Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quyền của cá nhân trong quan hệ đồng giới tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.37 KB, 19 trang )

Quyền của cá nhân trong quan hệ đồng giới tính
Đến nay, trên thế giới đã có 23 nước công nhận quyền của người
đồng tính, 19 quốc gia và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa hôn
nhân đồng giới, 44 nước khác thừa nhận quan hệ chung sống giữa
những người cùng giới tính.Để minh họa cho lí do chọn đề tài
“Quyền của cá nhân trong quan hệ đồng giới tính”, em muốn trích
một đoạn trong bài viết của Luật gia Trương Hồng Quang : “Thực
chất, khi chúng ta nghiên cứu, đánh giá về quyền của người đồng
tính sẽ không hề có ý nghĩa muốn cổ vũ cho một trào lưu mới mà
nên được hiểu đây chính là thay tiếng nói cho những người đồng
tính. Họ không có lỗi trước khuynh hướng giới tính của họ, họ cũng
là những con người có đóng góp cho xã hội và cần được chấp nhận
một cách bình đẳng, với sự cảm thông và khoan dung hơn của dân
tộc Việt Nam.”Đây là một đề tài có một nội dung xã hội phức tạp
trong xã hội nước ta hiện nay, vậy nên khi phân tích, em sẽ cố
gắng nhìn nhận từ cả 2 phương diện là xã hội và pháp luật.Cụm từ
“Người đồng tính” giờ đây không còn xa lạ trong xã hội. Đồng tính
là một xu hướng tính dục, không phải là “giới tính thứ ba”như
nhiều người vẫn lầm tưởng. Chúng ta không thể phủ nhận sự tồn
tại của người đồng tính. Họ có quyền được sống trong một xã hội
cởi mở, tôn trọng sự đa dạng. Vì phạm vi bài tập có hạn, em sẽ
phân tích một số quyền của, theo em, là các vấn đề do thực tiễn
đặt ra cần giải quyết. Với kiến thức còn hạn chế, chắc chắn em
cũng sẽ mắc phải những sai sót về nội dung hoặc hình thức không
đáng có. Do vậy, em rất mong mình sẽ nhận được những sự chỉ
bảo, giúp đỡ từ phía thầy cô bộ môn.

Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I Cơ sở lý luận về quyền cá nhân trong quan hệ đồng tính
1.Cá nhân




Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, cá nhân được hiểu là: một con người
cụ thể trong một xã hội và được phân biệt với các cá nhân khác
thông qua tính đơn nhất và phổ biến (Theo Mác – Lenin). Là một
thành viên góp phần vào sự phát triển xã hội lịch sử. Cá nhân là
sản phẩm của sự phát triển xã hội lịch sử. Đồng thời là chủ thể chủ
động tích cực tham gia vào sự phát triển xã hội lịch sử. Từ ông Bộ
trưởng, cô lao công của trường Đại học Luật đến bác hàng nước,
đều là một cá nhân.
2. Cộng đồng người đồng tính
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có cuộc điều tra nào ước lượng số
người là đồng tính. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu khác nhau
nhưng cho các tỉ lệ khác nhau, biến động từ 1% đến 9% người ở độ
tuổi sinh hoạt tình dục tự nhận họ là người đồng tính và song tính .
Điều tra quốc gia về phát triển gia đình ở Hoa Kỳ năm 2002 cho
kết quả 4,1% nam giới và 4,1% nữ giới tự nhận mình là người đồng
tính và song tính. Ở Canada, theo kết quả điều tra tháng 6 năm
2012 thì có 5% dân số tự nhận mình là người đồng tính, song tính
và chuyển giới . Điều tra quốc gia ở Pháp năm 1991 cho kết quả có
10,7% nam giới và 3,3% phụ nữ có hành vi tình dục đồng giới và
8,5% nam giới và 11,7% phụ nữ thừa nhận có hấp dẫn tình dục
đồng giới nhưng không có hành vi quan hệ tình dục đồng giới. Như
vậy, nếu lấy tỉ lệ trung bình, “an toàn” mà nhiều nhà khoa học
thừa nhận là 3% thì số NĐT tạm tính ở Việt Nam vào khoảng 2,66
triệu người (tính theo dân số Việt Nam năm 2012 có 88,78 triệu
người.
Đồng tính, song tính và chuyển giới (viết tắt tiếng Anh là LGBT ) là
vấn đề không còn mới mẻ trên thế giới hiện nay. Từ kết quả của
các công trình nghiên cứu khoa học, có thể khẳng địnhLGBT là

những điều tự nhiên của xã hội loài người, không phải là khiếm
khuyết của xã hội, không phải là bệnh và do đó cũng không thể lây
lan từ người này sang người khác. APA đã nêu các dẫn chứng,
nghiên cứu để đưa đến kết luận có tính chất hiển nhiên về sự tồn
tại của khuynh hướng tính dục đó, nhằm loại bỏ đồng tính luyến ái
ra khỏi các bệnh về rối loạn tâm thần và hướng dẫn xã hội giúp đỡ
những người đồng tính luyến ái hoà nhập cộng đồng để có cách


nhìn cảm thông hơn với những người này. Năm 1973, APA loại
đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các triệu chứng và bệnh rối
loạn tâm thần. Ngày 17/05/1990 Tổ chức y tế thế giới WHO đã xóa
bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Đây là
dấu mốc quan trọng góp phần hạn chế những quan niệm sai lầm
và người đồng tính.
Trên phương diện khoa học, người đồng tính được xem như người
bình hường nhưng thực tế cuộc sống lại đặt người đồng tính vào
những nguy cơ bị xâm hại, đe dọa xâm hại đến đời sống của họ
xuất phát từ tác động tiêu cực của xã hội. Sau đây là một số lý
luận cho quyền cá nhân của người đồng tính trong quan hệ đồng
giới tính:
Quyền của người đồng tính có bản chất là quyền tự nhiên của con
người: Chúng ta không được phép loại bỏ người đồng tính ra ngoài
vòng pháp luật, mà cần có những quy định rõ ràng nhằm thừa
nhận và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người đồng tính
và xem đó như tất yếu của xã hội.
Quyền của người đồng tính cần được ghi nhận và bảo vệ trong xã
hội:Trong luật quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao uỷ Liên
hợp quốc thì quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
có tác dụng bảo vệ cá nhân và các nhóm chống lại những hành

động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm và tự do cơ bản
của con người. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên
hợp quốc thể hiện sâu sắc tinh thần đó. Chủ thể được thừa hưởng
các quyền con người là tất cả những người đang sống và tồn tại
trên thế giới, là “tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan
điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, thành phần
xuất thân hay địa vị xã hội, không phân biệt địa vị chính trị, pháp
quyền hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà một người xuất
thân, cho dù quốc gia hay lãnh thổ đó được độc lập, được đặt dưới
chế độ uỷ trị, chưa tự quản hay có chủ quyền hạn chế” (Điều 2).
Dưới đây là một số quyền cơ bản mà hiện nay người đồng tính
chưa được thụ hưởng đầy đủ:


- Quyền được tôn trọng về phẩm giá của mỗi cá nhân: mọi người
sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền (Điều 1);
- Quyền tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền; quyền sống,
tự do và an toàn cá nhân; quyền được thừa nhận tư cách là con
người trước pháp luật ở khắp mọi nơi, bình đẳng trước pháp luật,
được pháp luật bảo vệ như nhau, không có bất kỳ sự phân biệt
nào; quyền tự do với cuộc sống riêng tư; quyền tự do ngôn luận và
bày tỏ quan điểm; quyền làm việc, tự do làm việc, hưởng các điều
kiện làm việc như nhau và không bị phân biệt đối xử (các Điều 1,
3, 6, 7, 12, 19 và 23);
- Quyền được bảo vệ, không bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một
cách tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm; được bảo vệ
chống lại mọi hành vi, hình thức phân biệt đối xử hoặc xúi giục
phân biệt đối xử; quyền được pháp luật bảo vệ chống lại các hành
vi can thiệp hoặc xâm phạm đời sống riêng tư, gia đình, nơi ở,

danh dự và uy tín; gia đình được nhà nước và xã hội bảo vệ (các
Điều 5, 7, 12 và 16);
- Quyền kết hôn và xây dựng gia đình: nam và nữ khi đủ tuổi đều
có quyền kết hôn và xây dựng gia đình, không có bất kỳ sự hạn
chế nào về chủng tộc, quốc tịch và tôn giáo. Họ được hưởng mọi
quyền bình đẳng như nhau khi kết hôn, trong thời gian chung sống
và sau khi ly hôn (Điều 16);
- Quyền bình đẳng trong việc hưởng các dịch vụ xã hội (Điều 21);
- Quyền được làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện
làm việc thuận lợi, chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất
nghiệp (Điều 23).
Việc thừa nhận và bảo vệ quyền cho người đồng tính – một phạm
trù của quyền tự nhiên, chỉ mang tính khả thi khi được pháp luật
chính thức hoá. Quy định quyền của người đồng tính trong pháp
luật vừa đảm bảo cho người đồng tính có cơ sở pháp lý vững vàng
để tự bảo vệ quyền lợi cho chính mình và vừa đảm bảo sự tuân
thủ, tôn trọng các quyền đó của các chủ thể khác trong xã hội.


Công nhận và bảo vệ quyền của người đồng tính bảo đảm giá trị
xã hội của pháp luật:quyền được pháp luật bảo vệ các lợi ích chính
đáng là đòi hỏi hợp lý của mọi công dân. Luật pháp khi ban hành
phải tính đến quyền lợi chung cho cả cộng đồng, trong đó quyền
của những nhóm người thiểu số, dễ bị tổn thương phải được chú ý
đến. Nền luật pháp nếu không đề cập quyền lợi của số ít người yếu
thế thì không thể là nền luật pháp dân chủ và tiến bộ. Đồng tính
luyến ái không phải là hiện tượng xã hội có tính chất tạm thời. Sự
tồn tại của hiện tượng này là tất yếu, xuất hiện ở mọi xã hội, trong
mọi giai đoạn lịch sử. Sự phát triển của đời sống đã nâng cao các
đòi hỏi về quyền tự do, quyền sống của con người. Trong bối cảnh

đó, người đồng tính đã nảy sinh các mâu thuẫn với xã hội liên
quan đến các yêu cầu được xã hội công nhận sự tồn tại của mình,
được đối xử công bằng, được kết hôn như những người khác, với
những giá trị truyền thống, chuẩn mực văn hoá, đạo đức lâu đời.
Xung đột ngày một mạnh mẽ của các lợi ích ấy đòi hỏi cần có sự
điều chỉnh hợp lý của pháp luật. Cần thiết phải có những quy
phạm điều hoà, giải quyết mâu thuẫn trên để duy trì trật tự xã hội
hợp lý đồng thời bảo vệ toàn diện các quyền cơ bản mà người
đồng tính đáng được hưởng.
II Một số quyền của cá nhân trong quan hệ đồng tính
Hiến pháp 1946 đã khẳng định quyền làm chủ và các quyền cơ
bản của nhân dân ta. Và lần lượt các bản hiến pháp 1959, 1980,
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đều tiếp tục ghi nhận các quyền
cơ bản của công dân.
1. Quyền đối với hình ảnh
1.1.Nội dung quyền hình ảnh của cá nhân
Quyền đối với hình ảnh của cá nhân được hiểu là quyền nhân thân
gắn liền với cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó,
cá nhân được phép sử dụng và cho phép người khác sử dụng hình
ảnh của mình.


Cơ sở pháp lý của quyền đối với hình ảnh của cá nhân làKhoản 1
điều 31 Bộ luật dân sự 2005:Cá nhân có quyền đối với hình ảnh
của mình.
Nội dung của nó như sau:
Thứ nhất, cá nhân có quyền được phép sử dụng hình ảnh của
mình.Đây là quyền nhân thân gắn với tài sản, các yếu tố nhân
thân này có thể chuyển giao cho chủ thể khác và theo đó, chủ thể
có thể được hưởng 2 lợi ích vật chất nhất định.Thông qua các hoạt

động của chính các chủ thể mà họ có thể thực hiện quyền của
mình đối với hình ảnh, trong đó có việc tự khai thác giá trị thương
mại của hình ảnh.
Thứ hai,cá nhân có quyền cho người khác sử dụng hình ảnh của
mình.Cá nhân có quyền định đoạt cho chủ thể khác sử dụng hình
ảnh của mình, thông qua việc chủ thể “ đồng ý” cho chủ thể khác
sử dụng hình ảnh của mình. Bộ luật dân sự không quy định rõ như
thế nào là đồng ý. Đồng ý ở đây được hiểu là có sự thoả thuận giữa
người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó
hay chỉ cần việc sử dụng hình ảnh không có sự phản đối của người
có hình ảnh thì được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý. Theo
chúng tôi, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất kỳ mục đích
gì mà không xin phép đều bị coi là vi phạm quyền nhân thân về
hình ảnh của cá nhân dù việc sử dụng đó có thể mang lại lợi ích
hay gây thiệt hại cho người có hình ảnh. Còn việc người có hình
ảnh đó có khởi kiện hay không thì đó lại là quyền của chủ thể
trong quan hệ về tố tụng dân sự và người đó có quyền lựa chọn.
Thứ ba, Cá nhân có quyền bảo vệ hình ảnh của mình theo quy định
của pháp luật. Bất kỳ hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào
cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý. Hiện nay, pháp luật
dân sự đã có những quy định rõ ràng hơn về các biện pháp bảo vệ
và khôi phục quyền nhân thân đối với hình ảnh. Và trong nhiều
trường hợp, không nhất thiết phải gây ra thiệt hại mới bị coi là vi
phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh mà kể cả trường hợp chưa
gây ra thiệt hại, trong việc sử dụng hình ảnh của họ mà không
được sự đồng ý.


Theo khoản 2, khoản 3 điều 25 Bộ luật dân sự, khi quyền nhân
thân của một cá nhân bị xâm hại, người đó có quyền yêu cầu

người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi
phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi và cải chính công
khai. Có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại.
Việc bảo vệ quyền nhân thân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo
vệ được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự, việc khởi kiện phải
có căn cứ và đúng pháp luật. Người bị xâm hại có quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ lợi ích chính đáng của mình nhưng phải chứng minh
được hành vi sử dụng hình ảnh trái pháp luật của người vi phạm.
1.2. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong quan hệ đồng giới
tính
Có một thực tế rằng, quan hệ đồng tính là chủ đề đang được khai
thác triệt để trong Showbiz Việt Nam. Từ các bộ phim, các buổi
biểu diễn trên sân khấu hay hoạt động đời thường, các ngôi
saothường đưa yếu tố đồng tính vào để thu hút sự chú ý. Ca sĩ Ngô
Kiến Huy giả gái có phần quá lố trong bộ phim “Nàng men, chàng
bóng”. Dù không đề cập trực tiếp nhưng những video clip nhạc của
ca sĩ Cao Thái Sơn đều khiến người xem liên tưởng đến tình yêu
đồng giới. Người mẫu Chung Thục Quyên và Vũ Hoàng Điệp hôn
môi trong một buổi tiệc...Người đồng tính không phải là yếu tố mà
thế giới giải trí lại có thể đem ra để lợi dụng và câu khách. Điều đó
không những khiến những người đồng tính thấy bị xúc phạm mà
còn làm hình ảnh của người đồng tính trong mắt dư luận biến
dạng, bị nhìn nhận một cách sai trái và lệch lạc.
Nhiều người cho rằng, hình ảnh chính là những hình khối cụ thể
của một sự vật nào đó, được con người tiếp nhận thông qua thị
giác và hệ thần kinh. Tuy nhiên, đó chỉ là một khái niệm “hình ảnh
hẹp”. Với khái niệm “hình ảnh”, ta hiểu cơ bản đó là những biểu
hiện ra bên ngoài của một vật thể nào đó, được cảm nhận và tiếp
thu thông qua thị giác, xúc giác, thính giác hay cảm giác của con

người. Nó không chỉ đơn thuần là những “hình ảnh cụ thể”, mà đó


còn có thể là những cảm nhận, nhận xét về tính cách, học thức
hay gia đình của một cá nhân cụ thể nào đó trong xã hội. Đối với
người LGBT nếu bị xâm phạm, tung tin đồn về xu hướng tính dục
hoặc bản dạng giới của mình, đưa hình ảnh lên mạng bình phẩm
thường có áp lực lớn hơn so với người dịtính . Khi đó, người LGBT
thường rơi vào thế khó xử và khủng hoảng tinh thần,...
2. Quyền bí mật đời tư
2.2. Quyền bí mật đời tư và Quyền riêng tư
Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định các quyền
nhân thân của cá nhân, trong đó có quyền bí mật đời tư. Tuy nhiên
trên thực tế, quyền này đang bị xâm phạm khá phổ biến trong xã
hội (cả người dị tính lẫn người LGBT).
Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân không gắn với tài sản, là
quyền cơ bản trong ệ thóng quyền nhân thân của cá nhân, được
quy định tại điều 38 Bộ luật Dân sự. Khi mà công nghệ thông tin
ngày nay đã phát triển tới trình độ cao, thì việc bảo vệ quyền bí
mật đời tư càng ngày càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Giá
trị vật chất càng được thỏa mãn, người ta càng quan tâm đến các
giá trị tinh thần, trong đó quyền bí mật đời tư được quan tâm đặc
biệt. Quyền bí mật đời tư bao gồm các đặc điểm sau:
- quyền được phép giữ kín những thông tin, tư liệu, sự kiện, hoàn
cảnh liên quan đến đời tư của mình và không có nghĩa vụ phải
công khai; quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín
và các thông tin điện tử khác;
- cá nhân và các chủ thể khác không được tự ý tiếp cận và công bố
các thông tin về đời tư cũng như không được kiểm soát thư tín,
điện thoại, điện tín, các thông tin điện tử khác của cá nhân khi

chưa được sự đồng ý của “chủ sở hữu” hoặc sự cho phép của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Với khái niệm này, rõ ràng bí mật
đời tư có khái niệm hẹp hơn so với quyền riêng tư.


Tuy nhiên, những quyền: đối với hình ảnh, bí mật đời tư, danh dự,
nhân phẩm... thực ra vẫn chưa đủ để bảo vệ quyền nhân thân của
mọi công dân. Quyền tôn trọng đời sống riêng tư (hay gọn hơn là
“quyền riêng tư”) được hiểu như quyền được pháp luật bảo hộ
chống lại những sự can thiệp hay xâm hại đến:
- Sự riêng tư về thông tin cá nhân: bao gồm việc ban hành các quy
tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá nhân như
thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu trữ
về công dân đó. Nó còn được gọi là “bảo vệ dữ liệu”;
- Sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ thân thể (vật
chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di
truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể;
- Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và riêng tư về
thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền
thông khác;
- Sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban hành các giới
hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm
việc hoặc không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm
thông tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.
Có thể thấy, các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành
chưa thể hiện hết nội hàm quyền riêng tư và còn khá chung
chung. Xét về mặt khái niệm, quyền riêng tư không đồng nhất với
khái niệm quyền bí mật đời tư. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự
do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ.
Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì

phức tạp bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý
muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì
điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: luật pháp, quan
hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập
quán, thói quen… Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp
luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân
(quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho


phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng…).
Tôn trọng quyền riêng tư là một yêu cầu tất yếu đặt ra cho tất cả
mọi người, buộc mọi người phải tuân thủ. Vấn đề này cần được
xem xét kỹ lưỡng hơn với người LGBT vì trong quan điểm chung
của xã hội, người LGBT được xem như một hiện tượng khác biệt với
số đông nhân loại còn lại, đời sống riêng tư của họ không thể tránh
khỏi sự tò mò, soi mói của người khác. Đó là các hành vi vi phạm
quyền riêng tư của con người. Ở một mức độ khác, sự xâm phạm
quyền riêng tư trên có thể kèm theo các hành vi tiêu cực như đánh
đập, xúc phạm nhân phẩm hoặc cản trở đời sống bình thường của
người LGBT. Do vậy, cần có những quy định cụ thể, đầy đủ về
quyền riêng tư để đảm bảo cho người LGBT được bảo vệ, tôn trọng
và được đối xử bình đẳng như những người khác trong xã hội.
2.3. Kiến nghị về vấn đề quyền bí mật đời tư trong quan hệ đồng
giới tính
Sau đây là kiến nghị trong bài nghiên cứu trao đổi của Luật gia
Trương Hồng Quang và một số ý kiến bổ sung cá nhân của em:
Pháp luật hiện hành chỉ đề cập đến một số vấn đề như bí mật đời
tư, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật thư tín… Trong bối
cảnh hiện nay, việc ghi nhận bằng cách liệt kê như vậy đã không

còn phù hợp và chưa theo kịp với thực tiễn của đời sống xã hội.
Trên thế giới đã ghi nhận một quyền chung là Quyền riêng tư. Có
thể hiểu Quyền riêng tư là quyền của các cá nhân được phép giữ
kín những thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư
của mình, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nơi ở, về thư
tín, điện thoại, điện tín và các thông tin điện tử khác mà không
một chủ thể nào có quyền tiếp cận, công khai trừ trường hợp được
chính người này đồng ý hoặc được bằng quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, Quyền riêng tư có nội hàm
rộng hơn Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.


Dưới góc độ pháp luật quốc tế, các văn bản như: Tuyên ngôn Thế
giới về Quyền con người năm 1948 (Điều 12), Công ước Nhân
quyền châu Âu năm 1950 (Điều 8),Tuyên bố Châu Mỹ về Quyền và
trách nhiệm của con người năm 1965, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Điều 17), Công ước của Hội
đồng châu Âu 1981 về bảo vệ cá nhân đối với việc xử lý tự động
của dữ liệu cá nhân (COE … Các văn bản này đã khẳng định sự
riêng tư, quyền riêng tư của công dân được bảo hộ, bảo đảm thực
thi, không chỉ đề cập đến quyền bí mật đời tư hay riêng tư về nơi
ở, thư tín... Như vậy, có thể nhận thấy xu hướng ghi nhận Quyền
riêng tư đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Trong hệ thống pháp luật
các nước trên thế giới có nhiều mô hình xây dựng pháp luật về
Quyền riêng tư và đã khẳng định được đầy đủ nội dung của quyền
này.
Hiện nay, các quy định của pháp luật hiện hành chưa thể hiện hết
nội hàm Quyền riêng tư và còn khá chung chung. Vì vậy, cần ghi
nhận đầy đủ Quyền riêng tư trong hệ thống pháp luật Việt Nam

(Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành). Tôn trọng
Quyền riêng tư là một yêu cầu tất yếu đặt ra cho tất cả mọi người,
buộc mọi người phải tuân thủ. Ví dụ như đối với người LGBT cần
xem xét kĩ lưỡng hơn vấn đề Quyền riêng tư để có những quy định
phù hợp vì trong quan điểm chung của xã hội, người LGBT được
xem như một hiện tượng kỳ lạ, khác biệt với số đông nhân loại còn
lại, đời sống riêng tư của họ không thể tránh khỏi sự tò mò, soi mói
của người khác. Đó là các hành vi vi phạm quyền riêng tư của con
người. Ở một mức độ khác, sự xâm phạm Quyền riêng tư trên có
thể kèm theo các hành vi tiêu cực như đánh đập, xúc phạm nhân
phẩm hoặc cản trở đời sống bình thường của người LGBT. Do vậy,
cần có những quy định cụ thể, về tôn trọng quyền riêng để đảm
bảo cho người LGBT sống một cuộc sống bình thường, được tôn
trọng và được đối xử bình đẳng như những người khác. Với ví dụ
này có thể nhận thấy việc quy định Quyền riêng tư là điều cần
thiết phải được hoàn thiện trong thời gian tới (Bộ luật Dân sự 2005
và các văn bản có liên quan). Theo đó, Bộ luật Dân sự sửa đổi
(đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo) nên quy định một Điều
về Quyền riêng tư (thông tin cá nhân, cơ thể, thông tin liên lạc, nơi
cư trú) thay thế cho Điều 38 về quyền bí mật đời tư và tiếp tục giữ


lại Điều về Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Tiếp
theo đó, có thể ban hành một Luật về Quyền riêng tư với các nội
dung chính:
- Sự riêng tư về thông tin cá nhân: bao gồm việc ban hành các quy
tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá nhân như
thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu trữ
về công dân đó. Nó còn được gọi là “bảo vệ dữ liệu”.
- Sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ thân thể (vật

chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di
truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể.
- Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và riêng tư về
thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền
thông khác.
- Sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban hành các giới
hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm
việc hoặc không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm
thông tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.
- Các trường hợp tiếp cận, thu giữ, kiểm soát thông tin về sự riêng
tư cá nhân của cơ quan Nhà nước.
Tóm lại, trước tình trạng xâm phạm đời tư đang là vấn đề rất được
chú ý, thì việc hoàn thiện chế định về Quyền bí mật đời tư là rất
cần thiết. Không những bảo vệ các cá nhân trong xã hội mà còn có
ý nghĩa lớn với người đồng tính, một cộng đồng thiểu số dễ bị tổn
thương.
3. Quyền kết hôn
Tháng 5 năm 2014 này, Quốc Hội sẽ thông qua Luật Hôn nhân và
Gia đình (sửa đổi). Trong đó, một trong các vấn đề được quan tâm
nhất trong dự thảo Luật là việc có thừa nhận hôn nhân đồng giới
hay không. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với cộng


đồng người đồng giới. Vấn đề này không chỉ người đồng tính mà cả
xã hội cũng quan tâm với nhiều tranh cãi khác nhau.
3.1. Nhu cầu cần đượccông nhận hôn nhân cùng giới của người
đồng tính
Trong cuộc điều tra về đồng tính nữ của Viện iSEE năm 2012 có
92% người được hỏi (mẫu nghiên cứu trên 2.401 người) muốn pháp
luật cho phép kết hôn cùng giới. Trong điều tra tương tự năm 2012

do Trung tâm ICS thực hiện với hơn 2000 người đồng tính nam và
đồng tính nữ tham gia thì 71% mong muốn được pháp luật cho
phép kết hôn cùng giới, 25% muốn được sống chung có đăng ký và
4% muốn được sống chung không đăng ký. Trong nghiên cứu đồng
tính nữ nói trên của iSEE, nếu pháp luật cho phép, 77% cho rằng
họ muốn kết hôn, 3% không muốn, 16% cho rằng kết hôn hay
không không quan trọng và số còn lại không rõ mong muốn của
mình. Về nhu cầu sinh con, 70% người đồng tính nữ muốn có con,
13% không muốn và 17% không rõ.- Theo khảo sát vào tháng 6
năm 2012 của vnexpress, với câu hỏi “Là người đồng tính, nếu
được Luật cho kết hôn thì bạn sẽ làm gì?”, trong số 1299 người
đồng tính có 856 người chiếm 65.9% sẽ công khai cưới người yêu,
296 người chiếm 22.8% sẽ chỉ đăng ký, không tổ chức cưới, 91
người chiếm 7% sẽ không cưới, không đăng ký mà về sống chung
với nhau, có 28 người chiếm 2.2% sẽ không dám sống chung vì sợ
lộ thân phận, còn lại 28 người chiếm 2.2% có ý kiến khác.
3.2 Tiến trình hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới tại Việt Nam
"Được phép làm đám cưới giữa những người cùng giới" là quy định
mới trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hôn nhân gia
đình của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ban hành ngày
24/9/2013.Nghị định này quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, Hôn nhân gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Riêng
trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình, nghị định đã có thay đổi đáng kể
so với Nghị định 87/2001/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình trước đây.


Theo Nghị định 110/2013/NĐCP, trong quy định tại điều 48 về
những hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ

hôn nhân một vợ, một chồng (mức phạt từ 1 triệu đồng đến 3 triệu
đồng) thì hành vi "kết hôn giữa những người cùng giới tính" không
còn được nêu ra. (Theo Nghị định 87/2001/NĐ-CP đã hết hiệu lực,
thì hành vi " kết hôn giữa những người cùng giới tính" được liệt vào
những hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ
hôn nhân một vợ, một chồng, và bị xử phạt từ 100.000 đồng đến
500.000 đồng).
Lý giải nguyên nhân của sự thay đổi này, trung tâm iSEE cho rằng :
Thứ nhất,việc xử phạt hành vi "kết hôn giữa những người cùng giới
tính" không phù hợp với thực tế. Luật pháp hiện hành của nước ta
quy định "Kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn." Việc hai người
có cùng giới tính muốn đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chắc chắn sẽ không được chấp nhận. Do đó, hành vi
"kết hôn giữa những người cùng giới tính" không xảy ra trong thực
tế nên việc xử phạt không cần thiết.
Thứ hai, việc quy định xử phạt hành vi "kết hôn giữa những người
cùng giới tính" dẫn đến cách hiểu sai của một số cơ quan, chính
quyền địa phương. Có không ít trường hợp chính quyền địa phương
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với những đám cưới của
những người cùng giới tính, ví dụ như đám cưới của cặp đôi đồng
tính nam tại Kiên Giang. Quyết định xử phạt sai của chính quyền
địa phương xuất phát từ cách hiểu sai về "kết hôn" và "đám cưới",
dẫn đến việc lấy quy định xử phạt hành vi kết hôn giữa những
người cùng giới tính để xử phạt những đám cưới giữa những người
cùng giới tính.
Bỏ xử phạt việc kết hôn cùng giới là một bước tiến nhỏ nhưng rất
đáng ghi nhận.
3.3. Cần một lộ trình để công nhận hôn nhân giữa những người
đồng giới



Ngày 26 tháng 11 năm 20013, quốc hội Việt Nam lần đầu tiên thảo
luận trong phiên toàn thể về hôn nhân và cuộc sống chung giữa
hai người cùng giới tính. Về quy định cấm kết hôn giữa những
người cùng giới tính, dự thảo Luật đã bỏ quy định về việc cấm kết
hôn giữa những người cùng giới tính được quy định tại khoản 5
Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình hiện hành và thay bằng quy
định mới, theo đó, “Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân
giữa những người cùng giới tính.” Theo cuộc điều tra về cảm xúc
sau khi biết các nội dung của Dự thảo luật trong cộng đồng người
đồng tính, 56% nói rằng họ thất vọng, 33% cảm thấy bình thường
và 11% cảm thấy hài lòng. Một bộ phận đánh giá việc không cho
phép các cặp đôi cùng giới đăng ký kết hôn (equal marriage), hoặc
đăng ký kết hợp dân sự (civil union) là thất bại của Việt Nam. Họ
cho rằng việc thừa nhận đồng tính là tự nhiên, không can thiệp
vào sống chung và chấp nhận giải quyết các hậu quả pháp lý vẫn
thể hiện sự phân biệt đối xử, coi đồng tính là công dân hạng hai và
tạo môi trường để định kiến xã hội tồn tại. Việc không cấp giấy
chứng nhận cho hai người cùng giới sống chung đã tước đoạt tính
biểu tượng của sự cam kết, chia sẻ và gắn bó giữa hai người yêu
nhau. Nhóm còn lại cho rằng, đây là một bước tiến dài, là bước đi
hợp lý tiến tới mục tiêu bình đẳng. Nhiều người khẳng định cuộc
sống riêng tư của các cặp đôi cùng giới không bị can thiệp, và các
nhu cầu pháp lý về tài sản và con cái được đảm bảo là điều quan
trọng nhất. Họ còn cho rẳng, việc không (được) đăng ký nhưng các
hậu quả pháp lý của việc sống chung vẫn được giải quyết còn tốt
hơn việc đăng ký thì mời được thừa nhận. Trên thực tế, những
người này cho rằng đại đa số các cặp đôi cùng giới sẽ chưa đăng
ký ngay vì các lý do khác nhau. Như vậy, nếu phải đăng ký mới

được thừa nhận và bảo vệ chưa chắc đã là một điều hay, ít nhất
trong thời gian hiện tại.
Theo kế hoạch, ban soạn thảo sẽ tiếp tục chỉnh sửa và trình vào
phiên họp tiếp theo vào tháng 5 năm 2014 để thông qua. Theo
em, việc công nhân hôn nhân cùng giới hay không phải cân nhắc
rất nhiều ảnh hưởng đến xã hội. Quan điểm của em cho rằng,
Quốc Hội sẽ chưa đồng ý vào lúc này. Người đồng tính cần sự thừa
nhân của cả pháp luật và xẫ hội. Điều đó cần Thời gian. Em tin


tưởng rằng, trong tương lai sẽ có một ngày quyền kết hôn của
những người đồng tính được cả xã hội và pháp luật công nhận.
4. Quyền chung sống
4.1.Xã hội ủng hộ Quyền chung sống của người đồng giới
Việc sống chung giữa những người cùng giới tính là một hiện tượng
đã có ở ViệtNam, từ đó phát sinh các quan hệ về nhân thân, tài
sản hoặc về con (ví dụ nhận con nuôi). Hiện nay pháp luật vẫn
thiếu cơ chế để điều chỉnh các hậu quả phát sinh từ các quan hệ
này. Thực tiễn xét xử ở Tòa án trong những năm qua đã có một số
vụ án có tranh chấp tài sản giữa những người đồng tính có quan hệ
sống chung nhưng chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết
tranh chấp. Để giải quyết vấn đề này, có lẽ nên xem xét quy định
vấn đề sống chung có đăng ký giữa những người cùng giới tính
(cặp đôi dân sự, chưa phải là kết hôn) trong Luật Hôn nhân và Gia
đình.
Ngày 26/3/2014 tại Hà Nội, Viện Xã hội học, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế, và Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường
đã công bố kết quả điều tra quốc gia về “Quan điểm xã hội với hôn
nhân cùng giới”. Hội thảo có sự tham dự của hơn 120 người từ các
cơ quan nhà nước như Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thể thao và Du

lịch, Ngài Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Canada tại Việt Nam David
Divine, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước, các tổ chức
quốc tế, các cơ quan truyền thông và đại diện cộng đồng người
đồng tính cùng Hội phụ huynh người đồng tính.
PGS.TS Đặng Nguyên Anh, Viện trưởng Viện Xã hội học chia sẻ một
số kết quả điều tra, trong đó có một số phát biểu đáng lưu ý:
Thứ nhất, ngày càng có nhiều người dân biết về đồng tính (90%)
và việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính
(62%). Một lượng lớn (30%) người dân quen ai đó là người đồng
tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm…). Điều này chứng
tỏ quan hệ cùng giới là thực tế tồn tại trong xã hội cần được quan
tâm.


Thứ hai, về việc công nhận quyền sống chung như vợ chồng giữa
những người cùng giới tính, số người ủng hộ và không ủng hộ khá
tương đương nhau, và tương ứng là 41,2% và 46,7%. Số còn lại
đang lưỡng lự, không quan tâm hoặc không cho ý kiến.
Khi được hỏi về một số quyền cụ thể mà các cặp đôi cùng giới nên
được pháp luật bảo vệ, 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới
nên có quyền cùng nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền
sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.
Thứ ba, đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân
cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân
(63,2%) họ. Xét theo vùng miền, người miền Bắc và người miền
Trung ủng hộ tích cực hơn (78% và 74%) so với miền Nam (68%).
Những trường hợp có quen biết người đồng tính xác suất ủng hộ
hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới lớn gấp đôi so với các trường
hợp không quen biết. Điều này cho thấy việc xuất hiện công khai,
sống thật của người đồng tính có tác động tốt đến thái độ ủng hộ

của xã hội.
4.2.Cần thiết thừa nhận Quyền chung sống
Qua nghiên cứu, đánh giá, các nhà nghiên cứu khoa học cho rằng
việc ban hành các quy định mới trong luật pháp ở Việt Nam để hợp
pháp hóa quan hệ sống chung của người đồng tính là thực sự rất
cần thiết. Điều này sẽ có tác dụng góp phần ổn định xã hội, đáp
ứng nhu cầu của người đồng tính được sống chung (có sự bảo hộ
của Nhà nước), làm cho người đồng tính sống có trách nhiệm với
bản thân và đời sống chung hơn. Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc
gia vẫn còn nặng nề trong việc gìn giữ quan niệm phổ biến, truyền
thống về hôn nhân, gia đình và thực sự khó để thay đổi ngay trong
một thời gian ngắn. Hơn nữa, mối quan hệ đồng giới, các nghiên
cứu về quan điểm liên quan đến hôn nhân cùng giới vẫn chưa thực
sự rõ nét và người đồng tính chưa thực sự là mối quan tâm của
nhiều người trong xã hội Việt Nam. Chính vì vậy, đề nghị nên công
nhận hình thức sống chung có đăng ký (kết hợp dân sự) đối với cặp


đôi đồng tính tại Việt Nam. Đây có thể là một bước đệm để tạo
điều kiện xem xét, đánh giá thêm mối quan hệ đồng giới trước khi
công nhận hôn nhân cùng giới. Hiện nay, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình đang đi theo
hướng bãi bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới
tính và chỉ đưa ra các quy định giải quyết hậu quả do việc sống
chung của cặp đôi đồng tính . Như vậy, dự thảo vẫn chưa hợp pháp
hóa quan hệ sống chung của người đồng tính. Quy định như vậy sẽ
có khá nhiều bất cập:
- Đầu tiên, quy định của dự thảo không thực sự đáp ứng yêu cầu
đang đặt ra của xã hội về nhu cầu sống chung có đăng ký của
người đồng tính.

- Quan hệ sống chung không có đăng ký của người đồng tính và dị
tính khác nhau ở chỗ: cặp đôi nam nữ được quyền kết hôn nhưng
họ lại sống chung không có đăng ký, trong khi đó cặp đôi đồng tính
không có quyền kết hôn nên đôi khi họ sống chung, từ đó phát
sinh nhiều vấn đề về quyền lợi chung, lợi ích của bản thân mỗi
người trong cặp đôi. Chính vì vậy, dùng các quy định giải quyết
hậu quả của việc nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn để áp dụng cho cặp đôi đồng tính sống
chung là không thực sự phù hợp về mặt bản chất.
- Nếu không hợp pháp hóa quan hệ sống chung của người đồng
tính sẽ dễ gây bất ổn trong xã hội và thực thi pháp luật. Hiện nay
nhiều người đồng tính sống chung với nhau nhưng không được
công nhận, từ đó phát sinh khá nhiều vấn đề về tài sản, nhân thân.
Nhiều cặp đôi cùng tạo ra tài sản, ví dụ cùng mua nhà nhưng
không thể đứng tên chung, do đó, khi một người qua đời thì người
còn lại cũng không có quyền đối với tài sản cùng tạo dựng đó.
- Quy định thiếu tính dự báo. Nếu không công nhận quan hệ sống
chung thì có thể khoảng 10 năm nữa khi tiếp tục đặt ra vấn đề sửa
đổi Luật Hôn nhân và Gia đình, vấn đề kết hôn đồng tính sẽ vẫn
được đặt ra nhưng sẽ không có cơ sở đánh giá từ thực tiễn để xem
xét, nghiên cứu công nhận hay không. Việc cho phép sống chung
có đăng ký sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước xem xét, đánh


giá quan hệ đồng giới một cách chính xác, có cơ sở hơn so với việc
chỉ đưa ra quy định giải quyết hậu quả do việc sống chung không
có đăng ký. Với tình hình hiện tại, nhất thiết phải có quy định điều
chỉnh mối quan hệ sống chung có đăng ký của người đồng tính.
Nếu không tạo cơ hội cho người đồng tính chứng minh sự bền vững
trong việc sống chung thì xã hội khó đạt được tính căn bản bền

vững, giá trị xã hội của pháp luật cũng khó được đảm bảo và phát
huy.
Nếu Luật đồng ý thừa nhận quyền chung sống giữa những người
cùng giới tính, đây chính là một bước tiến dài trong con đường bảo
vệ quyền lợi cho cộng đồng này. Khi mà quyền kết hôn còn đang
có nhiều tranh cãi, thì việc quy định quyền chung sống là cần
thiết.
LỜI KẾT
Càng nghiên cứu sâu về quyền lợi của người đồng tính, càng nhận
thấy đây là vấn đề phức tạp. Phức tạp ở chỗ xã hội còn nhìn nhận
chưa đúng, nhìn nhận sai lầm về cộng đồng người đồng tính. Phức
tạp ở chỗ quy định của pháp luật về các quyền nhân thân vẫn
chưa thỏa mãn những vấn đề của xã hội. Tuy nhiên, vẫn có những
người vẫn liên tục nghiên cứu, đấu tranh cho quyền lợi của họ. Em
xin bày tỏ lòng cám ơn và ngưỡng mộ tới Luật gia Trương Hồng
Quang, người đã đóng góp nhiều tâm sức với những bài viết giàu
giá trị về người đồng tính nói riêng và người LGBT nói chung.
Những nghiên cứu này là nguồn tài liệu vô cùng quan trọng cho
bài tập này của em. Đối với em, đây không chỉ đơn thuần là một
bài tập nữa, mà nó còn có ý nghĩa nhiều hơn thế. Đó là phải nhìn
nhận một vấn đề bằng nhiều phương diện. Đó là cần nghiên cứu
và bảo vệ quyền lợi của những nhóm người thiểu số trong xã hội,
để nhìn nhận pháp luật nghiêm túc hơn. Mong rằng trong thời gian
sắp tới, pháp luật sẽ có những quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn,
đáp ứng những mong muốn hợp lý của những cá nhân trong quan
hệ đồng giới tính.





×