Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Biến đổi sinh kế của người dao di cư tự do tại huyện cư mgar tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.1 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN
KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THANH THÁI

BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƯỜI DAO DI Cư Tự DO
TẠI HUYỆN Cư M’GAR TỈNH ĐĂK LĂK

Chuyên ngành: NHÂN HỌC
Mã số: 62. 31. 03. 02
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI, 2015


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI, VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI

Phản biện 1
Phản biện 2
Phản biện 3

Luận án sẽ được bảo vệ trước
HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP HỌC VIỆN
Họp tại Học viện Khoa học xã hội vào hồi... giờ,.... Ngày... tháng
...............năm 2016

-


Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội, số 477, quận Thanh
Xuân- Hà Nội


MỞ ĐẦU
l. Tính cấp thiết của đề tài
,
,
,
Dân tộc Dao hiện nay có trên 751.000 người, vốn có truyền thống cư trú tập
trung ở các tỉnh: Bắc Kạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào
Cai thuộc vùng miền núi phía Bắc. Người Dao là một trong số ít các dân tộc thiểu
số ở nước ta có tập quán du canh du cư. Từ năm 2000 đến nay, một bộ phận
người Dao đã di cư vào Tây Nguyên và cư trú tập trung tại tỉnh Đắk Lắk (15.300
người) và tỉnh Đăk Nông (13.900 người). Trong khoảng 10 năm (1999- 2009), số
ngươi Dao ở Tây Nguyên đã có sự gia tăng đột biến, từ 160.000 năm 1999 ở tỉnh
Đắk Lắk (bao gồm cả tỉnh Đắk Lắk và Đăk Nông hiện nay) lên tới hơn 280.000
người năm 2009. Luồng di cư chủ yếu của người Dao vào Tây Nguyên là từ các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Hà Giang.
Tại huyện Cư M’gar, người Dao có hơn 6.700 người, chiếm 7,8% dân số
toàn huyện, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 sau dân tộc tại chỗ (Ê đê). Cư M’gar
là huyện có dân số dân tộc Dao đông nhất của tỉnh Đắk Lắk. Vốn là tộc người có
truyền thống du canh, du cư, sự biến động di cư của người Dao đã có những ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của đồng bào Dao nói riêng và quản lý xã hội của
các cấp chính quyền cả nơi đi và nơi đến nói chung. Đời sống sinh hoạt và sản
xuất của người Dao ở Đắk Lắk đang đặt ra nhiều vấn đề, gây ra những khó khăn
trong quản lý của chính quyền địa phương và người Dao.
Kinh tế truyền thống của đông bao ngươi Dao là canh tác nương rẫy đất dốc

ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi di cư vào Tây Nguyên đã phải thay đổi trong
các hoạt động sản xuất để thích ứng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa
bàn cư trú mới. Quá trình thích ứng đó đã diễn ra và có nhiều yếu tố tác động tới
thói quen sinh hoạt, canh tác cũng như đời sống văn hóa tộc người. Từ kinh tế tự
cung tự cấp, sản xuất cây lương thực là chính chuyển sang sản xuất hàng hóa và
thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do sản xuất quy mô nhỏ với diện tích canh
tác hạn chế sang sản xuất quy mô lớn với các máy móc hiện đại. Điều này đã có
những tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của đồng bào
Dao ở Tây Nguyên.
Do vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Biến đoi sinh kế của người
Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk” làm luận án tiến sĩ chuyên
ngành Nhân học. Luận án góp phần làm rõ những biến đổi và thích ứng của người
dân trong quá trình định cư tại vùng đất mới, những vấn đề đặt ra trong việc
hoạch định chính sách và hỗ trợ đồng bào
Dao phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo tồn các giá trị văn hóa tộc
người.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá những biến đổi trong sinh kế của người Dao di cư tại huyện Cư

3


M’gar, tỉnh Đắk Lắk
Phân tích những yếu tố tác động đến sinh kế của người Dao di cư, từ đó đề
xuất những giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm hỗ trợ đồng bào Dao phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo tồn các giá trị văn hóa tộc người trên
vùng đất Tây Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là sinh kế và biến đổi sinh kế của
người Dao di cư tự do tại huyện Cư M gar, tỉnh Đắk Lắk.

Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án tập trung làm rõ những biến đổi
trong hoạt động sinh kế của người Dao di cư tự do tại huyện Cư M gar có so sánh
với sinh kế tại điểm xuất cư tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Luận án cũng
quan tâm tới các thời điểm di cư của người Dao từ 1975 đến nay và những biến
đổi trong sinh kế của người Dao trong quá trình định cư tại Tây Nguyên.
4. Nguồn tài liệu của luận án
Để thực hiện luận án này, tôi sử dụng các nguồn tài liệu chính sau: Nguồn
tài liệu điền dã thực địa tại xã Ea Mdro’h và xã Cư Suê, huyện Cư M’gar tỉnh
Đăk Lăk nơi co đông ngư ời Dao di cư sinh sống, việc nghiên cứu cũng được
thực hiện tại quê cũ của người Dao tại huyện Hoành Bồ và Tiên Yên của tỉnh
Quảng Ninh. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các tài liệu, kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học liên quan đến sinh kế người Dao ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk
và huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
5. Đóng góp của luận án
Luận án được xem là một công trình đầu tiên nghiên cứu tổng thể, toàn diện
và có hệ thống về biến đổi sinh kế người Dao di cư tự do tại huyện Cư M’gar tỉnh
Đăk Lăk dưới góc độ Nhân học.
Luận án phân tích và làm rõ những biến đối trong sinh kế của người Dao di
cư và những đóng góp của người Dao đối với công cuộc xây dựng nông thôn mới
và góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiến của Luận án
Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách đối với
người Dao di cư nhằm ổn định cuộc sống của họ ở vùng quê mới và . phát triển
kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên. Mặt khác đây cũng là tài liệu tham khảo về di
cư, sinh kế của người Dao di cư cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy, góp phần bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người trong điều kiện kinh tế thị
trường, hội nhập và phát triển.
7. Bố cục của Luận án
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu của đề tài, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu


4


Chương 2: Khái quát về điều kiện tự nhiên và người Dao ở huyện Cư M’gar
Chương 3: Biến đổi các loại hình sinh kế của người Dao ở huyện Cư M’gar
Chương 4: Các yếu tố tác động tới sinh kế của người Dao di cư huyện Cư M’gar
Chương 5: Kết quả và bàn luận
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới về sinh kế
Các hoạt động sinh kế từ lâu đã được các học giả trên thế giới quan tâm
nghiên cứu. Cho tới nay không ít các công trình chuyên sâu về các loại hình sinh
kế truyền thống cũng như hiện đại của các cộng đồng trên thế giới đã được công
bố rộng rãi, qua các công trình đó chúng ta có thể nhìn thấy một bức tranh toàn
cảnh từ Châu Ảu tới các nước Châu Á và Phi Châu về những hoạt động sinh kế
đầy đa dạng và nhiều màu sắc mà các cư dân nơi đó đem lại. Các tác phẩm của
ScottM.Forrest (1996), Edward Lahiff (2003) hay trong nghiên cứu của Priya
Deshingkar và Daniel Start (2003). Các tác giả đã lý giải các ví dụ đảm bảo sinh
kế theo di cư nhằm đảm bảo cuộc sống của họ. Một trong những vấn đề đặt ra là
áp lực đối với sinh kế trong quá trình di cư liên quan tới đất đai.
Một trong những xu hướng nghiên cứu sinh kế đó là sử dụng khung sinh kế
phát triển bền vững của DFID đa đư ợc ứng dụng trong nghiên cứu tại nhiều nơi
trên thế giới, nó được coi như một cách tiếp cận toàn diện trong phân tích về sinh
kế và đói nghèo. Đại diện là Tim Hanstad, Robin Nielsen and Jennife Brown
(2004), Marcus Colchester và các cộng sự (2006). Theo nhóm tác giả này, người

di cư đã bị gạt ra bên lề khi sinh kế của họ phụ thuộc nhiều vào rừng và các yếu
tố văn hóa bị coi nhẹ.
1.1.2.
Tình hình nghiên cứu trong nước về sinh kế và người Dao
Ngay từ nhưng năm đầu thế kỷ XX xuất hiện hàng loạt những chuyên khảo
cũng như những nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học Pháp về các dân
tộc thiểu số tại Việt Nam, tuy nhiên giai đoạn này sinh kế vẫn chỉ được coi là các
hoạt động kinh tế và nó chỉ được trình bày rất khiêm tốn trong những nghiên cứu
đó với các tác giả như: Nguyễn Kính Chi và Nguyễn Đổng Chi đã xuất bản tác
phẩm Mọi Kontum, Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh (J. Boulbet ,1967)
(bản tiếng Việt năm 1999) .
Đối với những học giả trong nước, việc nghiên cứu sinh kế đã được chú
trọng trong nhiều công trình nghiên cứu về tộc người. Một số công trình nghiên
cứu khá sớm về tộc người đã coi sinh kế có vai trò quan trọng trong đời sống tộc
người như công trình nghiên cứu sơ lược về nhóm Tày, Nùng, Thái của Lã Văn
5


Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968).
Cũng trong thời gian này bắt đầu có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới các
hoạt động liên quan tới sinh kế, chúng ta có thể tìm thấy trên các tạp chí chuyên
ngành những bài viết liên quan. Năm 1974, Nông Trung có bài viết về sinh hoạt
kinh tế và văn hoạt của các dân tộc Tạng - Miến; Nguyễn Văn Huy, Nguyễn
Thịnh Nhi đã bước đầu tìm hiểu về canh tác nương rẫy và phương pháp đánh bắt
cá cổ truyền trên sông Dinh. Năm 1975, tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng
có nghiên cứu vấn đề canh tác nương rẫy tại miền núi phía Bắc. Trong những
năm gần đây, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu về sinh kế và biến đổi sinh kế
như Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng, Vũ Lợi, Trần Bình, Nguyễn Văn Sửu,....

Các công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam.
Người Dao ở Việt Nam được nhắc tới khá sớm trong chuyên khảo Một cuộc

công cán ở vùng người Mán từ tháng 10 năm 1901 đến tháng giêng năm
1902 của Auguste Bonifacy những năm đầu thế kỷ XX. Từ báo cáo này cho thấy
những tư liệu về người Dao ở thượng du Bắc Bộ và ở Thanh Hóa của Robequain
đã được Nguyễn Văn Huyên dẫn lại, tuy nhiên những tư liệu này chỉ có tính khái
quát và giới thiệu về người Dao tại Việt Nam. Phải kể tới nhóm tác giả Bế Viết
Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến trong tác phẩm
Người Dao ở Việt Nam (1971) mới cho chúng ta một cái nhìn tổng thể và khá chi
tiết về người Dao tại Việt Nam. Một trong những chuyên khảo vê ngươi Dao phải
kể đến tác ph ẩm Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang của Phạm
Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999). Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu hai nhóm
Dao tập trung và cư trú đông ở Hà Giang là Dao Đỏ và Dao Áo dài và làm rõ
những nét đặc trưng nhất trên tất cả các lĩnh vực lịch sử tộc người, các hoạt động
kinh tế, văn hoá vật chất, tổ chức làng bản, gia đình và nghi lễ gia đình, tín
ngưỡng tôn giáo, văn hoá dân gian, tri thức dân gian. Các công trình nghiên cứu
có tính chuyên khảo về văn hoá vật chất của người Dao của các tác giả Nguyễn
Khắc Tụng (1971), Nguyễn Minh Phúc (2013) về nhà ở, đối với Trang phục có
các nghiên cứu của Nông Quốc Tuấn, (2002) Nguyễn Anh Cường (2003). Về văn
hoá tinh thần, có khá nhiều công trình nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là “Các
nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn” của
Lý Hành Sơn (2003), về thầy cúng người Dao Họ tại Lào Cai
của Phạm Văn Dương (2010)............ Ngoài các công trình có tính chuyên
khảo như trên chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều bài viết liên quan tới mọi mặt
đời sống của người Dao trong nước qua các tác giả Võ Mai Phương, Nguyễn Thế
Loan, Trần Hữu Sơn và nhiều tác giả khác đã được công bố trên tạp chí Dân tộc
học, Văn hóa nghệ thuật...
1.1.3.
Tổng quan nghiên cứu về di cư

Nhiều nhà nghiên cứu các chuyên ngành dân số học, xã hội học, quản lý kinh
6


tế như: Tương Lai, Trịnh Duy Luân, Đặng Nguyên Anh, Hoàng Văn Chức, Trần
Hữu Quang, Nghiêm Xuân Đạt, Đồng Bá Hướng, Lê Bạch Dương, Thân Văn
Liên, Lê Đăng Giang, Nguyễn Bá Thủy v.v... đã có các công trình nghiên cứu,
bài luận khoa học về di dân, tác động của di dân đến các vấn đề thuộc về an sinh
xã hội, kiến nghị thiết lập các chính sách để quản lý quá trình di dân. Tuy nhiên,
không có nhiều nghiên đi sâu về vấn đề sinh kế nhất là đối với người Dao ở vùng
Tây Nguyên.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài
Luận án đã làm rõ một số khái niệm: Biến đoi, Sinh kế, Biến đoi sinh kế,
Sinh kế bền vững, di dân, di dân có to chức, di dân tự phát, di cư.
1.2.1.2. Cơ sở lý thuyết
Luận án áp dụng một số lý thuyết Lý thuyết sinh thái văn hóa và lý thuyết
về lực hút và lực đay đề xây dựng khung phân tích nghiên cứu về sinh kế của
người Dao di cư huyện Cư M’gar ở tỉnh Đăk Lăk.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp điền dã dân tộc học và điều tra xã hội
học tộc người, ngoài ra có kết hợp với phương pháp Đánh giá nông thôn có người
dân tham gia (PRA), phương pháp phân tích, so sánh để thu thập tư liệu, làm rõ
những biến đổi sinh kế của người Dao di cư ở huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk.
Tiểu kết chương 1
Trong quá trình phát triến kinh tế - xã hội, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, áp lực về di dân và bảo đảm sinh kế cho người
dân di cư đang đặt ra với nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây

Nguyên. Môi trường tự nhiên là nguồn sống cơ bản của đồng bào các dân tộc,
trong đó có dân tộc Dao (vốn là cư dân sống dựa vào rừng) đang có xu hướng bị
biến đổi, quá trình thay đổi nơi cư trú từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên cũng
đã có những tác động mạnh mẽ đến sinh kế và đời sống của người Dao.
Việc lựa trọn đề tài “Biến đổi sinh kế người Dao di cư tự do tại huyện Cư
M’gar tỉnh Đăk Lăk” là thiết thực và có ý nghĩa, bên cạnh việc tìm hiểu các hoạt
động sinh kế truyền thống, luận án còn phân tích những biến đổi và thích ứng của
các hoạt động đó trong điều kiện mới. Từ đó đưa tới những giải pháp và kiến nghị
trong việc giải quyết vấn đề sinh kế của người Dao di cư tự do tại Tây nguyên
theo hướng bền vững.
Khi tiến hành nghiên cứu về biến đổi sinh kế, luận án xem xét các vấn đề
trên cơ sở lý luận của Phép biện chứng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ đó nhìn
nhận sự hình thành phát triển của các hình thái kinh tế luôn được đặt trong mối
quan hệ biện chứng với các thành tố trong đời sống như: môi trường tự nhiên,
điều kiện tự nhiên, môi truờng xã hội, điều kiện lịch sử và tâm lý tộc người ...Lý
7


thuyết về sinh thái văn hoá và lực hút lực đẩy là hai lý thuyết chủ yếu áp dụng
trong luận án. Theo đó, những hoạt động và tri thức của người Dao về sinh kế
đuợc nhìn nhận một cách khách quan cũng như đặt trong bối cảnh văn hoá riêng
của họ. Đối với những lý thuyết nêu trên các hoạt động và sự biến đổi sinh kế của
người Dao di cư được nhìn nhận như sự thích ứng với môi trường tự nhiên và xã
hội hoàn toàn mới. Viêc thay đổi hay thích ứng với điều kiện mới của người Dao
di cư chính là sự điều chỉnh các yếu tố tự nhiên và xã hội để phục cho nhu cầu nội
tại của họ.
Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu Dân tộc
học/Nhân học như điền dã dân tộc học và kết hợp các phương pháp phỏng vấn
sâu, thảo luận nhóm, quan sát tham dự để thu thập các thông tin tại thực địa. Bên
cạnh phương pháp đặc thù điền dã dân tộc học, phương pháp điều tra xã hội học

cũng được chú trọng. Đây là phương pháp thế mạnh trong điều tra về sinh kế và
di cư. Bảng hỏi được biên soạn bám sát nội dung đề cương của luận án. Ngoài ra,
luận án có sử dụng phương pháp PRA là phương pháp khuyến khích, lôi cuốn
người dân nông thôn cùng tham gia chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức của
họ về đời sống và điều kiện thực tế của họ.
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN Tự NHIÊN VÀ NGƯỜI DAO Ở
HUYỆN CƯ M’GAR
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên tỉnh Đăk Lăk
Đăk Lăk có diện tích 13.125,37 km2, dân số toàn tỉnh tính đến năm 2012 đạt
1.796.666 người, mật độ dân số đạt hơn 137 người/km 2. Cộng đồng dân cư Đăk
Lăk gồm 47 dân tộc..Huyện Cư M’gar cách trung tâm thành phố Buôn Ma thuột
18km về hướng Đông Bắc. Toàn huyện có 179 thôn, buôn và tổ dân phố, trong đó
có 71 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Huyện Cư M’gar có đặc điểm tự
nhiên đa dạng, địa hình khá bằng phẳng, có lợi thế về đất sản xuất, đó là đất trồng
các loại cây công nghiệp.

Xã Ea Mdro’h
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 5.754 ha, trong đó đất nông nghiệp là
523,38 ha (chiếm 91,02% tổng diện tích tự nhiên), đất phi nông nghiệp 492,82 ha
(chiếm 8,56%) và nhóm đất chưa sử dụng 23,80 ha (chiếm 0,41%). Xã Ea
Mdro’h có 11 thôn/buôn. Dân số của xã đến đầu năm 2013 là l.682 hộ với 78.944
người, mật độ dân số 138 người/km 2 với 12 dân tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Ê
đê, Gia rai, Mnông, Hrê, Dao, Tày, Nùng, Thái, Mường, Sán Dìu, Sán Chay.
Trong đó, dân tộc thiểu số là 6.429 người (chiếm 76,4% dân số toàn xã) gồm dân
tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh phía Bắc. Xã có 3 tôn
giáo chính: Công giáo, Phật giáo và Tin lành; với 515 tín đồ (chiếm 5,6% dân số
của xã).
Xã Cư Suê
8



Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 3.513ha, trong đó đất nông nghiệp là
3.143ha (chiếm 90% tổng diện tích tự nhiên), và nhóm đất chưa sử dụng 35ha.
Đất nông nghiệp chủ yếu là loại đất nâu đỏ, nâu vàng trên đá Bazan nên thích hợp
cho sự sinh trưởng và phát triển các cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế
cao như cà phê, cao su, tiêu, cây ăn quả...Toàn xã được chia thành 11 thôn, buôn
với 2.031 hộ và 11.503 khẩu, với ba dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Dao, Ê
đê, trong đó người Ê đê có 780 hộ với 4.964 khẩu, người Dao 371 hộ và 1861
nhân khẩu.
2.2. Đặc điếm kinh tế- xã hội - văn hóa của nguời Dao tại huyện Cư
M’gar

2.2.1.

Đặc điểm kinh tế

Hoạt động kinh tế của người Dao ở Cư M’gar chủ yếu là trồng trọt các loại cây
công nghiệp kết hợp cây lương thực. Do cư trú gần với các dân tộc tại chỗ Tây
Nguyên, người Dao đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm sản xuất của người Ê đê
trong trồng trọt và chăm sóc các loại cây công nghiệp dài ngày có hiệu quả kinh
tế cao. Nguồn thu nhập của hộ gia đình người Dao ở Cư M’gar đã tăng lên đáng
kể nhờ cây công nghiệp dài ngày. Ngoài ra, người Dao cũng đã có thêm những
hoạt động kinh tế mới như buôn bán, trao đổi hàng hóa..

2.2.2.

Đặc điểm xã hội

Người Dao có tập quán cư trú thành các làng bản, trong tiếng Dao gọi làng
bản là “lăng”. Mỗi bản có một tên nhất định đặt theo đặc điểm cảnh quan tự

nhiên nơi đồng bào cư trú (tên sông suối, núi), cũng có khi họ mượn tiếng của các
tộc người khác để đặt tên cho nơi mình cư trú, hoặc có thời điểm thành lập hợp
tác xã nông nghiệp tại địa phương.
Người Dao ở Cư M’gar hiện nay cũng sống tập trung thành các cụm dân cư,
tuy nhiên tên gọi các thôn được đăt theo thứ tự số đếm theo cách gọi hiện đại
như: thôn 1, thôn 2, thôn 3, ... hoặc Hợp Thành nghĩa là có nhiều tộc người cùng
sinh sống.
Người Dao Cư M’gar chủ yếu mang các họ Triệu, Lý, Đặng và Bàn, các họ
khác như Chề và Tắng không nhiều, mối quan hệ của những người cùng họ vẫn
còn khá bền chặt. Khi làm lễ cấp sắc, người Dao thường làm tại nhà thờ họ của
người thụ lễ. Trong trường hợp không có nhà thờ họ, gia chủ phải về nhà tổ ở
ngoài Bắc để làm nghi lễ. Người Dao ở đây vẫn ăn tết như ngoài Bắc: cúng tết
Thanh minh (3/3 âm lịch), Rằm tháng 7 (14/7 âm lịch), khi ốm đau bệnh tật vẫn
mời thầy cúng, ngoài ra, họ còn thực hiện các lễ cúng giải hạn, cúng cầu mùa.
Tuy vậy, các nghi lễ liên quan tới nông nghiệp thì hầu như đã giản lược nhiều, từ
khi chuyển vào Tây Nguyên sinh sống không còn cúng rừng, cúng cơm mới như
ngoài Bắc trước Đổi mới 1986.
Gia đình người Dao thuộc loại gia đình phụ quyền, trong đó người đàn ông
làm chủ và quyết định mọi việc, quy mô gia đình không lớn, từ 4 - 5 người, gồm

9


bố mẹ và con cái. Quyền thừa kế chính thuộc về con trai, tuy nhiên hiện nay con
gái khi lấy chồng cũng được cha mẹ chia một phần tài sản. Trong truyền thống
cũng như hiện tại gia đình người Dao là một đơn vị kinh tế độc lập , mối quan hệ
trong gia đình thể hiện trên các khía cạnh khác nhau trong đó tính chất yêu
thương , giúp đỡ lẫn nhau luôn được đề cao.

2.2.3.

Đặc điểm văn hóa
Văn hóa vật chất: .Tại Cư M’gar người Dao sinh sống theo loại hình nhà
đất, đây chính là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc sống
của người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian đứng. Bộ sườn của nhà nền
đất được cấu tạo khá đơn giản, thông thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột,
một quá giang và một bộ kèo đơn. Với người Dao, nhà nền đất luôn mang tính
chất bền vững, thích hợp với điều kiện sản xuất tương đối ổn định ở miền núi
rừng.
Về trang phục, tại Cư M’gar có các nhóm Dao di cư từ Quảng Ninh, Lạng
Sơn và Cao Bằng, bộ phận người Dao từ hai tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn có
phong tục và ngôn ngữ với nhiều nét tương đồng. Ngày nay không còn mặc trang
phục truyền thống phổ biến như trước nữa, thường ngày chỉ mặc âu phục chỉ có
nữ giới thuộc thế hệ người già thỉnh thoảng còn mặc. Tuy nhiên, trong các nghi lễ
tôn giáo hay các sự kiện trọng đại của cuộc đời thì bộ trang phục truyền thống
vẫn giữ vai trò rất quan trọng như trong nghi lễ cấp sắc, lễ cưới khi đứng trước
bàn thờ trình báo với tổ tiên. Vì vậy, trong gia đình mỗi người Dao vẫn có một
vài bộ trang phục truyền thống để mặc khi cần thiết.
Văn hóa tinh thần: Ngôn ngữ người Dao thôn Hợp Thành hiện nay sử dụng
thành thạo hai thứ tiếng là tiếng Dao và tiếng phổ thông, trong phạm vi gia đình
tiếng Dao vẫn được sử dụng thường xuyên, đặc biệt trong các nghi lễ có tính chất
tín ngưỡng. Hiện nay trong cộng đồng người Dao tại Cư M’gar có khá nhiều thầy
cúng biết và sử dụng thành thạo chữ nôm Dao để thực hiện các nghi lễ có tính
chất truyền thống của cộng đồng.
Về tín ngưỡng: Tín ngưỡng chính là thờ cúng tổ tiên và Bàn Vương, đối với
thờ cúng tổ tiên, người Dao cho rằng tổ tiên chỉ tới thăm họ vào những dịp lễ tết.
Trong khi đó Bàn Vương đuợc coi là tổ tiên chung của tất cả người Dao và được
thờ cúng, khấn vái cùng với tổ tiên của các gia đình, dòng họ . Hình thái tín
ngưỡng vạn vật hữu linh với niềm tin mọi vật đều có linh hồn vì vậy người Dao
cho rằng các hiện tượng tự nhiên đề do các vị thần tạo ra như thần gió, thần mưa,
thần hoa màu, thần chăn nuôi...

2.3. Quá trình di cư tự do của người Dao đến Đăk Lăk
2.3.1.
Các đợt di cư
Một trong những đặc điểm của cư dân di cư tự do vào Đăk Lăk nói chung và
người Dao nói riêng là di cư theo nhiều đợt khác nhau, tập trung vào giai thập
1
0


niên 80 và 90 của thế kỷ trước .

2.3.2.

Lý do và hình thức di cư của người Dao

Một trong những lý do người Dao di cư tới định cư tại đây la do được những
người họ hàng , người thân có mối liên hệ với địa phương quê cũ cung cấp thông
tin và nghe nói khu vực này có nhiều đất để canh tác. Hình thức di cư tự do của
người Dao và thời điểm di cư đầu tiên lcủa họ
vào những năm 1990 - 1991 đến năm 2001 thì di cư ồ ạt từ Quảng Ninh, Cao
Bằng vào Cư M’gar.
2.4. Một số đặc điểm của người Dao di cư

2.4.1.
Quy mô, cơ cấu hộ gia đình
Theo mẫu điều tra bình quân nhân khẩu của số hộ của người Dao tại hai xã
là 4,5 người/hộ, điều này phù hợp với các cuộc điều tra di dân trước đây. Số hộ
co từ 3 người đến 6 người chiếm đa số tại cả hai xã, trong số này có tỷ lệ cao nhất
là nhóm 4 người/hộ.
2.4.2.

Một số đặc điểm về độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp
của hộ gia đình
Từ số liệu điều tra cho thấy đa phần chủ hộ trong độ tuổi lao động,
số lượng tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 31 - 60 tuổi. Mặc dù đa phần chủ hộ của
người Dao trong độ tuổi lao động, tuy nhiên số người có học vấn cao không
nhiều. Số lượng chủ hộ là người mù chữ khá lớn, người tốt nghiệp các cấp học
phổ thông không đồng đều, điều đáng lưu ý chủ hộ tốt nghiệp cao đẳng, đại học ở
cả hai xã rất thấp. Do đặc điểm về trình độ học vấn thấp, người Dao di cư ở Cư
M’Gar làm nông nghiệp là chính, mặc dù với cơ cấu chủ hộ người Dao thuộc dân
số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động cao, tuy nhiên do tỷ lệ người được
đào tạo thấp vì vậy số lượng lớn chủ hộ làm nông nghiệp.
Tiểu kết chương 2
Là một tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao ở Việt Nam, địa bàn
cư trú truyền thống là các tỉnh miền núi phía Bắc. Hiện nay do quá trình di cư tự
do ngưới Dao đã có mặt khá đông đảo ở các tỉnh Tây nguyên trong đó có Đăk
Lăk là nơi tập trung số lượng người Dao sinh sống đông nhất.
Điều kiện tự nhiên của xã Ea Mdro’h và Cư Suê khá đặc trưng địa hình của
xã tương đối bằng phẳng, khí hậu ở đây mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt
đới gió mùa cận xích đạo. Nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao
nguyên nên nơi đây có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 năm trước tới tháng 4
năm sau, khí hậu khô và lạnh, độ ẩm thấp, thường có gió mạnh từ cấp 4 đến cấp
6. Tuy nhiên, do sự lạm dụng khoan giếng không theo quy hoạch cụ thể nên mực
nước ngầm những năm gần đây đã tụt sâu hơn. Nguy cơ thiếu nước trong mùa
khô vẫn có thể xảy ra cộng với diện tích cà phê, hồ tiêu, điều trên địa bàn có nhu
cầu nước tưới nhiều trong mùa khô cũng gây tình trạng thiếu nước.
1
1


Người Dao di cư vào huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk chủ yếu từ các tỉnh

Quảng Ninh, Cao Bằng, họ di cư thành nhiều đợt khác nhau, đến năm 2009 toàn
huyện có tới hơn 9000 người. Lý do di cư của người Dao chủ yếu là do thiếu đất
sản xuất và do có nghe theo họ hàng vào trước và định cư tại đây vì có nhiều đất,
chủ động được nguồn nước và quan trọng nhất là đã có người cùng họ sinh sống
từ trước. Chủ hộ người Dao đi cư đa phần là nam, hầu hết trong độ tuổi lao động,
tuy nhiên học vấn không cao, quy mô hộ không lớn chủ yếu từ 4 đến 5 người/hộ
do đó hầu hết họ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.
Với điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi hơn rất nhiều quê cũ vì vậy đã giúp
người Dao di cư sớm ổn định đời sống, hoà nhập với cộng đồng, từng bước
khẳng định và làm giàu trên quê hương mới.
CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỔI CÁC LOẠI HÌNH SINH KẾ CỦA NGƯỜI
DAO TẠI HUYỆN CƯ M’GAR
3.1. Một số phương thức sinh kế truyền thống

Phương thức canh tác truyền thống
3.11.1.
Nương rẫy
Người Dao vốn cư trú chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc. Nương rẫy là hình
thức canh tác chủ yếu của đồng bào trong điều kiện cư trú ở vùng cao, đất dốc.
Trong tiếng Dao nương/rẫy gọi là yăng được coi là một hình thức canh tác đặc
trưng có tính chất phù hợp với điều kiện sống cũng như tại môi trường sinh thái
vùng núi phía Bắc.
Đối với người Dao Ở Quảng Ninh thì họ phân biệt nương thành ba loại:
nương thấp (yăng ha), nương dốc (yăng chui) và nương bằng (yăng peng). Diện
tích khai phá thường phụ thuộc vào nhu cầu gieo trồng và khả năng lao động
trong gia đình. Người Dao thường trồng xen canh các loại cây lương thực và cây
hoa màu trên nương. Bên cạnh các loại lúa nếp nương(mây plát) lúa tẻ (plau xi)
ngoài ra ngô nếp (piều pe), ngô tẻ (piều lắt) cũng được người dân trồng ở những
đám đất tương đối tốt. Cây sắn cũng được người Dao khá coi trọng nhất là những
năm ngô, lúa không được mùa thì đây được coi là nguồn lương thực chủ yếu của

bà con. Sắn được trồng vào khoảng cuối tháng 2 đến giữa tháng 3 âm lịch hàng
năm, cách trồng cũng giống như người kinh đào từng hố nhỏ cách nhau khoảng
1m rồi đặt các cành giống dài khoảng 20 - 30cm vào hố rồi lấp đất lên.
Chăm sóc cây trồng luôn là công đoạn được người Dao coi trọng, quá trình
chăm sóc cây trồng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, do vậy, người Dao thường
chú ý làm cỏ, chăm bón cho các loại cây lương thực nhằm đảm bảo năng suất và
sản lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia đình
3.1.1.2.
Ruộng nước
Trước Cách mạng tháng Tám, một bộ phận người Dao đã biết canh tác
ruộng nước Việc cấy lúa được người Dao tiến hành thành hai vụ, lúa chiêm họ
3.1.1.

1
2


thường cấy vào tháng Chạp hoặc tháng Giêng âm lịch, đối với lúa mùa thường
được cấy vào đầu tháng sáu. Trải qua quá trình chăm sóc, vào tháng cuối tháng 9
đầu tháng 10 âm lịch hàng năm, thì tiến hành thu hoạch lúa. 3.1.13. Vườn
Vườn đóng vai trò rất nhỏ bé trong đời sống của người Dao. Đồng bào chọn
mảnh đất gần nhà, thường là gần các nguồn nước rồi dùng phên quây lại, trong
cùng một mảnh vườn trồng nhiều loại rau khác nhau để làm nguồn cung cấp thực
phẩm cho bữa ăn hàng ngày .

3.1.1.4.
Tri thức liên quan tới
nông nghiệp Tri thức về mùa vụ
Do sinh sống dựa vào nồng nghiệp là chủ yếu vì vậy mùa vụ đặc biệt quan
trọng trong kỹ thuật canh tác của người dân, có thể nói nó đóng góp rất lớn trong

việc quyết định tới cuộc sống.
Tri thức trong chọn đất
Việc chọn đất canh tác là cồng việc đặc biệt quan trọng do đó thồng thường
người làm việc này là chủ nhà hoặc người lớn trong gia đình. Theo kinh nghiệm,
người Dao sẽ chọn sườn núi phía Đồng theo hướng mặt trời mọc vì đó là hướng
có nhiều ánh sáng, tạo điều kiện cho ngồ lúa và hoa màu phát triển.
Tri thức liên quan tới giống
Việc chọn giống cũng khá quan trọng đối với giống ngồ người Dao thường
giữ những bắp to, hạt đều nhau, khi thu hoạch họ thường bẻ bắp và để nguyên lớp
vỏ bên ngoài rồi buộc túm từng bó khoảng 3 - 5 bắp treo lên gác bếp.
3.1.2.
Chăn nuôi
Đối với người Dao, chăn nuồi gia súc được coi là một trong những hoạt
động mưu sinh đóng vai trò quan trọng. Trong gia đình ngưới Dao đồng bào
thường nuồi gà, lợn và trâu, tuy nhiên vẫn theo hình thức tự nhiên là chính. Chăn
nuồi khồng chỉ góp phần cung cấp nguồn thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày, là
nguồn hàng hoá có thể trao đổi khi cần thiết và cũng là tài sản có giá trị trong gia
đình.
3.1.3.
Các hoạt động sinh kế truyền thống khác
Săn bắt và hái lươm
Các hoạt động sinh kế truyền thống của người Dao ở Quảng Ninh (quê cũ
của người Dao trước khi di cư vào Đăk Lăk) phong phú đa dạng với nhiều loại
hình khác nhau, săn bắt và hái lượm là một phần rất quan trọng trong hoạt động
sản xuất của đồng bào.
Nghề thủ công
Nghề thủ cồng truyền thống của người Dao được hình thành từ lâu đời như
đan lát, làm giấy, nấu rượu...tuy nhiên hoạt động của những nghề thủ công này
mang tính thời vụ, làm vào lúc nông nhàn, tranh thủ khi rảnh rỗi trong ngày.
Hoạt động mua bán, trao đoi

Trước đây, việc tiến hành trao đổi mua, mua bán định kỳ dựa vào hệ thống
1
3


chợ phiên ở vùng cao. Người Dao không có chợ riêng của mình, cũng như đồng
bào dân tộc khác họ họp chợ tại trung tâm huyện, xã.
3.2. Biến đổi phương thức sinh kế truyền thống của người Dao ở huyện
Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk
3.2.1.
Biến đoi trong phương thức

canh tác trồng trọt - Nương rẫy
+ Biến đoi trong lựa chọn các loại cây trồng
Việc duy trì các loại cây lương thực truyền thống vẫn được người Dao thực
hiện tại vùng đất mới. Tuy nhiên, các loại giống lúa, ngô, đỗ tương, đỗ đen cũng
đã được lựa chọn thay đổi những giống mới phù hợp với khí hậu và điều kiện tự
nhiên của vùng đất mới. Bên cạnh các cây trồng truyền thống, người Dao đã tiếp
thu, học hỏi các tri thức chăm sóc, trồng trọt các loại cây công nghiệp như cà phê,
tiêu, điều là những cây trồng công nghiệp hoàn toàn mới khác xa so với các cây
trồng truyền thống. Nhờ có sự chuyển đổi này, các cây trồng mới đã tạo thu nhập
cao và ổn định cho người Dao ở Cư M’gar.
+ Biến đoi trong kỹ thuật canh tác
Nếu như trong truyền thống, kỹ thuật canh tác chủ yếu bằng thủ công, thiên
về trồng trọt đất dốc như “đao canh hỏa chủng”, canh tác nương rẫy dùng gậy
chọc lỗ (chỉn truy) tra hạt, làm lúa nước dùng trâu bò cày kéo thì hiện nay, người
Dao đã áp dụng thêm nhiều hình thức canh tác hiện đại, có sử dụng các kỹ thuật
canh tác mới, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại mang lại năng suất và sản lượng
cây trồng cao hơn nhiều so với các kỹ thuật truyền thống. Với các loại cây công
nghiệp, người Dao đã áp dụng hoàn toàn các kỹ thuật hiện đại vào chăm sóc và

áp dụng thêm các tri thức kinh nghiệm của một số tộc người tại chỗ sống cùng
trong khu vực như Ê đê...
- Ruộng nước
Khi còn ở ngoài Bắc thì thường bà con làm một vụ (có nơi làm 2 vụ) và một
vụ lúa nương, khi mới di cư vào Cư M’gar bà con cũng áp dụng theo truyền
thống canh tác cũ của ruộng khô, tuy nhiên theo thời gian dần chuyển đổi chuyển
sang trỉa bắp. Một số diện tích ruộng khô vẫn được duy trì để trồng lúa 1 vụ.
- Làm vườn
Trong mảnh vườn của mình người dân thường trồng các loại rau như cải
ngọt (yang cai), xu hào, cải bắp (yang biếu), rau muống (số bung) và một số cây
có dây leo như bầu, bí... mỗi thứ một ít chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình là
chính.
- Biến đoi trong tri thức địa phương
+ Tri thức về mùa vụ
Là một trong những tộc người với nền kinh tế chủ đạo dựa và nông nghiệp là
chính với cây lúa là chủ đạo do đó yếu tố thời tiết luôn được người dân đặc biệt
coi trọng, từ đó việc sản sinh ra các tri thức liên quan tới mùa vụ (lịch nông
1
4


nghiệp) là đòi hỏi tất yếu của cuộc sống.
+ Tri thức trong chọn đất
Bên cạnh các tri thức lựa chọn đất theo phương pháp truyền thống, để tìm
được cuộc đất tốt nhất định phải là đất đỏ (đào sy), tốt nhất là nới đó gần nguồn
nước để có thể chủ động về tưới tiêu (đào sy nan đy). Người Dao ở Cư M’gar đã
có những kinh nghiệm mới: Với đất khai phá từ rừng (đào sy mài kìn) cũng được
coi là cuộc đất tốt vì đây là đất mới, cây tiêu và cà phê sẽ hợp hơn. Đối với đất
trồng bắp và lúa, thường là đất có màu đen (đào kiếp) và lẫn sỏi tuy nhiên nhất
thiết phải có độ ẩm vừa phải thì mới có thể trồng cấy được.

3.2.2.
Biến đổi trong chăn nuôi
Mặc dù chăn nuôi không phải là thế mạnh của các hộ dân tại Cư Suê và Ea
Mdro’h nhưng có thể nói chăn nuôi cũng góp phần tăng thêm thu nhập cho các hộ
dân, nhất là những hộ không có nhiều đất để canh tác. Theo số liệu khảo sát các
hộ dân tại đây chủ yếu chăn nuôi lợn, dê, cừu và gia cầm, trong đó số lượng gia
cầm có vẻ lớn hơn cả sau đó là lợn, dê và cừu. Việc chăm sóc vật nuôi được
người dân thực hiện nghiêm ngặt theo hướng dẫn của cán bộ thú y do đó đảm bảo
không bị dịch bệnh tại địa phương. Với số lượng chăn nuôi như vậy nguồn thu
cho các hộ kể trên khá cao với trung bình là 80 triệu đồng/hộ/năm, đặc biệt có hộ
thu từ chăn nuôi nên tới 349 triệu đồng/hộ/năm.
3.2.3.
Biến đổi của các phương thức sinh kế phụ trợ khác

Khai thác các nguồn lợi tự nhiên
Dù với lý do như thế nào, từ thực tế cho thấy các hoạt động khai thác nguồn
lợi từ thiên nhiên của người Dao hiện nay tại Cư M’gar không còn được người
dân duy trì. Đây chính là hệ quả của việc khai thác tài nguyên quá mức dẫn tới
biến mất của rừng, đó là một thực tế hiện nay tại Cư M’gar.

Nghề thủ công
Bước vào thời kì công nghiệp hóa, các loại đồ dùng thông dụng đều được
các ngành sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, những đồ dùng do
công nghiệp sản xuất rất tiện dụng chiếm ưu thế hơn các loại đồ dùng thông
thường do thủ công làm ra.

Hoạt động mua bán, trao đoi
Trước đây đường xá đi lại khó do đó chỉ khi nào có việc cần thiết họ mới tới
chợ, hiện nay tại Cư M’gar địa hình thuận lợi, hầu hết các hộ người Dao có điều
kiện mua sắm được các xe máy, xe đạp điện... vì việc đi lại thuận tiện không cần

chờ chợ phiên như trước đây để mau hàng hóa thiết yếu như trước.
3.2. 4. Các hoạt động sinh kế mới
Theo thống kê tại xã Cư Suê có tới 190 cơ sơ kinh tế phi nông nghiệp với số
lao động là 221 người, tại xã Ea Mdro’h có số lượng ít hơn với 93 cơ sở và 116
lao động. Đây hầu hết là các cơ sở kinh doanh nhỏ tại cộng đồng như buôn bán
tạp hoá, bánh kẹo, hàng ăn, quán cà phê, thu mua phế liệu.Các loại hình sinh kế

1
5


khác như xây dựng cũng đã xuất hiện trong cộng đồng người Dao, đây là những
hộ lấy việc nhận các công trình xây dựng nhỏ, tính chất gia đình. Hình thức tín
dụng tư nhân cũng xuất hiện trong cộng đồng, những người làm nghề này thường
là những hộ có điều kiện kinh tế, thường hỗ trợ các hộ gia đình khác trong cộng
đồng về tài chính trong thời gian ngắn và với phương thức thuận tiện nhất.

Tiểu kết chương 3
Người Dao với truyền thống canh tác nương rẫy trên đất dốc đã có rất nhiều
kinh nghiệm trong các hoạt động sinh kế. Trong canh tác nông nghiệp truyền
thống của người Dao thì nương rẫy vẫn là hoạt động chủ đạo, ruộng nước mới du
nhập vào đời sống người Dao khoảng sau năm 1954 cùng với công cuộc định
canh định cư. Mặc dù vậy do điều kiện địa hình vì vậy diện tích dất ruộng không
nhiều, hầu hết chỉ làm được một vụ do đó không đáp ứng đuợc nhu cầu của người
dân.
Các loại cây trồng khác như: Ngô, khoai, sắn..vẫn chỉ là cây trồng phụ
không được coi trọng, năng suất thấp và chưa trở thành hàng hoá.Các hoạt động
sinh kế khác như chăn nuôi, khai thác nguồn lợi từ tự nhiên và ngay cả nghề thủ
công và các hoạt động trao đổi hàng hoá vẫn chỉ đuợc coi là hoạt động kinh tế bổ
trợ mặc dù không thể thiếu nhưng chủ yếu vẫn mgang tính tự cấp, tự túc vì vậy

dẫn tới tình trạng đời sồng người dân bấp bênh.
Tại huyện Cư M’gar, người Dao đã phải thay đổi trong các hoạt động
sản xuất để thích ứng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa bàn cư trú mới.
Các hoạt động canh tác nương rẫy truyền thống vẫn được duy trì, tuy nhiên đã có
sự thay đổi đáng kể trong kỹ thuật canh tác, giống, mùa vụ để phù hợp với điều
kiện tự nhiên tại vùng đất mới. Các loại cây trồng có tính hàng hóa và cho thu
nhập cao như cà phê, tiêu được người dân tiếp thu, học hỏi và phát triển đã góp
phần thay đổi đời sống của người Dao di cư, tuy nhiên những cây lương thực
truyền thống khác vẫn được người dân duy trì và đóng góp đáng kể vào đời sống
của người dân.
Quá trình thích ứng đó đã diễn ra và có nhiều yếu tố tác động tới thói quen
sinh hoạt, canh tác cũng như đời sống văn hóa tộc người. Từ kinh tế tự cung tự
cấp, sản xuất cây lương thực là chính chuyển sang sản xuất hàng hóa và thích ứng
với nền kinh tế thị trường, từ sản xuất quy mô nhỏ với diện tích canh tác hạn chế
sang sản xuất quy mô lớn với các trang thiết bị canh tác hiện đại. Điều này đã có
những tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của đồng bào
Dao di cư ở Tây Nguyên.
Các nghề mới cũng xuất hiện trong cộng đồng người Dao tại địa phương,
đã xuất hiện những hộ theo mô hình kinh doanh vừa và nhỏ, đặc biệt mô hình
trang trại với hình thức sản xuất lớn cũng đã hình thành, một số nghề khác như

1
6


xây dựng, làm thuê, cho vay...cũng đã xuất hiện nhưng không nhiều.
CHƯƠNG 4: CÁC YẾU TÁC ĐỘNG TỚI SINH KẾ CỦA NGƯỜI
DAO DI CƯ Ở HUYỆN CƯM’GAR
4.1. Các chính sách Đảng và Nhà nước liên quan đến di cư và sinh kế của
người Dao


4.1.1.
Chính sách định canh định cư
Trong thời gian gần đây, để tiếp tục hỗ trợ đồng bào các dân tộc thực hiện
việc ĐCĐC, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho vùng và hộ gia đình
để đất sản xuất, ổn định đời sống xoá đói giảm nghèo
4.1.2.
Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh
hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số đời sống khó khăn
Đối với người Dao tại xã Ea Mdro’h đến nay đã có 14 hộ được hỗ trợ làm
nhà theo chương trình, khi triển khai đa số người dân đều tự xây dựng nhà ở với
sự giúp đỡ của bà con thôn bản trong thời gian qua tại xã Ea Mdro’h đã hỗ trợ
cho hai hộ nghèo là người dân tộc Dao mỗi hộ 5 sào đất nông nghiệp
(5.000m2/hộ).
4.1.3.
Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Trên cơ sở các chính sách của Đảng và nhà nước trong việc đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng đến nay tại xã Ea Mdro’h đã có 4 tuyến đường liên xã chính với
tổng chiều dài là 16,41km, hồ chứa nước, hệ thống điện lưới quốc gia, các cấp
học từ mầm non tới trung học phổ thông đã được hoàn thiện.
4.1.4.
Các chính sách khác
Hiện nay xã Cư Suê có 23 tổ vay vốn thông qua Hội phụ nữ hoặc Hội Nông
dân. Tổng dư nợ đến hết tháng 10 năm 2013 là 13.580.032.389đ ( Mười ba tỷ
năm trăm tám mươi triệu không trăm ba mươi hai nghìn ba trăm tám mươi chín
đồng.
Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục - đào tạo
Hiện nay xã Cư Suê và Ea Mdro’h đã được công nhận phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, hoàn thành thay sách và trang thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo
dục phổ thông, học sinh tại xã Ea Mro’h được cấp sách giáo khoa miễn phí (xã

135). Hệ thống trường học từ mầm non tới phổ thông cơ sở đều được kiên cố hóa,
số lượng giáo viên tại các trường đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo ở mầm
non là 69,1%,tiểu học 98,68%, trung học cơ sở 98,37%.
Chính sách y tế cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo và cận nghèo
Cùng các nguồn vốn đầu tư khác, Bộ Y tế được Chính phủ giao thực hiện đầu tư
cho y tế tuyến tỉnh, huyện, xã trên địa bàn các xã ĐBKK thuộc Chương trình 135.
Đến nay, cơ sở y tế các xã 135 được cải thiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị,
đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong vùng.
4.1.5.
Đánh giá của người dân trong việc thực hiện các chính sách
1
7


tại địa phương
Việc triển khai các chính sách của Đảng và Nhà nước được chính quyền các
cấp thực hiện một cách nhanh chóng và rộng khắp tại địa phương, chính vì vậy
người dân nắm bắt được thông tin dễ dàng.
4.2. Biến đổi của phong tục tập quán và nghi lễ liên quan đến sản xuất nông
nghiệp

Những biến đoi trong nghi lễ liên quan tới mùa vụ
Duy trì các nghi lễ truyền thống là vấn đề luôn được ngườ Dao quan tâm
việc tiết giảm các nghi lễ được thông qua một cách công khai bằng bỏ phiếu tại
cuộc họp của cả cộng đồng. Từ đây các nghi lễ Ái xang môn (1/4 âm lịch), Nám
xang môn (1/7 âm lịch) và Nám xang môn (1/10 âm lịch) và chỉ còn tổ chức
Sằng môn man (cầu mùa) và Nám xang môn man (trả lễ).
Biến đoi trong nghi lễ gia đình
Hiện nay người Dao tại xã Ea Mdro’h chỉ còn duy trì các nghi lễ: Hóa vàng,
Thanh minh, Xá tội vong nhân, Cúng cơm mới và tết Nguyên đán.Tại đây cũng

có một biệt lệ so với quê cũ đó là người đứng chủ thực hành nghi lễ (đều là chủ
nhà) nếu theo đúng phong tục phải là người đã được cấp sắc mới được phép thực
hiện nhưng do không phải ai cũng có điều kiện để làm lễ (phải làm nhà thờ họ tại
quê cũ).
Những biến đoi trong nghi lễ của cộng đồng
Sự thay đổi quan trọng nhất đó là hạn chế số lượng các nghi lễ cộng đồng,
hiện nay ở khu vực người Dao sinh sống tại huyện Cư M’gar không còn duy trì
các nghi lễ Ái xang môn (1/4 âm lịch), Nám xang môn (1/7 âm lịch) và Nám
xang môn (1/10 âm lịch), hiện nay chỉ duy trì 2 lễ chính là Sằng môn man - lễ
cầu mùa (đầu năm âm lịch) và Nám sang môn man (cuối năm) để trả ơn tổ tiễn
và thần thánh.
4.3. Tác động của biến đoi sinh kế tới đời sống kinh tế, xã hội của hộ gia
đình người Dao di cư
4.3.1.
Tác động đến kinh tế hộ gia đình
Với mục tiễu là làm kinh tế, vì vậy thu nhập của các hộ người Dao định cư
tại Cư Suễ và Ea Mdro’h ngày càng tăng, nhất là với những hộ đã định cư sớm.
Từ kết quả điều tra cho thấy số hộ có thu nhập trên 100 triệu đồng/năm có tỷ lệ
khá cao (48% ở xã Cư Suễ và 29,6% ở Ea Mdro’h). Nếu so với ở quễ cũ thì nhu
nhập của người Dao ở Cư M’gar là điều mơ ước. Nguồn thu nhập chính từ các
loại cây công nghiệp đã mang đến cho người Dao cuộc sống khá ổn định, mua
sắm được nhiều trang thiết bị sinh hoạt hiện đại. Nhiều hộ gia đình không chỉ
thoát nghèo mà còn vươn lễn làm giàu trễn vùng quễ mới.
4.3.2.
Tác động đến tình hình sử dụng đất của người Dao
Từ số liệu điều tra, trung bình một hộ tại xã Cư Suễ sở hữu 16.378 m 2 đất,
trong khi đó tại xã Ea Mdro’h là 18.830 m2, hầu hết là đất sản xuất, đất dành cho
1
8



cây công nghiệp có diện tích lớn nhất với 10.822 m 2/hộ (Cư Suễ) và 9.806 m2/hộ
(Ea Mdro’h). Đất dành cho sản xuất nông nghiệp cũng được người dân quan tâm
với diện tích không hơn kém bao nhiễu giữa hai xã, đối với đất cây hàng năm thì
trung bình mỗi hộ điều tra rất thấp, tại Ea Mdro’h chỉ là 1.684 m2/hộ trong khi đó
tại Cư Suễ là 1.047m2/hộ. Giá trị đất nông nghiệp qua điều tra cho thấy tại Cư
Suễ trung bình khoảng 46,31 triệu đồng/sào, còn đối với Eamdro’h là 21,93 triệu
đồng/sào. Đất canh tác trở thành loại hàng hoá đặc biệt và người Dao cũng như
các dân tộc tại chỗ rất coi trọng việc mở rộng diện tích canh tác. Do vậy, nhiều
vấn đề về quản lý và sử dụng đất đang đặt ra ở huyện Cư M’gar liễn quan đến
quyền sử dụng và mua bán đất đai, đặc biệt trong những năm gần đây.

4.3.4. Tác động đến việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa
Sinh kế đã mang lại thu nhập cho hộ gia đình, người dân dễ dàng tiếp cận
các dịch vụ y tế, giáo dục và văn hóa hơn. Ngay tại số liệu điều tra thực tế tại xã
Ea Madro’h và Cư Suễ cũng cho thấy tình trạng tương tự, khi mà bản thân chủ hộ
hầu hết có học vấn thấp, chưa tốt nghiệp trung học phổ thông. Tuy nhiên hiện nay
100% trẻ em trong độ tuổi đều được tới trường, bản thân các hộ người Dao cũng
rất chú ý tới việc học tập của con em mình.
Tiểu kết chương 4
Nhằm ổn định đời sống đồng bào dân tộc thiểu số đến nay hàng loạt các
chính sách, dự án đã được thực hiện tại xã Cư Suê và Ea Mdro’h dưới nhiều hình
thức khác nhau, những chính sách đó đã giúp người dân phát triển kinh tế, cải
thiện điều kiện sống của đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có người Dao. Mối
quan hệ giữa người Dao và các tộc người cùng sinh sống, đặc biệt là người Ê đê
ngày càng được cải thiện rõ nét thông qua các nghi lễ có tính chất cộng đồng (lễ
hội đoàn kết dân tộc) hay của hộ gia đình như việc cưới, tang ma...
Cùng với việc định cư, những nghi lễ tôn giáo trong các hoạt động nông
nghiệp được duy trì trong đồng bào, tuy nhiên những yếu tố nguyên gốc đã thay
đổi nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của đồng bào tại nơi ở mới. Các hoạt động

được giản trừ về mặt số lượng, thời gian và vật phẩm nhưng vẫn đảm bảo tính
thiêng và đáp ứng các nhu cầu tâm linh của người dân tại nơi ở mới.
Đời sống của người Dao tại Cư M’gar ngày càng tốt hơn, thu nhập của hộ
dân ngày càng tăng cao, cùng với đó là sự đa dạng trong các nguồn thu của hộ
thông qua chăn nuôi, buôn bán nhỏ, tiền tích luỹ, làm thuê. Mặc dù vậy thu nhập
chính của người dân vẫn là từ trồng các loại cây công nghiệp như: Cà phê,
tiêu..Từ việc đa dạng hoá nguồn thu cũng như từ cà phê và tiêu số hộ có tích luỹ
cao ngày càng tăng. Nhiều hộ đã vươn lên có kinh tế khá giả và giàu có. Cùng với
sự cải thiện kinh tế hộ gia đình cơ hội tiếp cận với các dịch vụ công như y tế, giáo
dục của người Dao di cư cũng được cải thiện...Trẻ em người Dao có nhiều cơ hội

1
9


đến trường hơn và người Dao đã được tiếp cận đầy đủ hơn với các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe
CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
5.1. Kết quả

5.1.1.
Tây Nguyên là mảnh đất hấp dẫn với những điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho việc đảm bảo sinh kế của người Dao di cư tự do
Tây Nguyên với thế mạnh có nhiều tiềm năng về điều kiện tự nhiên đã trở
thành mảnh đất hấp dẫn các dân tộc miền núi phía Bắc di cư đến.
Về khí hậu, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới ôn hòa, mát mẻ thuận lợi cho cây
trồng phát triển. Mật độ dân số còn thấp cũng là cơ hội thuận lợi cho người Dao
có thể đưa một lượng lớn người đồng tộc, có quan hệ họ hàng, làng bản vào khai
phá vùng đất mới, an cư lập nghiệp. Với diện tích đất trồng cây công nghiệp khá
lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, thực sự là sức hút mạnh mẽ đối với người Dao

di cư với mong muốn tìm được vùng đất mới để ổn định cuộc sống.
5.1.2.
Biến đổi sinh kế là quá trình thích ứng của người Dao ở nơi
ở mới và phù hợp với xu thế phát triển
Với sự thích ứng nhanh chóng trong lao động, sản xuất và đặc biệt là các
phương thức sinh kế mới ở vùng đất Tây Nguyên, người Dao di cư đã sớm ổn
định đời sống. Nguồn thu nhập của người Dao tăng lên đáng kể, ngoài thu nhập
từ cây lương thực, chăn nuôi theo phương thức truyền thống, người Dao di cư còn
có thêm nguồn thu nhập lớn từ các loại cây công nghiệp như cà phê, tiêu, điều,...
Đời sống của người Dao di cư từng bước được cải thiện, hầu hết các hộ gia đình
đã xây dựng được nhà ở khang trang, mua sắm được nhiều tiện nghi đắt tiền và
đã có tiền tích lũy làm vốn sản xuất cho gia đình và đầu tư vào việc học hành cho
con cháu. Với các nguồn lực như vậy, người Dao di cư ở huyện Cư M’gar đang
có những bước phát triển ổn định và bền vững.
5.1.3.
Quá trình biến đoi sinh kế diễn ra nhanh chóng, vừa bảo lưu
những yếu tố truyền thống và tiếp nhận những giá trị mới
Khi định cư tại Cư M’gar việc canh tác nương rẫy truyền thống của nguời
Dao tại quê cũ không thể thực hiện, việc diện tích rừng thu hẹp và lệnh cấm phá
rừng đã phần nào ảnh hưởng tới canh tác truyền thống. Từ cư dân canh tác nương
rẫy là chính họ chuyển sang làm ruộng với hai loại hình ruộng nước và ruộng
khô. Ruộng nước tại Cư M’gar không nhiều nhưng canh tác được 2 vụ, trong khi
đó đối với ruộng khô người dân trồng thêm các loại rau củ để phục vụ cho nhu
cầu gia đình. Trong những năm gần đây việc chuyển dịch sang trồng các loại cây
công nghiệp như cà phê, tiêu diễn ra nhanh chóng trong cộng đồng nguời Dao tại
Cư M’gar và đây đuợc coi là nguồn thu chính và chủ yếu của người dân.

2
0



5.2. Bàn luận

5.2.1.
Sinh kế có tác động đến quan hệ tộc người giữa ngưòi Dao di
cư và các dân tộc khác tại Tây Nguyên
- Tác động đến quy hoạch và phát triển sản xuất
Do đa số người dân sống bằng nông nghiệp vì vậy việc đầu tư công sức và
tiền của vào đất để tăng thu nhập là điều tất yếu. Có tới 68,6% số người được hỏi
tại xã Cư Suê và 60,2% ở xã Ea Mdro’h khẳng định họ sẽ đầu tư thêm vào đất đai
của gia đình. Lý do họ đầu tư thêm là có nhiều giống cây lương thực mới cho
năng suất tốt với 47,1% (Cư Suê) và 76,3% (Ea Mdro’h). Trong khi đó với lý do
hệ thống thủy lợi tốt hơn hay được nhà nước có chính sách hỗ trợ có tỷ lệ đồng ý
không cao chỉ đạt từ 10 đến 16,9% trên cả hai xã.
- Vấn đề quản lý và sử dụng đất
Những người di cư thường là những hộ thiếu đất sản xuất, chính vì vậy mục
tiêu được sở hữu một mảnh đất để canh tác là một trong những mong muốn hàng
đầu của người dân. Bằng nhiều con đường khác nhau như phá rừng làm rẫy, xâm
lấn đất lâm trường, mua bán chuyển nhượng đất đai.... Chính vì vậy dẫn đến
những rủi ro và phát sinh khiêu kiện liên quan tới đất. Hầu hết các hộ gia đình
người Dao chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hơn 70%), gây ra
nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý và sử dụng đất ở địa phương.
5.2.2.
Sinh kế và biến đoi sinh kế của người Dao ảnh hưởng tới
việc bảo vệ môi trường bền vững
Như vậy có thể thấy trong 10 năm qua cùng với sự gia tăng của số người di
cư (trong đó có người Dao) vào Cư M’gar là diện tích đất nông nghiệp tăng theo,
song song đó là giá trị trong sản xuất nông nghiệp năm sau tăng cao hơn năm
trước, nếu như năm 2001 giá trị nông nghiệp toàn huyện chỉ đạt 601.553 triệu
đồng thì tới năm 2005 tăng lên 1.549.125 triệu đồng và tới năm 2011 tổng giá trị

nông nghiệp đạt 5.481.467 triệu đồng. Cùng với sự gia tăng diện tích và giá trị
trong nông nghiệp là việc rừng tự nhiên bị đốn hạ dẫn tới tình trạng xói mòn đất
cũng như nhu cầu tưới nước cho cây trồng vào mùa khô ngày càng cao đã dẫn tới
vấn đề suy kiệt nguồn nước ngầm, nhất là trong mùa khô. Điều này cho thấy
những thách thức được đặt ra ngày càng lớn đối với cộng đồng dân cư nói chung
và người Dao nói riêng trong việc phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp
theo. Như vậy có thể thấy diện tích đất rừng giảm, đất nông nghiệp gia tăng, tuy
nhiên việc sản xuất lương thực đang co nguy cơ suy giàm do diên tích đất bạc
màu tăng lên.
5.2.3.
Ôn định sinh kế góp phần quan trọng trong On định đời
sống và phát triển của người Dao di cư và phát triển bền vững Tây
Nguyên
Những người di cư thường sinh sống tập trung thành các làng bản riêng, từ
nhà cửa tới phong tục tập quán trong sinh nở, hôn nhân, ma chay... vấn giữ được
2
1


như ở quê cũ. Mặc dù vậy do coi nơi định cư mới là nơi sinh sống gắn bó lâu dài,
vì thế vấn đề hòa nhập với cộng đồng dân tộc tại chỗ cũng như cộng đồng tộc
người di cư khác luôn được đặt ra đối với người Dao
Do số hộ di cư đến tăng lên nhanh chóng do đó vấn đề đất canh tác cho các
hộ người Dao định cư trở thành nỗi lo thường trực của người dân và chính quyền
địa phương. Giai đoạn đầu khi đất còn nhiều người dân được chính quyền giúp đỡ
trong việc khai phá đất để đảm bảo sinh kế. Tuy nhiên số lượng đất do chính
quyền địa phương quản lý có hạn không thể đáp ứng đuợc nhu cầu ngày cao của
người dân nhất là những hộ mới di cư tới.
Chính từ sự bức xúc của người dân dẫn tới địa bàn trở thành điểm nóng
trong vấn đề an ninh trật tự tại địa phương, những phần tử xấu từ nơi khác tập

trung khai thác, lôi kéo người dân theo đạo, chống đối lại chính quyền địa
phương. Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự vào cuộc của chính quyền địa
phương hiện nay tình hình đã ổn định, các hộ dân đều có đất đảm bảo cuộc sống
của gia đình, tuy nhiên có tới 70% số hộ không có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Đây cũng là một trong những thiệt thòi của các hộ dân vì như vậy
không thể thế chấp để vay vốn ngân hàng nhằm đầu tư làm ăn theo hướng lâu dài
và ổn định.
5.3. Một số^ vấn đề tiếp tục nghiên cứu
- Vấn đề đất đai và quan hệ tộc người của người Dao di cư đối với các
nông trường, xí nghiệp và các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên
- Vấn đề quản lý và sử dụng đất của người dân tộc thiểu số di cư tới Tây
nguyên.
- Hoạt động sinh kế của người Dao di cư có so sánh với các dân tộc thiểu
số di cư từ miên núi phía Bắc vào Tây nguyên như Hmông, Thái, Tày,
Nùng.
5.4. Một số khuyến nghị
Di cư, tái định cư cũng như sinh kế của người di cư nhất là liên quan tới
DTTS, trong đó có người Dao đang là vấn đề đặt ra tại Tây Nguyên. Các chính
sách của tỉnh và Trung ương cần tập trung vào các giải pháp ổn định đồi sống và
sinh kế cho các hộ dân. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế tại địa phương tôi đưa ra
nhóm kiến nghị nhằm ổn định đời sống của người di cư trong đó tập trung vào
các hộ DTTS.
Một là kiến nghị về ổn định sinh kế gắn với quản lý và sử dụng đất đai với người
di cư ở Tây Nguyên; Rà soát và có kế hoạch phân bổ lại đất một cách hợp lý đủ
cho người Dao di cư nhằm đảm bảo đời sống và ổn định sinh kế người dân. Tạo
điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất để người Dao yên tâm
ổn định đời sống lâu dài; Hỗ trợ sản xuất đối với người Dao di cư; Hai là tăng
cường và cải cách các chính sách liên quan nhằm cải thiện hiệu quả di dời, di cư
và tái định cư để nâng cao khả năng thích ứng của người dân.


2
2


Ba là đẩy mạnh thực hiện các chương trình của quốc gia và của tỉnh để cải thiện
điều kiện sống, giải pháp sinh kế cho người di cư, tái định cư, cộng đồng di dời
và cộng đồng tiếp nhận.
Bốn là tăng cường năng lực thể chế và quy trình hoạt động, đảm bảo thực hiện
bảo trợ xã hội đối với người nhập cư trong bối cảnh hiện nay. Nâng cao kiến thức
và hiểu biết về mối quan hệ giữa nhu cầu của người di cư, tái định cư và tư cách
pháp nhân của người nhập cư tại địa phương và nâng cao nhận thức về vấn đề
này.
KẾT LUẬN
Để đảm bảo sinh kế, người Dao đã di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Cao Bằng
và các địa phương khác ở miền núi phía Bắc vào huyện Cư M’gar tỉnh Đăk Lăk.
Họ di cư thành nhiều đợt khác nhau, đến năm 2009 toàn huyện có tới hơn 9000
người.Lý do di cư của người Dao chủ yếu là do ở quê cũ vùng miền núi phía Bắc
họ thiếu đất sản xuất, đời sống gặp nhiều khó khăn, trong khi đó có nghe theo họ
hàng vào trước và định cư tại đây về một vùng đất có nhiều tiềm năng phát triển
sản xuất vì có nhiều đất, chủ động được nguồn nước và quan trọng nhất là đã có
người cùng họ sinh sống từ trước. Chủ hộ người Dao đi cư đa phần là nam, hầu
hết trong độ tuổi lao động, tuy nhiên học vấn không cao, quy mô hộ không lớn
chủ yếu từ 4 đến 5 người/hộ do đó hầu hết họ hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp là chủ yếu.
Canh tác là phương thức sinh kế chủ yếu của người Dao di cư và luôn giữ vị
trí quan trọng, kể cả trong truyền thống và hiện nay. Với đặc điểm sinh kế truyền
thống là canh tác nương rẫy trên đất dốc với cây trồng chủ đạo là ngô, lúa nước
và các loại hoa màu khác chỉ mang tính chất hỗ trợ thêm do đó việc thiếu đói
luôn thường trực trong các hộ dân nhất là giai đoạn giáp hạt. Các hoạt động sinh
kế khác như săn bắt, hái lượm hay trao đổi hàng hoá vẫn chỉ mang hình thức kinh

tế phụ trợ là chủ yếu chứ chưa chuyển thành thị trường chuyên biệt.
Ở địa bàn cư trú mới, các hoạt động canh tác nương rẫy truyền thống vẫn
được duy trì, tuy nhiên đã có sự thay đổi đáng kể trong kỹ thuật canh tác, giống,
mùa vụ để phù hợp với điều kiện tự nhiên tại vùng đất mới. Các loại cây trồng có
tính hàng hóa và cho thu nhập cao như cà phê, tiêu được người dân tiếp thu, học
hỏi và phát triển đã góp phần thay đổi đời sống của người Dao di cư, tuy nhiên
những cây lương thực truyền thống khác vẫn được người dân duy trì và đóng góp
đáng kể vào đời sống của người dân.
Khi người Dao di cư tự do đặt chân vào vùng Cư M’gar, điều kiện sản xuất
và các hoạt động sống của họ thay đổi không giống như quê cũ. Các loại giống và
nông cụ mang theo đều không phát huy hiệu quả khi sử dụng vì chúng chỉ phù
hợp với khu vực đất dốc và khí hậu như ngoài Bắc. Để tồn tại, họ đã học hỏi cách
canh tác của những những tộc người tới trước và tộc người tại chỗ nơi họ di cư

2
3


tới. Từ những thời điểm học hỏi kinh nghiệm về giống, mùa vụ đã đảm bảo cho
người dân có đủ lương thực để sinh sống và bám trụ nơi đất mới. Đất đai là mối
quan tâm hàng đầu với người di cư, do đó việc sở hữu một cuộc đất là nhiệm vụ
ưu tiên hàng đầu. Diện tích đất trung bình của một hộ tại địa bàn điều tra khá lớn
trên 10.000m2/hộ. Giá trị đất ngày càng tăng vì vậy những hộ sở hữu nhiều đất
trở thành những người giàu có tại địa phương. Tinh hình kinh tế hộ gia đình
người Dao tại đại bàn điều tra đa phần là tốt hơn quê cũ, hộ nghèo không nhiều
chủ yếu là những hộ mới di cư hoặc tách hộ những năm gần đây. Việc thuê mướn
nhân công trong dịp mùa vụ diễn ra thường xuyên, người Dao và người Ê đê đều
làm thuê cho nhau
Cùng với sự phát triển của các loại cây công nghiệp, người Dao đã nhanh
chóng tham gia vào quá trình hình thành các vùng chuyên canh tại địa phương,

cây cà phê, tiêu... là những loại cây cho thu nhập cao, tuy nhiên việc đầu tư tốn
kém và lâu cũng như cần phải có kỹ thuật chăm sóc chuyên biệt. Đặc biệt may
mắn là tại Cư M’gar có một nhóm người Dao đã định cư tại đây từ trước năm
1975 trong số đó khá nhiều người làm công nhân và sinh sống tại lâm trườngcà
phê do các ông chủ người Pháp sở hữu. Chính những người này đã dạy lại kỹ
thuật trồng cà phê, tiêu. cho đồng bào của họ di cư vào Cư M’gar sau này. Nhờ
đó rất nhiều người nắm vững kỹ thuật đã thành công trong việc biến sản phẩm
của gia đinh thành hàng hoá và có đời sống sung túc.
Những biến đổi về sinh kế ở vùng đất mới đã giúp cho kinh tế trong các hộ
người Dao di cư ngày càng tốt hơn, họ có tiền tích luỹ và mua thêm đất để mở
rộng canh tác cà phê, tiêu và các cây lương thực, cây hoa màu như ngô, lúa và
hoa mầu như đậu xanh. Nguồn thu vi vậy càng gia tăng do đó người dân dùng
tiền mua sắm máy nông cụ để phục vụ cho sản xuất và các phương tiện hiện đại
khác nhằm sử dụng trong đời sống hàng ngày của người dân.
Trong quá trình thay đổi sinh kế và thích ứng với điều kiện sống mới, người
Dao đã định cư và có các mối quan hệ khá tốt với người dân địa phương, tạo ra
mối quan hệ tốt đẹp giữa người Dao với các dân tộc tại chỗ như người Ê đê. Tuy
nhiên, quá trình di cư của người Dao và sự phát triển nhanh chóng của các loại
hình sinh kế mới như hình thành các vùng cây công nghiệp chuyên canh đã dẫn
tới nhiều vấn đề trong quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững như quản lý
đất đai, quản lý các mối quan hệ tộc người, quản lý môi trường,. Đây cũng là vấn
đề đặt ra trong quá trình phát triển đối với người Dao di cư nói riêng và vùng đất
Tây Nguyên nói chung.

Người Dao tại Cư M’gar đã từng bước vững chắc ổn
định đời sống, phát huy tinh thần vượt khó làm giàu
trên quê hương mới. Mối quan hệ tốt đẹp của người
Dao với các tộc người khác thông qua các hoạt động
2
4



giao lưu văn hoá giữa người Dao và các cộng đồng
khác như Tày, Nùng và nguời Ê đê bản địa được duy
trì, đặc biệt trong ngày hội đại đoàn kết được tổ chức
hàng năm đựơc bà con nhiệt tinh đón nhận. Là cơ sở
vững chắc để xây dựng nên mối quan hệ đoàn kết
giữa các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên.

2
5


×