Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Một số vấn đề về tài sản theo quy định của bộ Luật Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.86 KB, 34 trang )

Một số vấn đề về tài sản theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự
Xã hội ngày càng phát triển và đi lên mạnh mẽ. Trong xu thế hội
nhập kinh tế thế giới hiện nay thì vấn đề giao lưu dân sự giữa các
quốc gia, các tập đoàn, công ty, các tổ chức, cá nhân công dân
cũng được phát triển mạnh mẽ. Quan hệ tài sản là một trong
những quan hệ quan trọng nằm trong đối tượng điều chỉnh của
luật dân sự cũng cùng đó mà được phát triển và mở rộng hơn.
Quan hệ này là quan hệ giữa người với người thông qua một tài
sản. Vậy để quản lý tốt hơn các mặt trong quan hệ tài sản thì cần
thiết phải đặt ra những quy định đúng đắn và chính xác về chế
định tài sản. Tài sản luôn được đánh giá là biểu hiện cho sự phát
triển văn minh của xã hội loài người, là điều hết sức quan trọng và
cần thiết để duy trì một đời sống kinh tế vững mạnh và phát triển.
Việc nghiên cứu mang tính lý luận về tài sản sẽ mang ý nghĩa to
lớn trong công tác quản lý xã hội của nhà nước, cũng như phát
hiện được những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật hiện hành
quy định về tài sản ở nước hiện nay rồi từ đó tìm hướng giải quyết.
Bộ luật Dân sự 2005 (bộ luật hiện hành của nước ta) có các quy
định về vấn đề tài sản. Vì muốn được tìm hiểu rõ hơn các quy định
của pháp luật về tài sản nên em xin lựa chọn đề tài: “Một số vấn
đề về tài sản theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự” cho bài
tập lớn học kỳ.
Do kiến thức còn hạn chế mà bài làm của em sẽ không tránh khỏi
thiếu sót, em mong nhận được sự nhận xét của thầy, cô để bài
được hoàn thiện hơn.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


I. Khái quát chung về tài sản
1. Khái niệm tài sản.
Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt


động trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Nó là vấn đề trung
tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp
luật nói riêng. Tài sản là một công cụ của đời sống xã hội nên khái
niệm về tài sản không phải là một khái niệm thuần túy có tính học
thuật mà là một khái niệm có tính mục đích cao. Khái niệm này
phải đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của xã hội. Tài sản không
thể được xem xét tách rời các giá trị xã hội.
Có thể hiểu tài sản là của cải được con người sử dụng. Với nghĩa tài
sản luôn gắn với một chủ thể xác định. Theo nghĩa này thì tài sản
luôn biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của thời gian, của
điều kiện xã hội, của sự nhận thức con người về giá trị vật chất
nên phạm vi của tài sản qua mỗi thời kì lại được nhìn nhận ở một
góc độ khác nhau. Có thể nhận thấy tài sản là khách thể của
quyền sở hữu, nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là
kết quả của các hoạt động sáng tạo tinh thần.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định tại Điều 172 BLDS
năm 1995: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163 BLDS 2005 (Bộ
luật dân sự hiện hành) quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản”. Nhận thấy, khái niệm tài sản theo
BLDS 2005 đã mở rộng hơn BLDS 1995 về những đối tượng nào
được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật có thực” mới


được gọi là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương
lai cũng được gọi là tài sản.
Tuy nhiên, cũng giống như BLDS 1995, BLDS 2005 cũng đưa ra
khái niệm tài sản theo hình thức liệt kê, điều này đã không đáp
ứng sự phát triển của thực tiễn cuộc sống và gây ra sự tranh cãi về
một số đối tượng như: tài sản ảo trong game online, khoảng

không, hệ thống khách hàng … có được coi là tài sản trong pháp
luật dân sự hay không? Chính điều này đòi hỏi cơ quan lập pháp
phải tiến hành sửa đổi quy định về khái niệm tài sản trong BLDS
theo hướng khái quát hơn và đưa ra những tiêu chí để phân biệt
đâu là tài sản, đâu không phải là tài sản.
Đã có nhiều quan điểm khác nhau bàn về vấn đề như thế nào được
coi là tài sản, có thể đưa ra một số quan điểm như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: tài sản là đối tượng của quyền sở
hữu. Như vậy, theo quan điểm này muốn hiểu tài sản là gì thì trước
tiên chúng ta phải hiểu quyền sở hữu là gì? Tuy nhiên, khái niệm
quyền sở hữu tại Điều 164 BLDS 2005 cũng chỉ được đưa ra theo
hướng liệt kê, theo đó, “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo
quy định của pháp luật”. Do đó, nếu áp dụng khái niệm này thì
chúng ta lại bị rơi vào vòng luẩn quẩn định nghĩa tài sản thông qua
một khái niệm quyền sở hữu trong khi đó bản thân khái niệm
quyền sở hữu cũng chưa giải quyết được một cách triệt để, thậm
chí còn là phái sinh từ khái niệm tài sản.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: tài sản là của cải vật chất tồn tại
dưới dạng cụ thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng


giác quan tiếp xúc như xe ôtô, môtô, bàn, ghế, máy tính, giường,
tủ, tờ tiền… Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những gì thuộc
về thế giới vật chất, hiện đang tồn tại và chúng ta có thể cầm,
nắm… được thì mới được coi là tài sản. Do đó, quyền tài sản không
được coi là tài sản.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: tài sản bao gồm động sản và bất
động sản. Đây thực chất là một cách phân loại tài sản dựa trên
tính chất vật lý không di dời được về mặt cơ học và nó cũng rơi

vào vòng luẩn quẩn như quan điểm thứ nhất khi định nghĩa tài sản
thông qua khái niệm bất động sản và động sản trong khi đó khái
niệm bất động sản và động sản cũng chưa được làm sang tỏ và
thậm chí muốn hiểu thế nào là bất động sản và động sản thì phải
hiểu thế nào là động sản trước. Hơn nữa, nếu theo quan điểm này
thì quyền tài sản không biết được xếp vào bất động sản hay động
sản.
- Quan điểm thứ tư cho rằng: tài sản là những gì định giá được.
Nhận xét, quan điểm trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý vì: Thứ
nhất, tài sản là những gì định giá được có thể hiểu là tài sản là
những gì trị giá được bằng tiền và tiền ở đây chỉ được hiểu là nội tệ
vì ngoại tệ không được coi là tiền, bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ
được coi là công cụ thanh toán đa năng – một tính năng quan
trọng nhất của tiền. Như vậy, tiền sẽ được định giá bằng gì? Và nó
có được coi là tài sản không? Thứ hai, nếu cứ những gì định giá
được thì được gọi là tài sản, vậy tài sản nợ - nghĩa vụ trả nợ cũng
sẽ được xem là tài sản vì nó cũng có thể định giá được (cứ xem giá
của nó là 0 đồng thì giá 0 đồng hoàn toàn khác với không định giá
được), trong khi đó, tài sản thì có thể để lại thừa kế được còn nghĩa


vụ trả nợ thì không để lại thừa kế được, trừ nghĩa vụ trả nợ trong
phạm vi di sản do người chết để lại.
Trên đây là bốn trong số rất nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm tài sản dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, đánh giá được rằng
các quan điểm nêu trên (như đã phân tích) đều bộc lộ những bất
cập và chưa đưa ra được tiêu chí để xác định những gì được gọi là
tài sản.
Quay lại với khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS
2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài

sản”.
Trong đó, vật được hiểu là bộ phận của thế giới khách quan mà
con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan của mình.
Tuy nhiên chỉ những vật nằm trong sự chiếm hữu của con người và
trở thành đối tượng của giao lưu dân sự thì được coi là tài sản. Tiền
theo kinh tế - chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng
làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi
là tiền hiện nay khi nó có giá trị lưu hành trên thị trường. Giấy tờ
có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay,
đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và tổ chức tín
dụng. Nó được hiểu là giấy tờ có trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao lưu dân sự.
Ngoài vật, tiền, giấy tờ có giá thì tài sản còn được xác định là
quyền tài sản được quy định tại điều 181 của Bộ luật dân sự 2005:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Quyền tài
sản được hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được


pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của
mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại
vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là
quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thực hiện
nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản.
Có thể thấy rằng những loại tài sản được pháp luật thừa nhận tại
Điều 163 BLDS 2005 là kết quả của quá trình phát triển lưu thông
dân sự được nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, pháp luật thường
chậm hơn thực tiễn nên việc liệt kê sẽ rất có thể là không đầy đủ
hoặc không theo kịp sự phát triển của khoa học và đời sống. Bởi
vậy để đi tìm một khái niệm chung nhất cho tài sản là rất khó.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đặc biệt là với
nền kinh tế thị trường thì phạm vi tài sản là không hạn chế, chúng
bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Hiện nay, tài
sản vô hình đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học
kĩ thuật, sản xuất hàng hóa. Do vậy pháp luật ngày càng chú trọng
đến việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với sản phẩm trí
tuệ do con người tạo ra như với việc ban hành Luật sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra, cũng cần phân biệt khái niệm tài sản với khái niệm hàng
hóa trong khoa học chính trị - kinh tế học (là sản phẩm do con
người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa
được được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất
hàng hóa đó. Vì vậy thấy rằng đất đai, tài nguyên thiên nhiên là
vật (tài sản) chứ không phải hàng hóa. Như vậy, tài sản cần được
tiếp cận ở phạm vi rộng hơn so với khái niệm hàng hóa.
Ngày nay, tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm
trong sự chiếm hữu của một chủ thể, đó là một khái niệm rộng và


không giới hạn, luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà
con người nhận thức ra.
2. Đặc điểm của tài sản.
Xem xét trong nhiều quan niệm về tài sản, cũng như từ khái niệm
tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS 2005 có thể rút ra một số
đặc điểm cơ bản của tài sản như sau:
Một là, tài sản có giá trị thể hiện ở việc chúng đều trị giá được
bằng tiền. Tiền là thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Theo
Điều 163 thì những tài sản còn lại như vật, giấy tờ có giá, quyền
tài sản đều có thể quy đổi ra tiền.
Hai là, tài sản luôn phải đáp ứng một lợi ích nào đó cho chủ thể có
quyền (cả về vật chất lẫn tinh thần).

Ba là, tài sản là đối tượng trong lưu thông dân sự, chính bởi như
thế khái niệm về tài sản được mở rộng hay thu hẹp theo từng thời
kì để phù hợp với điều kiện giao lưu dân sự trong xã hội thời đó.
Bốn là, khái niệm tài sản trong cuộc sống khác với khái niệm tài
sản trong pháp lí. Pháp luật là công cụ thực hiện quyền lực, ý chí
của một nhà nước với các quan hệ xã hội. Bởi vậy nếu như nhà
nước không công nhận một loại tài sản thì nó sẽ không được điều
chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Sự quy định đâu là tài sản dựa
vào ý chí của nhà nước đưa vào bộ luật dân sự.
3. Phân loại tài sản


Tài sản là một chế định quan trọng của luật dân sự mà trong đó
việc phân loại tài sản có một ý nghĩa rất lớn, bởi tài sản là một
công cụ của đời sống xã hội. Nó liên quan tới hàng loạt các vấn đề
pháp lý như: thuế, bảo đảm nghĩa vụ dân sự, thừa kế, hiệu lực của
hợp đồng, bán tài sản, công khai, các quyền tài sản, thương mại,
tư pháp quốc tế…
Thứ nhất, dựa vào đặc tính vật lí của tài sản theo Điều 174 BLDS
2005 quy định: “1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản
gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; c) Các tài sản khác gắn
liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Cách phân loại này chủ yếu dựa vào đặc tính vật lí của tài sản là
có thể di dời được hay không thể di dời được. Đây là cách phân
loại truyền thống mà khá nhiều nước trên thế giới lựa chọn vì các
quy phạm điều chỉnh hai loại tài sản này là hai hệ thống riêng rẽ

độc lập với nhau khi áp dụng cho việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự liên quan.
Nhà làm luật cũng định nghĩa bất động sản theo phương pháp liệt
kê. Theo đó thì hiện nay đất đai và những tài sản gắn liền với đất
đai như nhà, công trình xây dựng, cây cối, tài nguyên… sẽ được coi


là bất động sản. Tuy nhiên điều luật đã quy định về bất động sản
một cách mở chứ không liệt kê khép kín như khái niệm tài sản ở
Điều 163 vì vậy những tài sản khác mà pháp luật quy định vẫn
được coi là bất động sản (như quyền sử dụng đất).
Việc phân loại động sản và bất động sản có nhiều ý nghĩa như: Xác
lập thủ tục đăng kí đới với tài sản (quyền sở hữu với bất động sản
được đăng kí theo quy định của BLDS và pháp luật về đăng kí bất
động sản, quyền sở hữu với động sản thì không đăng kí trừ trường
hợp pháp luật quy định khác); Xác định thời điểm chuyển giao
quyền sử hữu đối với tài sản (khoản 1, Điều 168 BLDS 2005); Xác
định được các quyền năng của chủ thể quyền đối với từng loại tài
sản nhất định; Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ đối với các
giao dịch có đối tượng là bất động sản trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận; Xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu (như
tại Điều 239 BLDS 2005 quy định nếu vật vô chủ, vật không xác
định được ai là chủ sở hữu là động sản sẽ thuộc sở hữu của người
phát hiện còn nếu vật là bất động sản thì sẽ thuộc sở hữu nhà
nước…); Xác định hình thức của hợp đồng; Là căn cứ để xác định
thời hạn thời hiệu và các thủ tục khác (thời hạn chuộc lại với đối
với tài sản đã bán trong hợp đồng mua bán có chuộc lại đối với
động sản là một năm và đối với bất động sản là năm năm theo
điều 462 BLDS); Xác định phương thức kiện dân sự: Theo Điều
257; Điều 258 BLDS 2005 thì điều kiện để chủ sở hữu hoặc người

chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu kiện đòi lại tài sản đối với
động sản và bất động sản là khác nhau.); Xác định tòa án có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp dân sự…
Thứ hai, dựa vào nguồn gốc và cách thức hình thành tài sản thì có
thể phân tài sản thành tài sản gốc và hoa lợi, lợi tức.


Tài sản gốc được hiểu là tài sản khi sử dụng khai thác công dụng
thì sinh ra lợi ích vật chất nhất định. Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà
tài sản mang lại (hoa quả thu hoạch từ cây cối, con nghé do con
trâu đẻ ra). Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài
sản mà không phải do tài sản tự sinh ra (tiền cho thuê nhà, tiền
lãi…).
Như vậy cả hoa lợi và lợi tức đều là những tài sản sinh ra từ việc
khai thác và sử dụng tài sản gốc.
Việc phân loại tài sản theo hướng này có những ý nghĩa nhất định:
Xác định chủ sở hữu của tài sản (hoa lợi sẽ thuộc chủ sở hữu của
tài sản, lợi tức sẽ thuộc về người có quyền sử dụng hợp pháp tài
sản đó); Xác định trong một số trường hợp người chiếm hữu tài
sản gốc chỉ được hưởng hoa lợi sinh ra từ tài sản gốc mà không
được khai thác công dụng của tài sản để thu lợi tức (trường hợp
cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ thì bên cầm giữ tài sản có
quyền thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ và được dùng để bù trừ nghĩa
vụ theo Điều 416 BLDS 2005).
Thứ ba, căn cứ vào giá trị của tài sản, vai trò, ý nghĩa của tài sản
đối với chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, quản lí nhà nước thì
ta phân ra tài sản có đăng kí quyền sở hữu, tài sản không đăng kí
quyền sở hữu.
Tài sản có đăng kí quyền sở hữu là tài sản mà pháp luật quy định
bắt buộc phải đăng kí, nếu không đăng kí sẽ không được công

nhận quyền sở hữu đối với tài sản đó (nhà, máy bay, súng săn…).


Tài sản không đăng kí quyền sở hữu là tài sản mà theo quy định
của pháp luật không buộc phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (quần áo, giầy dép, đồ chơi…).
Với cách phân loại tài sản này cũng có ý nghĩa pháp lí trong một số
trường hợp nhất định: Xác định thời điểm phát sinh, chuyển giao
quyền sở hữu; Xác định phương thức kiện dân sự (kiện vật quyền
hay kiện trái quyền được quy định từ Điều 257 đến Điều 260 BLDS
2005.); Xác định hình thức của hợp đồng…
Thứ tư, căn cứ vào chế độ pháp lí đối với tài sản, người ta phân
chia tài sản thành ba loại: tài sản cấm lưu thông, tài sản hạn chế
lưu thông và tài sản tự do lưu thông.
Tài sản cấm lưu thông là tài sản mà ví lợi ích của nó đối với nền
kinh tế quốc dân, ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia mà Nhà nước
cấm giao dịch (vũ khí quân dụng, ma túy, chất phóng xạ, động vật
quý hiếm…).
Tài sản hạn chế lưu thông là tài sản khi dịch chuyển trong giao
dịch dân sự nhất thiết phải tuân theo những quy định riêng pháp
luật. Trong một số trường hợp phải được sự đồng ý, cho phép của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (vũ khí thể thao, thanh toán
bằng ngoại tệ với số lượng lớn…).
Tài sản lưu thông tự do là những tài sản mà không có quy định nào
của pháp luật hạn chế việc dịch chuyển đối với tài sản đó, nếu có
sự dịch chuyển thì các chủ thể không cần phải xin phép.


Việc xác định đúng loại tài sản có ý nghĩa rất lớn trong việc xác
định hiệu lực pháp lí của giao dịch dân sự. Cụ thể: tài sản cấm lưu

thông không thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân sự. Chính
vì vậy nếu các bên vẫn xác lập giao dịch này thì giao dịch đó sẽ là
giao dịch vô hiệu tuyệt đối do có nội dung vi phạm điều cấm của
pháp luật; và khi đó tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức sẽ bị tịch thu
sung công quỹ nhà nước.
Thứ năm, căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác
lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu, tài sản được phân thành loại tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Tài sản hiện có là tài sản đã có và tồn tại vào thời điểm hiện tại và
đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó.
Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại
hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét (thường là
thời điểm xác lập nghĩa vụ hoặc giao dịch dân được giao kết)
nhưng chắc chắn sẽ được hình thành trong tương lai (tiền lương sẽ
được hưởng, xe máy đang được lắp ráp…). Ngoài ra tài sản hình
thành trong tương lai còn gồm cả tài sản đã được hình thành tại
thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm đó thì tài sản mới
thuộc sở hữu của các bên (tài sản có được do mua bán, trao đổi..).
Với việc phân loại tài sản này ta có thể thấy ý nghĩa của nó: Xác
định đối tượng được phép giao dịch; Xác định hình thức thủ tục xác
lập (Việc xác lập giao dịch có đối tượng là tài sản sẽ có trong
tương lai buộc các bên phải bàn giao những giấy tờ chứng
minh mình là người có quyền sở hữu đối với tài sản sẽ
hình thành trong tương lai đó.)


Thứ sáu, căn cứ vào Điều 163 BLDS 2005 ta cũng có một cách
phân loại tài sản. Cách phân loại này mang tính chất liệt kê, theo
đó thì tài sản được phân thành: vật, tiền, giấy tờ có giá, các
quyền tài sản. Đây là cách phân loại tài sản hiện hành của pháp

luật Việt Nam, bên cạnh một số hạn chế thì nó mang nhiều ý nghĩa
pháp lí. Khi đối tượng của giao dịch là các loại tài sản khác nhau
thì phương thức thực hiện cũng sẽ được áp dụng khác nhau.
Như vậy việc phân thành các loại tài sản như trên sẽ có ý nghĩa
trong việc hình thành nên các quy phạm điều chỉnh của pháp luật
sao cho phù hợp với chúng để tránh gây ra tranh chấp trong quá
trình giao thông dân sự. Bên cạnh đó cách phân loại này còn có ý
nghĩa trong Luật hình sự khi xác định được đúng các loại tài
sản, sẽ giúp xác định đúng tội danh như: tội vận chuyển trái phép
hàng hóa tiền tệ (Điều 154 BLHS),…
Ngoài ra, tài sản còn được phân thành nhiều loại như tài sản
chung, tài sản riêng; tài sản là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng;
tài sản có thật, tài sản ảo; tài sản cố định, tài sản lưu động; tài sản
công, tài sản tư…
II. Tài sản theo quy định tại BLDS 2005.
1. Vật
1.1 Định nghĩa


Vật là một bộ phận của thế giới vật chất và con người có thể chiếm
hữu, sử dụng nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của mình cả về vật
chất lẫn tinh thần.
BLDS năm 2005 đã có sự mở rộng phạm vi về vật từ “vật có thực”
(BLDS 1995) sang “vật” (BLDS 2005) là tài sản. Như vậy, khái niệm
vật không chỉ dừng lại ở khái niệm vật hiện hữu mà vật hình thành
trong tương lai cũng có thể được coi là tài sản. Tại Điều 175 BLDS
2005 đã xác định loại tài sản này là hoa lợi, lợi tức đây chính là sự
gia tăng của tài sản trong điều kiện nhất định.
Định nghĩa về vật được xét theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau như:
vật lý, lí học, pháp luật dân sự, chế độ pháp lí, quan niệm xã hội,

tâm lý, thẩm mỹ, văn hóa sử dụng… Vậy vật khi nào là tài sản? Để
giải quyết vấn đề này cần thiết phải căn cứ vào những tiêu chí cụ
thể của quan hệ pháp luật dân sự cụ thể để xác định. Tại Điều 163
BLDS 2005 thì có phải mọi vật của thế giới vật chất đều được hiểu
là tài sản không? Và tất nhiên không phải như vậy, không phải bất
kỳ vật nào thuộc thế giới vật chất cũng đều được coi là tài sản. Xét
theo quan hệ này thì một vật nhất định được coi là tài sản nhưng
nếu xét theo quan hệ cụ thể khác thì vật đó không thể được coi là
tài sản. Để xác định được rõ một vật có được coi là tài sản hay
không cần phải đặt vật đó trong từng quan hệ cụ thế và không thể
lập luận theo một chiều, có vật là có tài sản.
Trong quan niệm của Luật dân sự thì vật phải thỏa mãn những điều
kiện nhất định sau:
- Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình
thành trong tương lai xác định được;


- Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được, phải
chiếm hữu được;
- Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi,
vật đó phải khai thác được về tài sản (thương mại, dấn sự, tiêu
dùng,..), đáp ứng được nhu cầu về vật chất và tinh thần của con
người.
- Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản,
có thể trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay quy đổi được
bằng tiền.
Như vậy, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát chung về vật
trong quan hệ pháp luật dân sự như sau: Vật là một bộ phận của
thế giới vật chất và con người có thể chiếm hữu được, sử dụng
nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của

mình.
1.2 Đặc điểm pháp lý của vật
Vật có một số đặc điểm sau:
- Vật thuộc thế giới vật chất và phải do con người chiếm hữu
được;
- Đối với vật chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính
vật đó;


- Vật có thể do nhiều chủ thể sáng tạo ra (vật có thể được cấu tạo
đơn giản hoặc phức tạp, do vậy đối với những vật có kết cấu cầu kì
thì không phải một chủ thể có thể tạo ra nó được cần phải có sự
hợp tác của nhiều chủ thể như xe máy, ôtô…);
- Chủ sở hữu của vật sẽ có quyền định đoạt đối với vật (hủy bỏ,
đập bỏ…), thay đổi hình dáng vật thuộc sở hữu.
1.3 Phân loại vật
BLDS 2005 có nhiều cách phân loại vật khác nhau, ở mỗi tiêu chí
phân loại lại có ý nghĩa khác nhau cho nền khoa học pháp lý.
1.3.1 Vật chính và vật phụ.
Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật đối với nhau
mà theo Điều 176 BLDS 2005 thì vật được chia thành vật chính và
vật phụ. Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác công dụng theo
tính năng; vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công
dụng của vật chính, nhưng có thể tách rời vật chính. Việc phân loại
này mang lại ý nghĩa cơ bản cho việc thực hiện nghĩa vụ chuyển
giao vật trong trường hợp chuyển giao vật chính thì phải chuyển
cả vật phụ.
1.3.2 Vật chia được và vật không chia được.
Căn cứ theo hình dáng, tính năng của vật mà chia vật thành vật
chia được và vật không chia được. Vật chia được là vật khi bị phân

chia vẫn giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu,
ví dụ: gạo, xăng…. Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì


không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Ví
dụ: xe máy, tủ, ghế, bàn… Cách phân loại này có ý nghĩa trong
trường hợp khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá
thành tiền để chia.
1.3.3 Vật tiêu hao và vật không tiêu hao
Căn cứ vào tính chất vật lý có thể phân loại vật thành vật tiêu hao
và vật không tiêu hao. Theo quy định tại Điều 178 BLDS 2005 thì
vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc
không giữ được tính chất, hình dạng và tính năng sử dụng ban
đầu. Ví dụ: xà bông, xi măng, cát…Do đó, vật tiêu hao không thể
là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Vật
không tiêu hao là vật qua sử dụng một lần vẫn giữ được tính chất,
hình dạng và tính năng sử dụng ban đầu, ví dụ: quần áo, nhà ở,
các loại phương tiện giao thông, các loại máy móc,...
1.3.4 Vật cùng loại và vật đặc định
Dựa vào dấu hiệu phân biệt của vật mà có thể chia thành vật cùng
loại và vật đặc định. Vật cùng loại là những vật có cùng hình
dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những
đơn vị đo lường như kg, lít (xăng dầu, gạo…). Vật cùng loại có
cùng chất lượng có thể thay thế được cho nhau.
Nếu vật cùng loại bị tiêu hủy thì có thể thay thế nó bằng vật cùng
loại khác. Vật đặc định là những vật có thể phân biệt với các vật
khác bằng các dấu hiệu đặc trưng riêng biệt của vật đó về kí hiệu,
hình dáng, mà sắc chất liệu, đặc tính, vị trí. Trong khi thực hiện
nghĩa vụ chuyển giao vật, đối với vật đặc định thì nó là vật duy



nhất nên nếu trong quá trình chuyển giao vật phải dùng chính vật
đó mà không thể dùng vật khác để thay thế.
1.3.5 Vật đồng bộ
Vật đồng bộ là tập hợp các vật, mà chỉ có đầy đủ nó mới có giá trị
sử dụng đầy đủ. Tập hợp các vật phải liên hệ với nhau thành
chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có
phần hoặc có bộ phận không đúng quy cách, chủng loại, thông số,
kĩ thuật thì không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị
giảm sút (đôi dép, đôi găng tay…). Vật đồng bộ là đối tượng thống
nhất trong giao dịch dân sự vì vật khi thực hiện nghĩa vụ chuyển
giao vật đồng bộ thì phải chuyển giao toàn bộ các phần hoặc các
bộ phận hợp thành vật đồng bộ.
2. Tiền
2.1 Định nghĩa
Theo Mác “Tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt được tách ra khỏi
thế giới hàng hóa dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả
các loại hàng hóa khác.” Theo các nhà kinh tế hiện đại thì tiền
được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Trong BLDS 2005 không có những quy định để làm rõ bản chất của
tiền, tuy nhiên, thong qua các quan niệm thì có thể đưa ra một
định nghĩa chung nhất về tiền: “Tiền được sử dụng làm thước đo
giá trị của các loại tài sản khác và nó phải có giá trị lưu hành trên
thị trường”. Như vậy, chỉ có loại tiền đang được lưu hành tức là


được pháp luật thừa nhận tại thời điểm đó mới được coi là một loại
tài sản. Với việc BLDS 2005 đã bỏ quy định tiền thanh toán phải là
tiền Việt Nam như quy định tại BLDS 1995 thì về mặt pháp lý tiền

có thể được hiểu là nội tệ hoặc ngoại tệ. Tuy nhiên, ngoại tệ là loại
tài sản hạn chế lưu thong chứ không được lưu hành rộng rãi như
tiền Việt Nam.
Có thể thấy một số đặc điểm của tiền như: tính được chấp
nhận một cách rộng rãi; dễ nhận biết; có nhiều mệnh giá khác
nhau; tính lâu bền; tính khan hiếm.
2.2 Bản chất pháp lý
Tiền là một loại tài sản đặc biệt được quy định tại Điều 163 BLDS:
dùng tiền để xác định giá trị của các loại tài sản thông qua đó có
thể biết được tài sản nào có giá trị hơn. Như vậy, việc tất cả các tài
sản đều có thể quy đổi ra tiền đã tạo nên tính đặc biệt của loại tài
sản này.
Chức năng của tiền: công cụ thanh toán đa năng, công cụ tích lũy
tài sản, thước đo giá trị.
2.3 Phân biệt tiền và vật
Theo quy định của Điều 163 BLDS 2005 thì tiền và vật cùng là tài
sản, nhưng giữa chúng lại có một số điểm khác biệt về đặc điểm
pháp lý như sau:
Thứ nhất, đối với vật thì chúng ta có thể khai thác công dụng hữu
ích từ chính vật đó (dùng nhà để ở, dùng xe để đi…). Còn đối với


tiền thì không thể khai thác công dụng hữu ích trực tiếp từ chính tờ
tiền hay đồng tiền xu đó. Tiền thực hiện ba chức năng chính là:
công cụ thanh toán đa năng, công cụ tích lũy tài sản và công cụ
định giá các loại tài sản khác. Khái niệm “quyền sử dụng” chỉ áp
dụng được một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp dụng được cho
tiền.
Thứ hai, các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác
nhau tạo ra, còn tiền thì chỉ do nhà nước độc quyền phát hành.

Thứ ba, vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường
thông dụng như kilogram, mét, lít,…, còn tiền lại được xác định số
lượng thông qua mệnh giá.
Thứ tư, chủ sở hữu vật được toàn quyền tiêu hủy vật thuộc sở hữu
của mình, còn chủ sở hữu tiền lại không được tiêu hủy tiền (không
được xé, đốt, sửa chữa, thay đổi hình dạng, kích thước, làm giả…).
3. Giấy tờ có giá
3.1 Vài nét về giấy tờ có giá
Theo định rộng, giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ
thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lí với các chủ thể khác.

Với chức năng là một công cụ tín dụng thì giấy tờ có giá gồm: hối
phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, séc…


Với chức năng là phương tiện tín dụng là các loại hàng hóa được
ghi giá trên thị trường tài chính, bao gồm các phương tiện ngắn
hạn như các chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, kì phiếu và các phương
tiện tín dụng dài hạn.
Với chức năng là công cụ tài chính, giấy tờ có giá gồm: cổ phiếu và
trái phiếu.
Theo nghĩa hẹp, tại khoản 1 Điều 4 Quyết định số 02/2005/ QĐ –
NHNN: “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát
hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một
khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua”.
Tuy nhiên trong pháp luật dân sự không phải loại giấy tờ có giá nào
cũng được coi là một loại tài sản trong giao lưu dân sự. Cần lưu ý
với các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với

tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký ô tô, sổ tiết kiệm… không được coi
là giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần được
coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
3.2 Đặc điểm của giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá có một số đặc điểm sau:
- Giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự
luật định;


- Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản,
giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được
pháp luật bảo vệ;
- Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và công cụ có thể chuyển
nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy tờ có
giá là vô hiệu.
3.3 Phận biệt giấy tờ có giá và một số loại tài sản khác
3.3.1 Phân biệt giấy tờ có giá và tiền
Khác với tiền chỉ do cơ quan duy nhất là Ngân hàng Nhà nước ban
hành thì giấy tờ có giá có thể do rất nhiều cơ quan ban hành như
Chính phủ, ngân hàng, kho bạc, các công ty cổ phần,…; nếu tiền
luôn có mệnh giá nhất định thể hiện thước đo giá trị của những
loại tài sản khác, luôn lưu hành không có thời hạn, không ghi danh
thì giấy tờ có giá có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, có
thế có thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể
ghi danh hoặc không ghi danh và việc thực hiện quyền định đoạt
về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá cũng không bị hạn chế
như việc định đoạt tiền.
3.3.2 Phân biệt giấy tờ có giá và vật
Giấy tờ có giá và vật cùng là tài sản trong quan hệ pháp luật dân

sự nên chúng có điểm giống nhau đó là: đều là động sản trong
cách phân loại thành bất động sản và động sản (Điều 174 BLDS
2005); đều là loại tài sản hữu hình.


Tuy nhiên, đối với vật có thể xác định số lượng, giá tri thông qua
những đơn vị đo lường thông dụng (kg, tạ, tấn, mét, ml…). Trong
khi đó các loại giấy tờ có giá được xác định giá trị thông qua giá trị
ghi trên loại giấy tờ có giá đó (séc…), nhưng có loại giá trị của nó
có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị bề ngoài của nó (cổ phiếu…).
Bên cạnh đó, chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích trực
tiếp từ chính vật đó, còn đối với giấy tờ có giá thì không thể có
điều này… Ngoài ra, chủ sở hữu vật được toàn quyền đối với vật
thuộc sở hữu của mình, còn chủ sở hữu giấy tờ có giá thì bị hạn
chế quyền này, không được quyền sửa chữa, tẩy xóa, xé rách, thay
đổi hình dạng, kích thước,… Đối với vật thì có thế do rất nhiều chủ
thể khác nhau tạo ra, nhưng giấy tờ có giá chỉ có thể do một số
chủ thể có quyền nhất định phát hành theo pháp luật.
4. Quyền tài sản
4.1 Định nghĩa
Khái niệm quyền tài sản đã được đưa vào BLDS năm 1995, và đến
BLDS 2005 thì quy định trong Điều 181: “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự,
kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Thông qua khái niệm về quyền tài sản trong BLDS 2005 thấy rằng
quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của chủ
thế mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sựu
chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền
này phải trị giá được thành tiền hay nói cách khác là phải tương
đương với một đại lượng vật chất nhất định. Quyền tài sản có rất

nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thế trở thành đối


tượng trong các giao dịch dân sự thì mới được coi là tài sản tại
Điều 163 BLDS 2005. Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công
nhận một số quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất,
quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hạn đối với tài sản bị xâm phạm, quyền tài sản phát sinh từ
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với vật bảo
đảm, quyền tài sản đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp,
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng (Điều 332 BLDS 2005).
4.2 Đặc điểm pháp lý của quyền tài sản:
- Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền (quyền sở hữu trí
tuệ, sử đất…); có thể dùng là đối tượng trong giao lưu dân sự hoặc
là quyền của chủ thể trong một số quan hệ dân sự tuyệt đối.
- Khác với các loại tài sản khác, quyền tài sản là tài sản vô hình.
Quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được xây dựng như
một khối đối lập với vật trong hệ thống phân loại cơ bản (vật hữu
hình). Nói khác đi, quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam
được hiểu là quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu mà trên
cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng tiền hình
thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó.
4.3 Phân biệt quyền tài sản và giấy tờ có giá.
Nếu như giấy tờ có giá là một vật (tức là một tờ giấy được xác định
giá trị) thì quyền tài sản hoàn toàn là một vật vô hình.
Đối với giấy tờ có giá có thể thực hiện quyền chiếm hữu và quyền
định đoạt thì đối với quyền tài sản chúng ta không thực hiện được


chức năng này. Quyền tài sản chỉ mang lại lợi ích cho chủ thể khi

chúng được chuyển giao cho một chủ thể khác qua việc mua bán
quyền tài sản (Điều 449 BLDS 2005).
Giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong giao lưu dân sự
chính là giấy tờ chính minh cho quyền tài sản vô danh, giá trị của
tờ giấy có giá trị bằng với giá trị của quyền tài sản đó.
III. Những bất cập, hạn chế trong quy định về tài sản và phương
hướng hoàn thiện.
1. Những bất cập, hạn chế trong quy định về tài sản của BLDS
2005.
1.1 Về cách quy định tại Điều 163 BLDS 2005 là chưa thật sự đầy
đủ.
Theo quy định của điều luật này thì tài sản được định nghĩa theo
kiểu liệt kê về các loại tài sản mà chưa đưa ra được phạm vi của
nó cũng như không có một khái niệm chung về tài sản. Điều này
sẽ gây bất cập khi phát sinh tài sản mới trong khi đời sống kinh tế
xã hội đang phát triển từng ngày, từng giờ.
Bản thân tài sản là một khái niệm động, ngày càng có nhiều yếu tố
đang được xem như là tài sản như: hồ sơ khách hàng, giọng hát ca
sĩ, bào thai người,

các sản phẩm của trí tuệ…Vì vậy nếu quy định

theo cách liệt kê thì sẽ tạo sự hạn chế trong giao lưu dân sự khi
phát sinh một tài sản mới trong xã hội (khi đó chưa có quy phạm
pháp luật nào điều chỉnh giao dịch dân sự với tài sản đó sẽ dẫn
đến nhiều tranh chấp khó giải quyết.) Bên cạnh đó, quy định tại


×