Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc này để liên hệ tình hình thực tế ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.14 KB, 10 trang )

Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

MỤC LỤC
Trang
Mục lục.................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..................................................2
1. Mục đích............................................................................................................2
2. Nhiệm vụ...........................................................................................................2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................3
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái niệm thực tiễn.........................................................................................4
II. Khái niệm lý luận...........................................................................................6
III. Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn..........................................................6
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin..............................................................6
2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn ...........................................................................................................................7
3. Yêu cầu trong hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn..................................7
VI. Các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn......................................................................................................................8
1. Bệnh kinh nghiệm.............................................................................................8
2. Bệnh giáo điều..................................................................................................8
V. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và biện pháp
khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn hiện nay.......................................................................................................8
VI. Các giải pháp để vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn và biện pháp khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống


nhất giữa lý luận và thực tiễn......................................................................................10
PHẦN KẾT LUẬN
Kết luận..............................................................................................................11

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 1


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam bước hiện nay đang trên đà đi lên với những thành tựu to
lớn đạt được trong gần ba mươi năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do Đảng
cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên tắc
lý luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn của triết học Mác - Lênin.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của qúa trình phát triển xã hội, nhất là trong
thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều
những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển dời sống kinh
tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc nào hết lý luận Mác -Lênin trong sự thống nhất cao với
thực tiễn phải thể hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong công việc, giải quyết những
vấn đề cấp bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Những thành quả mà chúng ta
có được ngày hôm nay là kết qủa của sự năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta

trong qúa trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn vào hoàn
cảnh lịch sử Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cũng như việc vận
dụng nguyên tắc này ở những địa phương, cơ quan cụ thể trong công tác của cán bộ,
công chức nhằm phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp chung của đất nước.
Vì vậy, em chọn đề tài “Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn và các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc này để liên hệ tình hình thực
tế ở địa phương” làm tiểu luận của mình.
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
1. Mục đích
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và quá trình vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động.
- Nêu lên những thành công, hạn chế việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn vào việc công tác chỉ ra các căn bệnh do không quán triệt nguyên
tắc và đề xuất những phương hướng, giải pháp khắc phục các căn bệnh do không quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- Làm rõ nội dung vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 2


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

- Nêu lên những thành công, hạn chế việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa

lý luận và thực tiễn, chỉ ra các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động thực tiễn ở huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn
huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các phương pháp được thực hiện trong tiểu luận là: phương pháp lịch
sử - logic, phân tích - tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, khảo sát, thực
nghiệm, phỏng vấn và trao đổi kinh nghiệm với các cá nhân đại diện các lĩnh vực
trong đời sống xã hội trên địa bàn huyện Ea Kar.
PHẦN NỘI DUNG
NGUYÊN TẮC VÀ CÁC CĂN BỆNH DO KHÔNG QUÁN TRIỆT NGUYÊN
TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Khái niệm thực tiễn
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận
nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mác -Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được
vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang
tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư
tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động
của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai
trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mác-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn chế
trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng
đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận, Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung
và trong lý luận nhận thức nói riêng.

Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt
động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con
người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 3


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Trong quá trình
hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ hai” của mình, một
thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát
triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động thực
tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu
của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan
hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ
sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc
người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách
giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con
người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của

con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác
động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để
con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất
hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác
thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý luận.
Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả
bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế
hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của
mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát
triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ
con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho
rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát
triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. Theo Mác và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn
đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu
chuẩn lôgic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét
đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mác-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội
dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc
hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong
đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mác về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vẫn đang là

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7


Trang 4


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

nguyên tắc phương pháp luận quan trọng hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực
tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ
không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa
học nào với đúng nghĩa của nó.
II. Khái niệm lý luận
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan.
Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận,
quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức nên bản chất của
lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một cách gần
đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri
thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự
tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và
xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh
nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó
đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng
khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài
chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
III. Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện
chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn
đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn
nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của tính hiện
thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn
là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời
gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu quả đạt được càng cao, càng khẳng định
tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải
thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động
thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa MácLênin cũng khẳng định tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với thực
tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp
được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng những hình
thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 5


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận
động và phát triển của thế giới khách quan.

Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho
con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát. Vì vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự
phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì
thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ thực
tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách
mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mác-Lênin, sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý
nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
3. Yêu cầu trong hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn:
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình
thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái
quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp của lý luận
với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện
thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như
vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý
luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác,
hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực
tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được
thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của
chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực
tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung,
phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng

biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ
đạo, dẫn đắt thực tiễn.
VI. Các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
1. Bệnh kinh nghiệm
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm
thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm quý báu đó. Song chỉ dừng lại ở
trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 6


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý
luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ
rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lôgic,
tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng
bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy dễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
2. Bệnh giáo điều
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo
điều. Nết tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng
lại ở những nguyên lý chung chung trừu tượng không chú ý đến những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi

phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngữa, khắc phục có
hiệu quả hai căn bệnh trên phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
V. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và biện pháp
khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn ở huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk hiện nay
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, kinh nghiệm
chính là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để chúng ta
không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý luận hình
thành tổng kết khái quát kinh nghiệm nhưng lại phải thông qua tư duy trừu tượng của
cá nhân nhà lý luận cho nên nó cũng chứa đựng khả năng không chính xác xa rời thực
tiễn. Vì vậy, tri thức lý luận phải được thể nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ
sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận một khi đã được hình thành nó không phải
thụ động mà có vai trò độc lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại đối với thực
tiễn hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dự báo dự đón tình hình và phương hướng
hoạt động thực tiễn trong tương lai.
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn
kinh nghiệm quý báu đó. Như nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào
những hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm, thoả mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân
coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hoá kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại
học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận vươn lên để nắm lý luận, không quan
tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì rất dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều
chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hoá lý luận đồng thời coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi
lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu
tượng, không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ
mắc bệnh giáo điều.
Thực chất của những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cho nên trong công tác lý luận cần từ bỏ lối
nghiên cứu một cách kinh viện thuần túy chỉ biết giải thích khái niệm bằng khái niệm

chứng minh lý luận bằng lý luận tức là hoàn toàn quanh quẩn trong vương quốc tư duy
thuần túy, cần chống đối lối tư duy bắt chước sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế bất
chấp những đặc điểm truyền thống và điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc.
Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 7


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

Trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắng những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường
lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con
đường xây dựng CNXH ở nước ta. Mỗi chủ trương chính sách biện pháp kinh tế - xã
hội dù là đúng đắn nhất thì trong quá trình thực hiện bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu
cũng thường có những hệ quả tiêu cực nhất định, những vấn đề mới nảy sinh, cần phải
dự kiến trước và theo dỏi để chủ động ngăn ngừa, giải quyết. Tránh suy nghỉ giản đơn
một chiều đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì
hoang mang hốt hoảng. Không vì gặp khó khăn mà dao động và quay lại những cách
là sai lầm cũ. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện những vấn
đề mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Do đó tổng
kết thực tiễn là phương pháp căn bản trong hoạt động lý luận, là một phương pháp căn
bản để khắc phục bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, để thực hiện sự thống nhất giữa
lý luận và thục tiễn. Lý luận xét cho cùng là từ thực tiễn đúc kết, khái quát lên, không
có thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn thì không có lý luận. Nhấn mạnh tổng kết thực
tiễn không có nghĩa là xem nhẹ nghiên cứu cơ bản, lý luận cơ bản càng tiếp cận với
những vấn đề cụ thể bao nhiêu càng phải có những quan điểm chung cơ bản bấy nhiêu.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định : “chỉ có tăng cường tổng kết

thực tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ
động và sáng tạo, bớt được những sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp”. Hơn
lúc nào hết muốn lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi Đảng ta phải nâng cao
trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực tiễn từ việc phát hiện và nắng vững quy luật
vận động của đời sống xã hội ta, của bản thân Đảng cho đến hiểu biết về thế giới về
thời đại. Tổng kết thực tiễn tổng kết những cái mới, đang hàng ngày hàng giờ nảy sinh
trong đời sống đất nước và cả thế giới tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người.
Chỉ trên cơ sở ấy Đảng mới có thể đưa ra được đường lối chủ trương đúng đắng tránh
được những sai lầm, khuyết điểm và làm cho đường lối chủ trương được thực hiện
thắng lợi.
Thông qua quán triệt đầy đủ và nhận thức đúng đắn nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện nhà đã không ngừng, tìm tòi, vận
dụng lý luận, tổng kết tình hình để giải quyết tốt các mối quan hệ đặt ra trong thực tế
tại địa phương. Điển hình như:
- Trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc thí điểm các mô hình sản xuất, thí điểm
các loại giống cây trồng vật nuôi mới và kịp thời tổng kết mô hình để nhân rộng, nhờ đó
nhiều mô hình sản xuất, nhiều loại cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao, thích ứng
với thỗ nhưỡng, khí hậu của địa phương được áp dụng đã góp phần cho nền kinh tế
huyện nhà có nhiều chuyển biến.
- Trong lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, cùng với nhiều biện
pháp đồng bộ khác. Đảng bộ huyện đã đề ra giải pháp định kỳ sáu tháng một lần lãnh
đạo huyện về tại các xã, thị trấn tổ chức tiếp xúc, đối thoại với nhân dân. Thông qua tiếp
xúc đối thoại đã kịp thời lắng nghe, phân tích giải thích cho dân các nội dung dân chưa
thấu rõ, tiếp thu ý kiến của nhân dân chính đáng của nhân dân, trên cơ sở đó kiểm tra,
thẩm định và tổ chức thực hiện theo các nguyện vọng chính đánh của nhân dân. Hạn
chế, khắc phục các sai phạm của các cấp và của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhờ đó đã
tạo dựng, cũng cố được niềm tin lớn của nhân dân đối với Đảng và chính quyền cơ sở.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7


Trang 8


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

- Trong đánh giá, đề bạt, bố trí sắp xếp cán bộ cũng được thực hiện theo đúng
quy trình; thực hiện đánh giá con người phải đặt người đó vào hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể, trong các mối quan hệ cụ thể, để nhận định, đánh giá đúng thực chất và sử dụng
đúng con người. Nhờ đó đội ngũ cán bộ của huyện đã từng bước được chuẩn hóa, và
nâng cao về năng lực trình độ điều hành, chỉ đạo, góp phần đánh kể vào thành công
chung của huyện nhà.
VI. Các giải pháp để vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn và biện pháp khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn
Để vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và biện pháp khắc
phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Thì phải đi vào thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn với tinh thần khách quan, khoa học,
cách mạng, không để chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng chi phối thì sẽ tìm ra các
phương sách để giải quyết vấn đề một cách đúng đắn, từng công việc của từng cá nhân
được giải quyết một cách đúng đắn, sẽ góp phần vào công việc của từng địa phương,
từng cơ quan đi đến thành công và góp chung vào thành công của công cuộc đổi mới
đất nước; đưa nền kinh tế xã hội nước ta phát triển nhanh hơn, vững mạnh hơn.
Phát huy cao độ tinh thần làm chủ, cách mạng, sáng tạo của từng cá nhân và
của từng cơ quan, đơn vị trên cơ sở vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm quý báu trong
kho tàng kiển thức nhân loại, trong lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh và kinh nghiệm hay của các địa phương, cơ quan, đơn vị khác.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, nhằm giải đáp những vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Việc nghiên cứu cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm thực tiễn,

hết sức coi trọng nghiên cứu thực tiễn, tổ chức thực nghiệm, tổng kết thực tiễn, rút ra
những kết luận, phát triển sáng tạo lý luận đúng đắn để hướng dẫn thực tiễn phát triển,
chứ không chỉ dựa vào những lý luận, nguyên lý có sẵn trong sách vở bắt thực tiễn
phải khuôn theo một cách giáo điều, không đem lại hiệu quả.
Các cơ quan, đơn vị khi nghiên cứu các chương trình, đề tài cần bám sát
phương hướng, yêu cầu nghiên cứu mà đề ra, đi sâu tổng kết thực tiễn, hướng vào giải
đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ
khoa học cho việc áp dụng thực tiễn; sớm làm rõ và trả lời những vấn đề bức xúc nảy
sinh từ thực tiễn; tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; bảo vệ
quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh với những
quan điểm và tư tưởng sai trái. Mỗi chương trình, đề tài cần cố gắng đưa ra những
thông tin mới, tư liệu mới, đề xuất mới, bảo đảm chất lượng, tránh trùng lắp, nhắc lại
quá nhiều những điều đã biết.
Cần đổi mới phương pháp và cách thức tổng kết hoạt động của địa phương, đi
sâu vào cuộc sống, vào các mặt hoạt động của địa phương mà tiếp nhận thông tin,
phân tích, khái quát thành lý luận; đồng thời, nhạy bén nắm bắt những diễn biến mới
và những vấn đề mới, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại. Cố
gắng để tiếp nhận được những thông tin, những tư liệu, số liệu trung thực, khách quan
theo phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Khắc phục tình trạng đi

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 9


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

theo lối mòn, chỉ dựa vào những kết luận đã có trong sách vở để luận giải trừu tượng

theo lối kinh viện, ít đưa ra được những cái mới phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Trong quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, do tính chất phức tạp của nó, có
thể có những cách nhìn và ý kiến khác nhau, đó là điều bình thường. Cần mở rộng dân
chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng và sự suy nghĩ sáng tạo, khuyến
khích thảo luận, tranh luận, không nên có những định kiến, mặc cảm với những ý kiến
trái với những kết luận hiện hành. Trong nghiên cứu, thảo luận dù ý kiến của thiểu số
cũng phải được tôn trọng, xem xét một cách nghiêm túc. Điều quan trọng là mọi cách
nhìn, mọi ý kiến, mọi cuộc tranh luận phải xuất phát từ động cơ trong sáng, xây dựng,
góp phần thúc đẩy thực tiễn đổi mới đi tới thành công và phải lấy kết quả thực tiễn
trong quá trình đổi mới làm căn cứ để phân biệt đúng sai.
PHẦN KẾT LUẬN
Để đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn nói trên, vấn đề mấu chốt quyết định là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ
cán bộ chủ chốt ở từng địa phương có phẩm chất chính trị vững vàng, có bản lĩnh khoa
học và trình độ lý luận cao, có tư duy độc lập, có khả năng đóng góp vào việc nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
Dưới sự lãnh đạo thường xuyên, chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, cần cơ chế gắn
kết, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lãnh đạo quản lý với các cơ quan nghiên cứu
khoa học, giữa các cán bộ lãnh đạo quản lý với các cán bộ lý luận, bảo đảm thường
xuyên cung cấp thông tin, thông báo những chủ trương, yêu cầu của Đảng cũng như
những kết quả nghiên cứu lý luận, để gợi ý, bổ sung cho nhau, phát huy sức mạnh tổng
hợp trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, cũng là cách bồi dưỡng,
nâng cao trình độ của cả cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đòi hỏi và trông chờ vào những kết quả
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm ra lời giải đáp có sức thuyết phục cho các
vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Cuộc sống sinh động và muôn mầu đều từ cơ sở. Việc
tổng kết lý luận và thực tiễn từ cơ sở để làm nền tảng cho các công trình nghiên cứu
cấp quốc gia là rất quan trọng và có ý nghĩa.
Với đề tài đề tài tiểu luận “Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn và các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc này để liên hệ tình hình thực

tế ở địa phương” cũng mới chỉ nêu ra được một số điển hình. Nhưng việc nhận thức
đầy đủ, đúng đắn nguyên tắc này cào công tác của cá nhân là vô cùng cần thiết.
Với thời gian nghiên cứu chưa nhiều, không tránh khỏi những hạn chế. Kính
mong nhận được ý kiến của thầy để bản thân em rút kinh nghiệm và áp dụng cho quá
trình công tác mai sau./.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 10



×