh”, “ Hoa phượng đỏ”... nhưng số người tham gia sinh hoạt thấp, mới chỉ khoảng 16%
số người nhiễm phát hiện tham gia [15], [95], [96]. Trong trại tạm giam, trại giam, các trung tâm 05,
06, những người nhiễm HIV/AIDS hầu như không được tư vấn và chăm sóc. Một mặt, người nhiễm
không được thông báo về tình trạng nhiễm HIV vì sợ những phản ứng tiêu cực, mặt khác, nhân lực,
cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế ở những nơi này rất hạn chế nên cũng không đáp ứng được nhu
cầu điều trị. Chỉ đến khi ra trại, một số người nhiễm mới được thông báo về tình trạng bệnh và khi về
nhà họ thường sống tiêu cực và tiếp tục có hành vi nguy cơ lây truyền HIV cho cộng đồng dân cư.
Với sự quan tâm của chính phủ và sự hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, các
chương trình chăm sóc, hỗ trợ, điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS từ năm 2005 đã được tăng cường,
đẩy mạnh và đã có những tiến bộ rõ rệt, đạt được nhiều kết quả khả quan:
- Hệ thống y tế nhà nước đang được củng cố ở các tuyến để đáp ứng nhu cầu chăm sóc, hỗ trợ và điều
trị người nhiễm HIV/AIDS.
+ Tuyến trung ương: Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện nhiệt đới TP. Hồ Chí
Minh và Bệnh viện Trung ương Huế có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức thực hiện chăm sóc, hỗ trợ và

điều trị bệnh nhân AIDS; kiểm tra, giám sát hỗ trợ và đánh giá các hoạt động tại địa phương.
+ Tuyến tỉnh/thành phố: triển khai các hoạt động TVCSHT và điều trị bệnh nhân nội, ngoại
trú. Đặc biệt, tại 40 tỉnh/thành phố, với sự hỗ trợ của dự án “Dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS tại
Việt Nam” (dự án LIFE-GAP), đã thiết lập các phòng khám ngoại trú, phòng TVXNTN, gắn tư vấn
xét nghiệm HIV với dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
+ Tuyến quận/huyện: dự án “Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và các


hoạt động phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng tại Việt Nam” (dự án Quỹ Toàn cầu) ngoài
việc tổ chức thực hiện các phòng TVXNTN và hoạt động chăm sóc, hỗ trợ cho người nhiễm tại tuyến
tỉnh, còn thiết lập hệ thống tư vấn, xét nghiệm và chăm sóc hỗ trợ tại 100 quận/huyện thuộc 20
tỉnh/thành phố. Mục tiêu của dự án nhằm tăng cường năng lực cho hệ thống y tế sẵn có tuyến
quận/huyện để người nhiễm HIV/AIDS có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ TVCSHT tại nơi họ sinh
sống, bảo đảm việc hỗ trợ tuân thủ điều trị ARV và chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm lâu dài.

-

Chương trình phòng,chống HIV/AIDS Quốc gia trong thời gian qua đã được đầu tư kinh phí và kỹ
thuật cho các hoạt động TVCSHT, bao gồm cả điều trị ARV. Chỉ tính riêng việc tiếp cận thuốc kháng
HIV: năm 2002, chương trình phòng chống HIV/AIDS đã dành 5% ngân sách để mua thuốc điều trị,
tỷ lệ này tăng lên 7% vào năm 2003, 13% năm 2004 và năm 2005 là 15%. Cùng với sự hỗ trợ của các
dự án điều trị như PEPFAR, Quỹ Toàn cầu, Quỹ Clinton, dự án ESTHER và nguồn thuốc của Chương
trình mục tiêu Quốc gia, đến cuối năm 2006 có khoảng trên 7.000 bệnh nhân (chiếm khoảng 30%
bệnh nhân đủ tiêu chuẩn điều trị) đã tiếp cận được thuốc kháng HIV [54].

-

Tính đến 30/9/2012, trên toàn quốc có 69.882 người đang được điều trị bằng thuốc kháng vi rút
(ARV), trong đó có 66.167 người lớn và 3.715 trẻ em. Tổng số bệnh nhân điều trị tại 10 tỉnh/thành
cao nhất cả nước là 48.367, chiếm 69,2% số người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị toàn quốc. Thành

phố Hồ Chí Minh có số người đang điều trị ARV cao nhất cả nước với 21.350 người, chiếm 30,6% số
bệnh nhân đang điều trị trên toàn quốc [4].

I.4.2.2.

Những khó khăn, tồn tại
Chương trình tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS trong thời gian qua đã đạt

được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, đặc biệt là từ giai đoạn 2010 đến nay. Tuy nhiên, công
tác TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn tồn tại:

-

Bộ máy tổ chức và năng lực phục vụ hoạt động TVCSHT còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về
chuyên môn; chế độ, chính sách cho cán bộ y tế và người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập.

-

Thiếu kinh phí cho các hoạt động TVCSHT; hệ thống theo dõi, đánh giá và điều phối các chương
trình, dự án về các hoạt động TVCSHT chưa tốt.

-

Hệ thống chuyển tuyến và phối hợp giữa các tuyến chưa nhịp nhàng; sự tham gia của các ban ngành,
tổ chức xã hội hạn chế; các dịch vụ về việc làm, các trung tâm chăm sóc hỗ trợ người nhiễm, chăm
sóc trẻ nhiễm hoặc ảnh hưởng bởi HIV bị bỏ rơi còn rất thiếu.
- Sự tham gia của người nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế, vẫn còn sự kỳ thị và phân biệt đối xử
nên người nhiễm không dám công khai tình trạng nhiễm và không tiếp cận với các dịch vụ TVCSHT
[8], [32], [52].



1.4.3. Tại Nghệ An

1.4.3.1.

Những kết quả đạt được
Nghệ An là một tỉnh nằm ở Bắc Trung bộ, có ranh giới phía Bắc giáp Thanh Hoá, phía nam

giáp Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển và phía Tây giáp nước bạn Lào, có diện tích 16.499 km2, dân số
3.102.768 người ( tính đến 31/12/2012). Toàn tỉnh có 20 huyện, thành, thị (TP. Vinh, TX. Cửa Lò,
TX. Thái Hoà và 17 huyện, trong đó có 10 huyện miền núi). Phía tây có 419 km đường biên giới tiếp
giáp với nước bạn Lào, hai cửa khẩu quốc tế và nhiều đường tiểu mạch qua Lào thuận lợi; bờ biển dài
93 km, một hải cảng lớn (cảng Cửa Lò), thị xã Cửa Lò và 3 huyện (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi
Lộc) là những điểm du lịch biển nổi tiếng và có giao lưu thương mại bằng đường biển với bên ngoài.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội
như buôn bán, sử dụng ma tuý có chiều hướng tăng nhanh, số thanh thiếu niên thiếu việc làm, lêu
lổng dẫn đến nghiện ma tuý ngày càng nhiều, tệ nạn mại dâm cũng ngày càng phát triển và hoạt động
tinh vi, khó kiểm soát. Đặc biệt, Nghệ An được coi là trạm trung chuyển ma tuý từ Lào sang để từ đó
vận chuyển ra Bắc hay vào Nam [89].
Trước tình hình dịch HIV/AIDS ngày càng lan rộng, người nhiễm HIV chuyển thành AIDS
ngày càng nhiều, tăng cường triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS là vấn đề hết sức cấp
thiết. Nhận thức được mối hiểm hoạ to lớn của đại dịch HIV/AIDS, nhằm ngăn chặn sự lan truyền
của HIV, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của dịch, từng bước cải thiện sức khoẻ, tinh thần và kéo
dài cuộc sống cho người nhiễm HIV/AIDS. Trong những năm qua, tại Nghệ An nhiều hoạt động
phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai thực hiện theo các nội dung của Chiến lược quốc gia về
phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020. Cùng với việc triển khai chương trình
mục tiêu quốc gia về phòng chống HIV/AIDS thì sự hỗ trợ của các chương trình dự án là rất có ý
nghĩa, đặc biệt là từ năm 2007, sau khi Nghệ An được đưa vào một trong 7 tỉnh trọng điểm của
chương trình PEPFAR Hoa Kỳ thì các hoạt động thực sự chuyển biến mạnh mẽ và thu được những
kết quả bước đầu đáng phấn khởi: từ công tác truyền thông, tư vấn thay đổi hành vi, chống sự kỳ thị

phân biệt đối xử; can thiệp giảm hại, cung cấp BKT, BCS ngăn chặn đường lây truyền của HIV; xây
dựng cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao năng lực và kiện toàn hệ thống mạng lưới làm công tác phòng
chống HIV/AIDS các cấp; giám sát phát hiện, giám sát trọng điểm, theo dõi, quản lý về người nhiễm
HIV/AIDS; đến các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ, điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS... đều được
quan tâm chú trọng [82].
Tháng 10/2006, với sự hỗ trợ của nguồn thuốc ARV từ chương trình mục tiêu quốc gia
phòng chống HIV/AIDS, tại Nghệ An đã đưa vào điều trị ARV đợt đầu tiên cho bệnh nhân HIV/AIDS
với số lượng 15 bệnh nhân. Tháng 3 năm 2007 số bệnh nhân điều trị được tăng lên do sự hỗ trợ của


Dự án quỹ toàn cầu. Từ tháng 10 năm 2007, số lượng bệnh nhân điều trị mới thực sự tăng lên rõ rệt
do sự hỗ trợ của dự án Life- GAP, chương trình FHI (nguồn thuốc từ chương trình PEPFAR) sau khi
Nghệ An được phê duyệt là tỉnh trọng điểm thứ 7 của cả nước về phòng chống HIV/AIDS. Tính đến
31/12/2013, tại Nghệ An có 13 cở sở điều trị nhiễm HIV/AIDS, gồm: 9 PKNT được triển khai ngoài
cộng đồng (trong đó có 1 PKNT trẻ em), 2 cơ sở điều trị trong trung tâm 05 - 06 và 2 cơ sở điều trị
trong trại giam. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 11 phòng tư vấn, 12 nhóm GDVĐĐ, 5 câu lạc bộ
người nhiễm và nhiều dịch vụ khác như dự phòng lây truyền mẹ - con, khám và điều trị BLTQĐTD,
khám và điều trị Lao/HIV... Có thể nói với sự hỗ trợ tích cực của các chương trình, dự án, sự vào
cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong thời gian qua, hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ
trợ người nhiễm HIV/AIDS đã có sự chuyển biển mạnh mẽ với hàng chục ngàn người được
TVXNTN, người nhiễm HIV/AIDS đã chủ động công khai danh tính để hưởng thụ các dịch vụ và
tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, được quản lý và được tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ
tại nhà, tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ và nhiều hoạt động hỗ trợ khác từ các tổ chức, ban
ngành, đoàn thể trên địa bàn. Tính đến cuối 2013, số người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị ARV
tại các phòng khám ngoại trú là 2.223 người, trong đó có 105 là trẻ em [82].
Bảng 1.2. Phân bố bệnh nhân điều trị AR V tại các cơ sở điều trị tỉnh Nghệ An
TT
1

Tên phòng khám


Số bệnh nhân điều trị ARV

PKNT bệnh viện Đa khoa tỉnh

940

2

PKNT bệnh viện Sản Nhi

105

3

PKNT bệnh viện Đa khoa Diễn Châu

266

54

PKNT
Hoà
PKNT Trung
Trung tâm
tâm Y
Y tế
tế TX.
HưngThái
Nguyên


319
81

6

PKNT Trung tâm Y tế TP. Vinh

105

7

PKNT Bệnh viện Đa khoa Tương Dương

96

8

Trung tâm GD LĐ XH 1

8

9

Trung tâm GD LĐ XH 2

20

Trại giam số 3 - Bộ Công an


64

Trại giam số 6 - Bộ Công an

63

1
0
1
1
1
2
1
3

PKNT Trung tâm Y tế Quế Phong
PKNT Bệnh viện Đa khoa Quỳ Châu
Tổng cộng

126
30
2.223


×