Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tác PHẨM PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔTA tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.59 KB, 30 trang )

A: Phần Mở Đầu
Chủ nghĩa không phải là một sự xuất hiện tự nhiên từ một đầu óc thiên
tài nào, mà xuất hiện từ hiện thực khách quan của đời sống xã hội, từ quá
trình đấu tranh giai cấp. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của xã hội loài
người C.Mác rút ra kết luận: Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá
trình lịch sử tự nhiên. Nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát triển và diệt
vong. Bởi vì do sự tác động của quy luật kinh tế Chính các cuộc cách mạng
xã hội đã làm cho xã hội loài người chuyển từ xã hội thấp lên xã hội cao hơn.
C.Mác và Ph.Angghen không những chỉ ra tính tất yếu khách quan sự ra đời
của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, mà còn chỉ ra rằng: CNTB lên
chủ nghĩa cộng sản tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ. Đây là thời kỳ cải
biến cách mạng toàn diện từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở
kinh tế đến kiến trúc thượng tầng, để xoá bỏ pháp quyền tư sản và hoàn thiện
các đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. Hai ông đã dùng khái niệm chủ nghĩa
cộng sản, coi đây là một phương thức sản xuất phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau này CNXH được coi là giai đoạn
thấp của chủ nghĩa công sản.

1


B: Nội Dung
CHƯƠNG I: TÁC PHẨM PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔTA
1.1: Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
Mác viết tác phẩm này vào năm 1875. Đây là một sự phân tích có tính
chất phê phán cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ Đức tại Đại hội tổ chức ở
Gôta. Đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Tây Âu và của phong trào
công nhân thì Công xã Pari năm 1871 là một bước ngoặt. Thời kỳ này đã xuất
hiện các chính đảng của giai cấp công nhân có tính chất quần chúng. Lúc này,
học thuyết mácxít được truyền bá rộng rãi và giúp cho chính đảng của giai
cấp công nhân ở các nước giành được thắng lợi, đồng thời học thuyết Mác đã


đập tan mọi học thuyết xã hội chủ nghĩa của giai cấp tiểu tư sản. Biện chứng
của lịch sử là: sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực lý luận, buộc kẻ
thù phải thay đổi bộ mặt tự hóa trang làm người mácxít để chống chủ nghĩa
Mác. Chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức đã xuất hiện từ trong nội bộ của
Đảng xã hội dân chủ. Mác và Ăngghen đã có nhiều cố gắng để thành lập
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước. Trước tiên là ở
Đức. Vào những năm 60 và đầu những năm 70 thế kỷ XIX, ở Đức có hai tổ
chức của công nhân. Một lấy tên là Tổng Hội liên hiệp công nhân Đức do
Látxan cùng đồ đệ lãnh đạo và Đảng xã hội dân chủ Đức còn gọi là Đảng
Aidơnach do Liếpnếch và Bêben lãnh đạo. Sau khi nước Đức thống nhất, vấn
đề thống nhất hai tổ chức giai cấp công nhân Đức cũng được đặt ra. Mác và
Ăngghen đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách chớ có nóng vội liên
hiệp hoặc hợp nhất, bởi vì phái Látxan là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Mác và Ăngghen chủ trương là nên thống nhất phong trào công nhân
Đức từ dưới, làm cho phái Látxan bị cô lập trong quần chúng nhân dân, nếu
hợp nhất với phái Látxan phải dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng
sản khoa học. Nhưng những nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách đứng đầu Liếpnếch

2


không làm theo ý kiến mà Mác và Ăng ghen đã nhắc nhở, họ tiến hành hợp
nhất hoàn toàn vô điều kiện, và tới tháng 5-1875, Đại hội đại biểu đảng liên
hiệp đã được triệu tập ở Gôta. Người chủ chốt thảo ra cương lĩnh hợp nhất là
Liếpnếch. Khi Liếpnếch dự thảo bản cương lĩnh, Mác không biết, sau khi viết
xong rồi mới đưa dự thảo cho Mác. Mác bất bình trước sự phản bội các
nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học được thể hiện trong cương lĩnh
và sự nhượng bộ của Đảng Aiđơnách trước phái Látxan một cách nhục nhã.
Mác đã biên chú vào lề để phê phán từng phần của cương lĩnh, chính thức gọi
là “Phê phán Cương lĩnh Gôta”. Bất chấp sự phê phán của Mác - Ăngghen về

bản cương lĩnh, Đại hội đại biểu liên hiệp Gôta vẫn thông qua bản cương lĩnh
đó. Chính sự thỏa hiệp này đã trở thành một trong những nguyên nhân của sự
thoái hóa, biến chất của Đảng xã hội dân chủ Đức và sau này đẻ ra chủ nghĩa
cơ hội. Phái Látxan trở thành tiền thân của chủ nghĩa cơ hội ở trong Đảng xã
hội dân chủ Đức. Tư tưởng của phái Látxan trở thành một trong những nguồn
gốc lý luận của chủ nghĩa cơ hội bất chấp sự phản đối của bọn cơ hội trong
Quốc tế II năm 1891, Ăngghen cho xuất bản lần đầu tiên tác phẩm Phê phán
Cương lĩnh Gôta của Mác.Ăngghen công bố rằng, với tinh thần cách mạng
mácxít, “Phê phán Cương lĩnh Gôta” đã giáng một đòn nặng nề vào bọn cơ
hội chủ nghĩa. “Phê phán Cương lĩnh Gôta là một trong những văn kiện có
tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa cách mạng.
1.2: Nội dung của tác phẩm.
Tác phẩm gồm những lời nhận xét của Mác đối với bản cương lĩnh của
Đảng xã hội dân chủ Đức và bức thư của Mác gửi Brắcơ ngày 5-5-1875 với
hai nội dung:
+ Mác phê phán về nguyên lý lý luận và kinh tế trong Cương lĩnh Gôta
là chịu ảnh hưởng của phái Látxan.
+ Phát triển thêm về lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học các tác phẩm
trước đó chưa đề cập đến.

3


* Phê phán của Mác về những nguyên lý lý luận và chính trị của phái
Látxan
+ Phê phán lý luận gọi là “quy luật sắt về tiền công” Látxan đưa vào
thuyết nhân khẩu của Mantuýt cho rằng dân số trong xã hội bao giờ cũng
thừa, và tư liệu sinh hoạt tăng lên chậm hơn mức tăng của nhân khẩu, do đó
công nhân chỉ có thể thu được tiền công với mức thấp nhất và tự gọi đây là
“quy luật sắt về tiền công”. Theo Mác điều đó là hoàn toàn do Látxan bịa ra

chứ không phải có quy luật của kinh tế tư bản chủ nghĩa như vậy. Cương lĩnh
Gôta nêu rõ rằng, chính đảng của công nhân phải xoá bỏ hệ thống tiền công
theo “quy luật sắt của tiền công”, như vậy có nghĩa là Cương lĩnh của Đảng
đã tiếp thu quan điểm của Látxan và đồng thời lại công nhận luôn cả thuyết
Mantuýt. Theo Mác, nếu quy luật ấy là có thực thì người ta cũng không thể
xóa bỏ nó được, vì vậy quy luật này có tồn tại hay không thì việc đề ra yêu
sách trong cương lĩnh đòi xóa quy luật cũng vẫn là sai, vả chăng, trong thực tế
làm gì có thứ “quy luật sắt của tiền công” như thế. Trong bộ Tư bản, Mác đã
vạch ra rằng: tiền công là hình thức biểu hiện giá trị hay giá cả của sức lao
động, và cái quyết định con số thực tế của tiền công là do ở mỗi tình hình cụ
thể, do ở nhiều điều kiện, chứ không phải là do ở “quy luật sắt” nào cả. Học
thuyết về giá trị thặng dư của Mác đã bóc trần nguồn gốc và thực chất của sự
bần cùng hóa giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, do đó đã
đập tan cả thuyết Mantuýt.
Theo học thuyết giá trị thặng dư của Mác, muốn xóa bỏ hệ thống tiền
công cần xóa bỏ lao động làm thuê và như thế có nghĩa là phải xóa bỏ hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, việc xóa bỏ tiền công được đề ra như
một điều chủ yếu và độc lập là không đúng. Cho nên, đưa ra cái gọi là “quy
luật sắt” vào trong Cương lĩnh của Đảng tức là đã phản ngược lại lý luận chủ
nghĩa cộng sản khoa học.
+ Phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan ghi trong Cương
lĩnh là thực hiện phân phối công bằng, là đòi sản phẩm của lao động phải
4


thuộc về mọi thành viên trong xã hội Mác vạch rõ, cái gọi là “sản phẩm toàn
vẹn của lao động” phải thuộc về mọi thành viên của xã hội, lập luận đó, yêu
sách đó là bông lông, rỗng tuếch, đó là câu nói của những người dốt đặc về
khoa kinh tế học. Giả thuyết theo cách nói của họ, mọi thành viên trong xã
hội đều chiếu theo quyền lợi bình đẳng nhận được sự thu nhập “toàn vẹn” thế

thì kẻ không lao động cũng vẫn được hưởng thu nhập, chỉ riêng điều đó cũng
đã làm cho thu nhập của người lao động bị khấu trừ rồi. Nếu bảo chỉ có những
người làm việc mới được hưởng thu nhập, thế thì làm sao có thể nói được mọi
thành viên trong xã hội đều có “quyền lợi bình đẳng”. Cho nên, trong bản
Cương lĩnh đã tự mâu thuẫn lôgic. Hơn nữa, Mác nêu rõ là phương thức phân
phối bao giờ cũng do phương thức sản xuất, do trình độ sản xuất quyết định.
Mác cho rằng, ngay trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể
nào có cái thu nhập gọi là “toàn vẹn của lao động”; không bị cắt xén. Mà
trước khi phân phối số sản phẩm cần thiết thỏa mãn nhu cầu cá nhân cho mọi
người, thì xã hội cũng cần phải có khấu trừ một bộ phận để bù đắp các khoản:
hao mòn tư liệu sản xuất, dùng cho tái sản xuất, dùng quỹ bảo hiểm đề phòng
tai nạn, dùng chi tiêu cho trường học, cho công cuộc bảo đảm sức khỏe, dùng
làm quỹ nuôi những người không có khả năng lao động chi tiêu, xây dựng quê
hương. Chỉ sau khi khấu trừ những khoản đó, phần còn lại mới có thể đem
phân phối cho mọi cá nhân. Như vậy, trong tác phẩm này, Mác đã phê phán
yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan mà Cương lĩnh Gôta đã đưa vào, đã
vạch ra rằng, yêu sách này là dựa trên cơ sở của kinh tế học tư sản, nó cắt rời
giữa phân phối với sản xuất
+ Phê phán Cương lĩnh Gô ta phản bội, chủ nghĩa quốc tế vô sản
Cương lĩnh Gôta không hề nói đến nghĩa vụ quốc tế của giai cấp vô sản Đức.
Chủ nghĩa Mác không phủ định yếu tố dân tộc trong chủ nghĩa xã hội, nhưng
Mác phê phán “Cương lĩnh Gôta” là đã quá sa vào chủ nghĩa xã hội dân tộc.
Theo Mác, quan điểm này là rất quan trọng, bởi bọn địa chủ quý tộc, tư sản
Đức đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để bắt giai cấp công nhân phục tùng
5


quyền lợi và yêu cầu của giai cấp tư sản là không lợi dụng quan điểm chủ
nghĩa dân chủ Látxan đưa ra.
+ Phê phán quan điểm của Látxan

cho rằng, ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là
một khối phản động Lập luận này của Látxan đã phủ định khả năng tham gia
cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản, như vậy đã đẩy giai cấp vô
sản bị cô lập. Điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột. Yêu sách của “Cương
lĩnh Gôta” nêu lên không phải là đấu tranh giai cấp mà là yêu sách của chủ
nghĩa Latxan: tổ chức những “hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà
nước giúp đỡ. Đề ra yêu sách này có nghĩa là thụt lùi một bước, là làm cho
phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái. Mác cho rằng: nói rằng
những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo
quy mô xã hội và trước hết theo qui mô dân tộc điều đó chỉ có nghĩa là họ cố
gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên
quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Thay đấu
tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái đã làm cho phong trào công
nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Lập luận trên đây của Látxan
và quan điểm phủ định liên minh công – nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong
Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của Mác đối
với chủ nghĩa Latxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc
phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.
+ Phê phán quan điểm về nhà nước trong Cương lĩnh Gôta
Đây là một quan điểm rất tai hại và phản động. Tính chất nguy hại của
nó ở chỗ nó phủ định nguyên lý của Mác về sự cần thiết phải thiết lập chuyên
chính vô sản. Đối lập với học thuyết mácxít, nó nêu lên cái gọi là “Nhà nước
tự do”... Đem thuyết “Nhà nước tự do” thay cho học thuyết về chuyên chính
vô sản của Mác là đem thay thế yêu sách xã hội chủ nghĩa bằng yêu sách dân
chủ tư sản và mang dấu ấn màu sắc của chủ nghĩa Látxan. Mác - Ăngghen đã
phê phán thuyết “Nhà nước tự do” cho rằng mục đích của chủ nghĩa cộng sản
6


không phải là cái gì chung chung gọi là “nhà nước tự do” mà là tiêu diệt mọi

nhà nước. Nói “Nhà nước tự do” nghĩa là muốn nhà nước tồn tại mãi mãi và
trong thực tế là sùng bái nhà nước đương thời.
Hơn nữa, “Nhà nước tự do” là gì? và đối với ai để nói nhà nước tự do?
Ăngghen cho rằng, giai cấp vô sản cần nhà nước chứ không phải là vì để tự
do, mà là để trấn áp giai cấp bóc lột. Vậy, yêu sách “Nhà nước tự do” cũng là
rỗng tuếch. Trong khi đưa ra “Nhà nước tự do”, Cương lĩnh Gôta không hề
nhắc tới việc tiêu diệt nhà nước tư sản, như vậy thực tế vấn đề chỉ là cải thiện
nhà nước đương thời mà thôi. Cương lĩnh thể hiện quan niệm về tính siêu giai
cấp của nhà nước, do đó có thể dựa vào nhà nước của giai cấp bóc lột để tổ
chức chủ nghĩa xã hội lập các hợp tác xã do nhà nước Phổ giúp đỡ để xây
dựng chủ nghĩa xã hội; Điều đó hoàn toàn trái ngược quan điểm của Mác là
phải qua cách mạng, đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột và lập nền chuyên
chính vô sản để đi tới chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, qua các vấn đề trên, ta thấy
“Cương lĩnh Gôta” phản ngược lại lý luận mácxít khoa học. Ngoài chủ nghĩa
Látxan, “Cương lĩnh Gôta” còn thu nhặt rất nhiều thứ khác nữa ở trong một
đảng theo chủ nghĩa tự do tư bản, vì vậy, Mác đã phê phán kiên quyết. Mác đã
đánh giá thực chất Cương lĩnh Gôta như sau: “Mặc dầu tất cả những lời lẽ dân
chủ rất kêu của nó, toàn bộ Cương lĩnh từ đầu chí cuối đều nhiễm phải cái
bệnh của phái Látxan là lòng tin của thần dân vào nhà nước, hoặc là - điều
này cũng chẳng có gì tốt hơn - tin vào phép màu dân chủ, hay nói cho đúng
hơn, đó là sự thỏa hiệp giữa hai lòng tin ấy vào phép màu, cả hai loại đều xa
lạ như nhau với chủ nghĩa xã hội”.
* Phát triển của Mác về lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học
Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” khi phê phán chủ nghĩa Látxan,
Mác đã phát triển lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học. Mác đã đề ra nguyên
lý về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đã
nêu nguyên lý về hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự
khác nhau giữa hai giai đoạn đó.
7



+ Lý luận về thời kỳ quá độ Trước khi viết “Phê phán Cương lĩnh
Gôta”, Mác đã chứng minh sự cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản, sự
cần thiết phải đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản. Trong “Phê phán
Cương lĩnh Gôta”, Mác nêu vấn đề này bằng một phương thức khác. Mác nói,
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không có một thời kỳ quá
độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên chính của giai
cấp vô sản. Mác khẳng định rằng: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm
khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Trong Phê phán
Cương lĩnh Gôta, Mác phê phán chủ nghĩa Látxan không phải là vì nó đề ra
yêu sách có tính chất dân chủ tư sản, mà vì nó chỉ thỏa mãn với yêu sách đó,
không đưa ra một chút gì về yêu sách xã hội chủ nghĩa mà chỉ đem yêu sách
có tính chất dân chủ tư sản thay cho yêu sách dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tư
tưởng về chuyên chính vô sản của Mác được Lênin phát triển trong tác phẩm
“Nhà nước và cách mạng”. Trong tác phẩm đó, Lênin khẳng định rõ thái độ
vô sản chuyên chính đối với dân chủ và so với dân chủ tư sản thì vô sản
chuyên chính còn dân chủ gấp nhiều lần.
+ Lý luận về phân phối
Trong khi phê phán sản phẩm, “toàn vẹn của lao động” của chủ nghĩa
Látxan, Mác đồng thời cũng chỉ rõ cách đặt vấn đề phân phối như thế nào sau
khi chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt và chủ nghĩa cộng sản giành được thắng lợi.
Mác đã vứt bỏ những câu rỗng tuyếch trong Cương lĩnh về “phân phối công
bằng và đặt vấn đề này trên một cơ sở khoa học”. Mác đặt vấn đề phân phối
trong sự liên hệ với trình độ phát triển của bước sản xuất xã hội. Mác cho
rằng, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà
nước và pháp luật, và với sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải
thực hiện phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Theo Lê nin,
cách phân phối này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị

8


tiêu diệt, ai nấy đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và
có quyền hưởng theo lao động của mình. Nhưng sự bình đẳng như vậy vẫn
chưa phải là tuyệt đối. Ở đây mới chỉ xác lập quyền bình đẳng về quan hệ đối
với tư liệu sản xuất và lập nên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, đã xóa bỏ
chế độ người bóc lột người. Nhưng về mặt tiêu dùng và phân phối, thực tế
chưa hoàn toàn bình đẳng, vì tuy mọi người bình đẳng hưởng theo lao động
nhưng thực tế mỗi người khác nhau: năng lực công tác có người giỏi người
kém, nhân khẩu có gia đình nhiều người có gia đình ít người cho nên về tiêu
dùng mọi người không hưởng như nhau. Mác viết rằng: “Nhưng đó là những
thiếu sót không thể trách khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn
đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và
sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Nhưng khi
chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng với sự phát
triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ
văn hóa được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành nhu cầu cần thiết
bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên phải chuyển sang
một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến
mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động nữa.
Nguyên lý của Mác về hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
bằng chứng thể hiện sức mạnh vĩ đại của lý luận khoa học. Nó dự kiến tương
lai của con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Tất nhiên, trong
nguyên lý này không thể dự kiến hết mọi cái của tương lai.

9



CHƯƠNG II: LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN
XUẤT CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI.
2.1: Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và các giai đoạn của nó
2.1.1: Tính tất yếu khách quan của sự ra đời phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa
Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã cho rằng, mọi sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử đều là quá
trình phát triểnlịch sử tự nhiên. Đó là do sự chi phối của quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.Với quan điểm trên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách hết
sức khoa học và biện chứng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phân tích
và rút ra các quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản. Một mặt, hai ông đã chỉ
rõ sự tiến bộ lịch sử của chủ nghĩa tư bản, vai trò cực kỳ to lớn của chủ nghĩa
tư bản trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hoá lao động; mặt khác,
cũng đã chỉ ra những giới hạn về mặt lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Hai ông đã
phân tích rõ mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất và cho rằng, quá trình phát sinh, phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (kể cả việc biến thành các công ty độc
quyền lẫn việc biến thành sở hữu của nhà nước) .đều không xoá bỏ tính chất
tư hữu tư nhân; nó không chỉ tạo ra những tiền đề xã hội mà quan trọng là đã
tạo ra những tiền đề vật chất, kinh tế cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và
khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản. Từ đó C.Mác và Ph.Ăngghen đã
rút ra kết luận, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ thay thế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đây là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu
cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát


10


triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế đó phù hợp với quy luật tiến hoá của
lịch sử xã hội loài người.
2.1.2: Những đặc trưng kinh tế - xã hội cơ bản của chủ nghĩa.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã phác hoạ những nét lớn về xã hội cộng sản
chủ nghĩa, xã hội sẽ thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa với những đặc trưng
kinh tế - xã hội cơ bản như sau:
Một là, lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa cộng sản phát triển ở trình độ cao,
cao hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất đó dựa trên cơ sở
áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhất. Đó là một nền
sản xuất với quy mô lớn và được tiến hành phù hợp với những yêu cầu của
khoa học hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho sự phát triển bền
vững. Hai là, chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ
người bóc lột người bị thủ tiêu. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, chủ nghĩa cộng
sản là một chế độ xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất,
thay thế cho chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì
vậy, chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội trong đó quyền lực thuộc về
người lao động, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu, quan hệ giữa người và
người là quan hệ hợp tác của những người lao động. C. Mác và Ph. Ăngghen
cũng chỉ ra rằng, không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được, mà chỉ
có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào tạo lập được một lực lượng sản xuất
hiện đại, xã hội hoá cao độ với năng suất lao động rất cao thì mới xoá bỏ được
chế độ tư hữu. Sự phát triển tới được trình độ cao đó của lực lượng sản xuất
cũng mới chính là điều kiện làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều có cơ
hội phát triển như nhau.
Ba là, sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã
hội. Mục đích của nền sản xuất xã hội dưới chủ nghĩa cộng sản là bảo đảm

cho mọi thành viên trong xã hội có đời sống vật chất và văn hoá ngày càng

11


phong phú, bảo đảm cho họ phát triển và vận dụng một cách tự do những
năng khiếu về thể lực và trí lực của cá nhân mình.
Bốn là, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên
phạm vi toàn xã hội và sản xuất hàng hoá bị loại trừ. Trong xã hội cộng sản,
việc sản xuất được tổ chức một cách có ý thức, có kế hoạch, được thực hiện
trên phạm vi toàn xã hội và trở thành một tất yếu kinh tế, có khả năng để thực
hiện.
Khi xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó thì
lao động có tính chất xã hội trực tiếp và sự thủ tiêu quan hệ giá trị trở thành
tất yếu kinh tế.
Năm là, sự phân phối sản phẩm bình đẳng. Do sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất, xã hội mới sẽ sản xuất ra một lượng sản phẩm dồi dào và
được tổ chức phân phối một cách khoa học nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội. Xuất phát từ luận điểm về quan hệ sở hữu quyết định
quan hệ phân phối, Ph. Ăngghen chỉ ra nguyên tắc chung của sự phân phối
trong xã hội mới là phân phối sản phẩm theo sự thoả thuận chung, tức là bằng
cái mà người ta gọi là sự cộng đồng về tài sản. Nói cách khác, đó là sự phân
phối bình đẳng.
Sáu là, xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí
óc và lao động chân tay, xoá bỏ giai cấp. Sự phát triển cao về kinh tế, văn hoá
và xã hội sẽ tạo cơ sở để thủ tiêu những sự đối lập đó. Cần lưu ý rằng, những
đặc trưng kinh tế - xã hội nêu trên là những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Theo cách nói của C. Mác, đó là xã hội đã pháttriển trên những cơ sở
của chính nó chứ không phải của "một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa".

2.1.3: Các giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
Để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với những đặc trưng kinh tế xã hội
cơ bản như trên, theo C.Mác cần phải trải qua hai giai đoạn:
12


- Giai đoạn đầu, hay giai đoạn thấp.
- Giai đoạn sau hay giai đoạn cao.
C.Mác coi giai đoạn đầu là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao.
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì kháơn
là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản". C.Mác đã chỉ ra rằng,
cần phân biệt rõ "xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của
chính nó", hay là "giai đoạn cao hơn" với "một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa
thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa", hay "giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những
cơn đau đẻ dài". Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng. Sau này Lênin gọi
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.
* Giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản.
Mác viết:”vậy là người sản xuất-một khi đã khấu trừ các khaonr thì còn
được nhận cho cá nhân minhg một khoản tương đương vừa đúng với phần
mình đã cung cấp cho xã hội.phần người ấy đã cng cấp cho xã hội là cái
lượng lao động cá nhân của mình.ví dụ ,người lao động xã hội tiêu biểu cho
tổng số người lao động cá nhân.thời gian lao động cá nhân của mỗi người sản
xuất là phần ngày lao động xã hội mà người đó đã cung cấp,là phần tham gia
của người ấy trong ngày lao động.người sản xuất nhận của xã hội đã nhận một
cái phiếu chứng nhận rằng họ đã cung cấp được bao nhiêu lao động và với
phiếu ấy,người sản xuất lấy ở kho của xã hội ra một số vật phảm tiêu dung
ngang với giá trị lao động của mình cùng một người lao động.người sản xuất

cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này,thì người ấy lại nhận được của xã
hội dưới một hình thức khác”
Theo Mác,giai đoạn có những đặc trưng sau.
- Một là,nó là xã hội vừa thoát thai từ trong lòng xã hội tư bản:

13


Giai đoạn thấp là một xã hội vừa thoát thai từ trong lòng xã hội tư bản,
nên chưa phải là một xã hội cộng sản phát triển trên cơ sở vật chất kỹ thuật
của riêng nó.vì vậy, về mọi phương diện:kinh tế,đạo đức,trí tuệ,xã hội…còn
mang dấu vết của xã hội tư bản.
-Hai là,về tài sản:
Trong xã hội chủ nghĩa mọi tài sản đều là của chung của xã hội.vì
vậy,ngoài những vật phẩm tiêu dung của cá nhân ra,thì không còn cái gì khác
thành tài sản của cá nhân.
-Ba là,sự bình đẳng còn mang pháp quyền tư sản:
Trong xã hội tư bản do dựa trê chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu
sản xuất,nên quan hệ quyền lợi ở đây là quan hệ bất bình đẳng,đó là quan hệ
bõ lột của tư bản đối với lao động làm thuê.còn sang chủ nghĩa xã hội do dựa
trên chế độ công hữu nên quyền lợi ở đây là bình đẳng.sự bình đẳng ở đấy
chính là ở chỗ đã dung lao động làm đơn vị đo lường chung.lao đông ngang
nhau thì được hưởng ngang nhau.
Nhưng đây là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản,nên quyền lợi bình
đẳng là quyền lợi kiểu tư sản,nghĩa là ở đây lại bao hàm những yếu tố không
bằng nhau như:
-Tinh thần và thể chất của người lao động khác nhau.
- cường độ lao động khác nhau.
- điều kiện lao động khác nhau.
-hoàn cảnh gia đình khác nhau.

Tất cả những yếu tố trên làm cho quyền lợi bình đẳng trở thành quyền
lợi bất bình đẳng.vì tuy làm việc ngang nhau,những thực tế thì người này lĩnh
nhiều hơn người kia,người này giàu hơn người kia…muỗn tránh tất cả những
tai hại ấy,thì quyền lợi không nên bình đẳng,mà nên bất bình đẳng.
Sự bất bình đẳng là một tất yếu khách quan trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản.vì vậy,Mác kết luận:” Quyền không bao giờ có thể mức ở cao
hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định.’’
14


- Bốn là,phân phối theo lao động.
Trong giai đoạn thấp,do lực lương sản xuất phát triển chưa cao,năng
suất lao động còn thấp,của cải làm ra chưa nhiều.Chế độ sở hữu công cộng
còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể,nên ở đây
phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
*Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản.
Mác viết:” trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản khi mà cá nhân
không còn bị phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa và sự đối lập
lao động trí óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa.khi mà
lao động không phải chỉ là một phương tiện để sống nữa mà tự nó sẽ biến
thành một điều tất yếu bậc nhất cho đời sống, khi mà chính lực lượng sản xuất
đã tăng lên cùng với sự phát triể cùng với mọi mặt của cá nhân và tất cả
những nguồn của cải công cộng đều tuân ra dào dạt-thì chỉ khi đó người ta
mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của quyền lợi tư sản và xã hội mới
có thể ghi trên lá cờ của mình” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”
Khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong và tạo ra cơ sở vật chấtkỹ thuật cho chủ nghĩa cộng sản,thì chủ nghĩa cộng sản có những đặc trưng
cơ bản sau:
- Thứ nhất,chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất được xác lập.
Chế độ sở hữu công cộng đã được xác lập ngay trong giai đoạn chủ
nghĩa xã hội,nhưng ở đây còn tồn tại hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở

hữu tập thể.đến chủ nghĩa cộng sản,chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chỉ
còn tồn tại có một hình thức đó là người chủ xã hội,quan hệ bóc lột người
hoàn toàn bị thủ tiêu,quan hệ giữu người với người là quan hệ bình đẳng và
hợp tác.toàn bị thủ tiêu,quan hệ giữu người với người là quan hệ bình đẳng và
hợp tác.
-Thứ hai.lực lượng sản xuất phát triển cao
Chủ nghĩa cộng sản là hình thái kinh tế-xã hội phát triển cao chủ nghĩa
tư bản,do đó lực lượng sản xuất của nó phải dựa trên một nền đại công nghiệp
15


cơ khí với khoa học-công nghệ tiến tiến và hiện đại nhất.bao gồm các lĩnh vực
mới như:điện tử,tin học,tự động hóa,vật liệu mới và khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.tri thức trở thành nguồn lực quyết định cho sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế.
- Thứ ba,con người phát triển toàn diện.
Đến chủ nghĩa cộng sản không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và
lao động chân tay,con người phát triển toàn diện,có thể am hiểu mọi lĩnh
vực.nó không còn bị lện thuộc một cách nô lệ vào sự phân công lao động
nữa.đến lúc đó,con người thực sự từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự
do
- Thứ tư,về lao động.
Đến chủ nghĩa cộng sản lao động không chỉ là một phương tiện để sống
nữa,mà tự nó sẽ biến thành một tất yếu,một nhu cầu của cuộc sống.
-Thứ năm,không còn sản xuất hàng hóa.
Do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với một hình thức duy
nhất là sở hữu toàn xã hội,nên đến đây lao động mang tính chất lao động xã
hội trực tiếp,theo một kế hoạch chung nhất trên phạm vi toàn xã hội.cho nên
khonng còn sản xuất hàng hóa,do đó không cần đến thước đó giá tr,tức là
không cần đến tiền nữa.

- Thứ sáu,thực hiện phân phối theo nhu cầu.
Đến chủ nghĩa cộng sản,do lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ rất
cao,hàng hóa tuôn ra dào dạt,nên cho phép người ta thực hiện nguyên tắc
phân phối “làm theo năng lực,hưởng theo nhu cầu”.
2.2: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.2.1: Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng lý luận của C.Mác và Ph. Ăngghen vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu
khách quan đối với mọinước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đối với
16


những nước có lực lượng sản xuất phát triển cao thì thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể ngắn hơn so với những nước đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế kém phát
triển.
Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định. Quan hệ sản xuất phong kiến và
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong
lòng xã hội phong kiến.Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội
phong kiến, cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ
yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà nước, làm cho kiến trúc thượng
tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó. Cách mạng vô sản có điểm khác biệt
căn bản với cách mạng tư sản. Do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ nghĩa xã hội không thể ra

đời từ trong lòng xã hội tư bản. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa chỉ
ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính
quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Hơn nữa, sự phát triển của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một
lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất
lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây
dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian. Nói cách khác, tất yếu phải có
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho
rằng, nếu như cách mạng tư sản thắng lợi đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ
quá độ từ xã hội phong kiến lên chủ nghĩa tư bản, thì cách mạng vô sản thắng
lợi mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ
17


quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra
từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền,
bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các
cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, tư
tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực
lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng
tầng xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.2.2: Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm cơ bản nhất xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ là sự
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ
quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: nó không còn là nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin viết: danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào nền kinh tế, có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ

phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ
ai cũng đều thừa nhận là có. Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga
lúc đó, V.I.Lênin rút ra có năm thành phần kinh tế là:
- Thành phần kinh tế nông dân gia trưởng. - Thành phần kinh tế sản
xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương.
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
- Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Theo V.I.Lênin, trong đó có các thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế
sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tương ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong xã hội cũng
tồn tại nhiều giai cấp, trong đó có ba giai cấp cơ bản là giai cấp tiểu tư sản,
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, người lao động tập thể. Nền kinh tế
nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp như trên là sự thống nhất biện
18


chứng các mâu thuẫn của tồn tại xã hội. Những mâu thuẫn này bắt nguồn từ
tính độc lập tương đối về kinh tế do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Theo V.I.Lênin, thời kỳ quá độ bao gồm
tất cả những đặc điểm, đặc tính của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là
thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời nhưng còn non yếu với chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì tính
chất quá độ đó nên trong nền kinh tế quá độ chưa có thành phần kinh tế thống
trị chi phối, mới có thành phần kinh tế nhà nước vươn lên giữ địa vị chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân.

19



CHƯƠNG III: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
3.1: Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước
thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên
phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một
quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với
những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực
lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây
dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với
những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá
độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài.Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử đối với nước ta, vì:
- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi
thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ
20



nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới,
chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn
không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này
không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản
không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa
không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi
động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan,hợp với quy luật của lịch
sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và
loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của
nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải
phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ
chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy
luật Phát triển tự nhiên của lịch sử.
- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20
của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ
vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của
chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã
thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta là một tất yếu lịch sử.


21


3.2: Quá độ lên nghĩa ở Việt Nam chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa
3.2.1: Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Về khả năng khách quan, trước
hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các
dân tộc, các quốc gia, không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trở thành một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng
khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để
các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình
những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các
nước đi trước để thực hiện "con đường phát triển rút ngắn". Xu thế toàn cầu
hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên
tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách
quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các
nước chậm phát triển, nếu như có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong điều
kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai
thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút
ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về những tiền đề chủ quan:
- Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài
nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân

dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ
22


nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối
đúng đắn và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng
chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn
vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng
vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
- Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đầu
khả quan, giữ vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát
triển kinh tế; đời sống nhân dân được cải thiện... điều đó đã củng cố và khẳng
định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
3.2.2 Nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa
Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của
giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính
là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất tư bản chủ

nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút
ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa tư bản đã có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
23


xuất, xã hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Quá trình này đã diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng
với những đau khổ đối với con người. Ngày nay, trong những điều kiện lịch
sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường
tư bản chủ nghĩa. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng biện
pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng, phát
triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều
kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là
công việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "tiến
lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ
chức và giáo dục". "Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm
dần dần". Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ bỏ qua hay rút ngắn này có
ý nghĩa thựctiễn quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy
ý chí về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước mà chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc
mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là

một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
24


- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới"1.Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

25


×