Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.04 KB, 27 trang )

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
trong năm 2013
A, MỞ ĐẦU
Đất nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới, toàn cầu
hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của
tất cả các quốc gia. Pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất
mức độ hội nhập cũng như sự bảo hộ của nhà nước đối với nền
kinh tế.Đây không chỉ là chính sách thuế của nhà nước mà còn thể
hiện chính sách ngoại giao của nước ta. Thuế nhập khẩu được quy
định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ( Luật TXK, TNK)
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong năm 2013, còn nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, tuy
đã có một hệ thống pháp luật tương đối cụ thể nhưng việc thực thi
trên thực tế ngoài những thành tựu đạt được thì còn gặp rất nhiều
khó khăn.Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần được hoàn
thiện để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả
hơn nữa. Để đi sâu nghiên cứu vấn đề này, em xin chọn đề tài :
“Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật
thuế nhập khẩu trong năm 2013; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt
pháp luật thuế nhập khẩu”. Trong quá trình làm bài, do hiểu biết
của em còn hạn chế và vấn đề mang tính thực tiễn cao, nên bài
làm không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của thầy cô, để hướng nhìn nhận vấn đề của
em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
B, NỘI DUNG


I, KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT THUẾ
NHẬP KHẨU
1, Khái quát về thuế nhập khẩu
- Khái niệm thuế nhập khẩu:


Tùy thuộc vào góc độ tiếp cận, còn nhiều cách hiểu khác nhau về
thuế nhập khẩu:
Xét trên phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là
khoản đóng góp bang tiền của tổ chức cá nhân vào ngân sách nhà
nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu
hàng hóa qua biên giới một nước.
Xét trên phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu như là quan hệ
pháp luật phát sinh giữa Nhà nước ( người thu thuế ) với tổ chức,
cá nhân ( người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền,
nghĩa vụ pháp lí cho các bên trong quá trình thu thuế nhập khẩu.
- Các đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu:
+ Thứ nhất: Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng
hóa được phép vận chuyển qua biên giới.
+ Thứ hai: Thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc
thuế gián thu.
+ Thứ ba: Thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ nền
sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động nhập khẩu.


2, Khái quát pháp luật về thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ để chỉ tập hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng kí, kê khai, tính thuế, nộp
thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi
phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa nhà nước và
người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luât về thuế nhập khẩu bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị
quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của Chính phủ; quyết
định chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ…Xét về phương diện nội

dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ
yếu như: phạm vi áp dụng; căn cứ tính thuế nhập khẩu; trình tự,
thủ tục tiến hành thu thuế nhập khẩu; chế độ miễn giảm thuế
nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu; xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp về thuế nhập khẩu.
Có quan điểm cho rằng nội hàm của khái niệm pháp luật về thuế
nhập khẩu không chỉ là các quy định trong pháp luật quốc gia mà
còn bao hàm cả các quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan
trực tiếp đến vấn đề thuế nhập khẩu, như Hiệp định CEPT; Hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định GATT…Như vậy, cần
phải quan niệm nội hàm của khái niệm pháp luật về thuế nhập
khẩu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp
luật quốc gia mà còn bao gồm cả các quy định trong pháp luật
quốc tế về thuế nhập khẩu. Quan điềm này là thích hợp với bối


cảnh hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trong giai đoạn
hiện nay của thế giới.
II, THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 2013
1, Những mặt đã đạt được
- Thứ nhất, thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và sản
xuất trong nước
Luật TXK, TNK năm 2005 ra đời đã góp phần quan trọng trong việc
phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu về thu ngân sách nhà nước.
Sau một thời gian thực hiện Luật TXK, TNK năm 2005 và Luật Hải
Quan ( sửa đổi) đã phát huy tích cực, góp phần vào hiệu quả hoạt
động hải quan. Ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật của chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu năm 2013 đã
được nâng lên, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm
thiếu nợ thuế.Năm 2013, nước ta vẫn tiếp tục thúc đẩy các mối

quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.Pháp
luật nhập khẩu đã tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài, từ đó thúc đẩy quan hệ ngoại giao của nước ta.
Trong năm 2013, hoạt động xuất nhập khẩu vẫn phụ thuộc lớn vào
khối doanh nghiệp FDI. Về thị trường, Trung Quốc vẫn là thị trường
nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỷ USD .Kim ngạch
nhập khẩu một số mặt hàng từ Trung Quốc tăng so với năm 2012:
Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 25,5% (1,2 tỷ USD);
điện thoại các loại và linh kiện tăng 73,6% (2,3 tỷ USD); máy vi
tinh sản phẩm điện từ và linh kiện tăng 36,8% (1,1 tỷ USD).


Thị trường ASEAN ước tính đạt 21,4 tỷ USD, tăng 2,8% (589 triệu
USD) với kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 56,3% (1,2 tỷ USD); máy
móc thiết bị và phụ tùng tăng 7,9% (16,9 tỷ USD).
Kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc ước tính đạt 20,8 tỷ USD, tăng
34,1% (5,3 tỷ USD) với các sản phẩm chủ yếu như: Máy vi tính
tăng 60,3% (1,8 tỷ USD); máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng
tăng 62,8% (993 triệu USD); điện thoại các loại và linh kiện tăng
78,2% (918 triệu USD). Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 11,6 tỷ
USD, giảm 0,18% (21 triệu USD). Thị trường EU ước tính đạt 9,2 tỷ
USD, tăng 4,2% (373 triệu USD). Hoa Kỳ đạt 5,1 tỷ USD, tăng 6,1%
(296 triệu USD).
- Thứ hai, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Bảng 1: Số liệu thu ngân sách và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
giai đoạn 2011 – 2013
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Tổng thu ngân sách nhà nước 674.500 741.500 790.800
Tổngthu từ hoạt động xuất nhập k

khẩu 155.765 223.900 237.500
Tỉ trọng từ hoạt động xuất nhập
khẩu so với tổng thu ngân sách
nhà nước (%) 23,09 30,19 30,03
Từ bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỉ trọng thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu so với tổng thu ngân sách luôn đạt tỉ trọng khá cao, cụ
thể năm 2013 là 30,03 %. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê,


năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 132,2 tỷ
USD, tăng 15,4% so với năm 2012.Tính từ đầu năm đến hết tháng
12 năm 2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt hơn
132,13 tỷ USD, tăng 16,1% so với nhập khẩu năm 2012, tương ứng
tăng 18,35 tỷ USD về số tuyệt đối.
Biều đồ 1: Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong 12
tháng/2013 và 12 tháng/2012

- Thứ ba: Bảo hộ nền sản xuất trong nước
Về tổng thể, năm 2013 là năm chạm đáy khó khăn chung của cả
nền kinh tế thế giới. Các dự báo kinh tế của hầu hết các tổ chức và
quốc gia vẫn thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm xuống,
xu hướng cải thiện nhẹ về tăng trưởng kinh tế sẽ đậm dần ở hầu
hết các khu vực, khối và quốc gia. Thị trường tiêu thụ gặp nhiều
khó khăn và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm
trong nước còn chưa đủ mạnh thì chính sách bảo hộ nền sản xuất
trong nước có vai trò vô cùng quan trọng.
Ví dụ: Thuế NK thang máy đã bảo hộ cho sản xuất trong nước - Đó
là khẳng định của Bộ Tài chính trước kiến nghị ưu tiên sử dụng
thang máy trong nước của Công ty cổ phần thang máy Thiên Nam.
Doanh nghiệp đề nghị Bộ Tài chính duy trì mức thuế suất nhập

khẩu cao nhất có thể.Trả lời Công ty cổ phần thang máy Thiên
Nam về mức thuế suất nhập khẩu, Bộ Tài chính cho hay, theo Biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư 193/2012/TTBTC của Bộ Tài chính, mặt hàng thang máy nâng hạ theo chiều
đứng (bao gồm thang máy kiểu dân dụng, mã số 8428.10.10;


thang máy sử dụng trong xây dựng, mã số 8428.10.21; thang máy
nâng hạ loại khác, mã số 8428.10.29) được quy định mức thuế
suất thuế nhập khẩu ưu đãi 10% bằng cam kết WTO năm 2013.
Khung thuế suất do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định là 010% .Như vậy, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi MFN của các
mặt hàng thang máy nâng hạ đã được quy định mức cao nhất có
thể để bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất thang máy trong
nước.
Hay nâng thuế nhập khẩu đường để bảo hộ nền sản xuất trong
nước.Thông tư số 193/2012/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2013 Bộ Tài chính vừa quyết định nâng thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi đối với đường thô từ 15% lên 25%; nâng thuế suất
thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các loại đường khác từ 15% lên
40%. thuế nhập khẩu là bảo hộ sản xuất trong nước cùng với mục
tiêu quan trọng là bảo vệ và khuyến khích ngành sản xuất mía
đường trong nước phát triển, khuyến khích việc tiêu dùng đường
sản xuất trong nước và góp phần cân đối cung cầu của mặt hàng
đường.
2, Những tồn tại, hạn chế
Quá trình áp dụng Luật TXK, TNK năm 2005 vẫn bộc lộ nhiều hạn
chế. Tạo kẽ hở cho các nhà nhập khẩu trốn thuế, làm thất thu
ngân sách nhà nước. Lợi dụng tình hình kinh tế khó khăn, không ít
DN sử dụng nhiều “mánh” để gian lận thuế. Như một sự trùng hợp
ngẫu nhiên, năm 2013, hàng loạt vụ việc trốn thuế, lách thuế bị
phát giác với những con số cực kỳ lớn, gắn với những danh hiệu

đình đám thậm chí rất nhiều án trốn thuế thuế khủng lại do chính
những DN nghiệp lớn, luôn tự hào về thành công kinh doanh thực


hiện. hàng chục những tên tuổi khác cũng bị cơ quan thuế bắt lỗi
với mức trung bình cũng vài tỷ đồng mỗi đơn vị, như công ty cổ
phần Sông Đà, Cao su Sao Vàng, nước giải khát Chương Dương…
Không chỉ giới DN tư nhân, đến cả những DNNN kinh doanh hàng
thiết yếu nhất cũng vướng vào án “trốn thuế”. Đó là ngành xăng
dầu với con số 470 tỷ đồng thuế nhập khẩu mà Kiểm toán Nhà
nước vừa phát hiện.Vụ việc thực tế đã gây ồn ào từ tháng 4 năm
nay.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng không thoát tai tiếng về
nộp thuế. Số thuế bị phát giác khai thiếu không lớn, chỉ hơn 1 tỷ
đồng tiền thuế nhập khẩu điện.Lỗi chính bắt nguồn từ việc, EVN đã
không báo trước cho hải quan việc tính sản lượng điện mua của
Trung Quốc hồi năm 2007 chỉ là tạm thời.
Có 7 doanh nghiệp cùng các sản phẩm sữa có giá khai báo thấp so
với cơ sở dữ liệu giá. Các sản phẩm này đã bị Hải quan điều chỉnh
tăng giá áp thuế nhập khẩu với mức điều chỉnh từ 2- 65%. Tháng 9
năm 2013, Tổng cục Hải quan vừa chính thức công bố với các cơ
quan truyền thống danh sách một số doanh nghiệp nhập khẩu sữa
bị nghi ngờ khai thấp giá nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu. Và
mặt hàng sữa cũng là mặt hàng được Tổng cục Hải quan đưa vào
danh sách có nguy cơ cao hay những mặt hàng cần được kiểm tra
chặt chẽ về giá do doanh nghiệp tự kê khai để tránh nguy cơ trốn
thuế.
Để tìm ra căn nguyên của những tình trạng trên, về cả những mặt
làm được và chưa làm được, sau đây e sẽ làm rõ các yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu năm 2013.



III, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ
NHẬP KHẨU TRONG NĂM 2013
Trong điều kiện nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế quốc
tế, pháp luật thuế nhập khẩu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố,
sau đây, em xin đi sâu phân tích những yếu tố cơ bản nhất:
1, Yếu tố tích cực
Thứ nhất,trên tinh thần hội nhập và hoàn thiện các quy định của
pháp luật, Luật TXK, TNK 2005 tỏ ra minh bạch và hiệu quả hơn
những luật thuế trước đây. Luật đã có những quy định phù hợp với
Luật Hải quan như các quy định về trị giá hải quan, kiểm tra hải
quan.Luật quy định mở rộng hơn về đối tượng không chịu thuế và
miễn thuế, phát huy tinh thần tích cực và chủ động của các chủ
thể nộp thuế, tạo môi trường bình đẳng cho hàng hóa nhập khẩu
vào nước ta… Có một hệ thống pháp luật và chúng phù hợp với
thực tế là cơ sở để thực thi tốt pháp luật thuế xuất khẩu. Năm
2013, nhiều văn bản về thủ tục hải quan và quản lý thuế đã được
ban hành mới, thay thế hoặc sửa đổi bổ sung văn bản cũ nhằm
tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa Hải
quan. Ngày 28-10-2013, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng
thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự
án Luật Hải quan (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII. Dự
án Luật Hải quan (sửa đổi) được đánh giá là dự án Luật quan trọng,
có các quy định tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế trong
nước và quá trình hội nhập quốc tế. Luật Hải quan (sửa đổi) sẽ
thay đổi toàn diện hoạt động hải quan.Dự kiến Luật Hải quan (sửa
đổi) sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa



XIII và có hiệu lực từ ngày 1-1-2015.Có một hệ thống pháp luật và
chúng phù hợp với thực tế là cơ sở để thực thi tốt pháp luật thuế
xuất khẩu.
Thứ hai, tiếp tục mở cửa thị trường theo cam kết trong ASEAN,
WTO: Trong năm 2013, một số cam kết về mở cửa thị trường, giảm
thuế nhập khẩu theo cam kết trong ASEAN và WTO tiếp tục được
thực hiện. Do đó, hàng hóa nước ngoài được đưa vào thị trường
Việt Nam nhiều hơn, làm tăng lượng cung ứng hàng hóa trên thị
trường và có thể khiến giá cả hàng hóa, đặc biệt là giá hàng tiêu
dùng sẽ giảm xuống. Việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị
trường là một yếu tố làm giảm đáng kể lạm phát trong năm 2013.
Thứ ba, các giải pháp tăng thu đã đem lại nhiều hiệu quả: Theo
Cục Thuế xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải quan, số thu TXK TNK của
ngành Hải quan tăng mạnh trong tháng 7/2013 có nguyên nhân từ
việc áp dụng Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung (có hiệu lực từ
1/7/2013), cho phép thu ngay các khoản ân hạn thuế của các tờ
khai XNK trong tháng 6/2013. Bên cạnh đó, khoản thuế thu từ các
tờ khai phát sinh trong tháng 7 cũng tăng khá, do hoạt động XNK
của doanh nghiệp có xu hướng hồi phục.Mặc dù nền kinh tế còn
nhiều khó khăn, tuy nhiên trong tháng 7/2013, hoạt động XNK, có
dấu hiệu hồi phục, giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách
của ngành Hải quan ”bớt căng” hơn .
Theo Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan),các biện pháp
tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, chống thất thu ngân
sách của ngành Hải quan triển khai từ đầu năm đến nay đã và
đang phát huy tác dụng, tạo tiền đề thúc đẩy sự phục hồi của nền
kinh tế.


Cục Thuế XNK cho biết, ngành Hải quan đang tiếp tục triển khai

các đoàn công tác đến các tỉnh, thành phố cùng với các đơn vị hải
quan nắm bắt tình hình và đánh giá hiệu quả của Luật Quản lý
thuế tác động đến nhiệm vụ thu ngân sách. Ngành sẽ tiến hành rà
soát, xác định lại chỉ tiêu thu ngân sách giao cho từng địa phương
trên cơ sở số thực thu 2012 và theo nguyên tắc những địa phương
được giao chỉ tiêu thấp hơn tỷ lệ chung thì trình Bộ Tài chính có
văn bản giao chỉ tiêu bổ sung. Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) sẽ
rà soát, sửa đổi chính sách liên quan đến quản lý hải quan đối với
xăng dầu, xe ngoại giao, tài sản di chuyển; Quản lý hải quan đối
với dầu thô nhập khẩu, nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị của
hoạt động dầu khí…bảo đảm quản lý, giám sát được việc nhập
khẩu dầu thô để thu đúng, đủ các loại thuế. Bên cạnh đó, ngành
Hải quan cũng tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp.
Thứ tư, trong 10 sự kiện nổi bật của ngành Hải quan năm 2013,
không thể không kể đến những sự kiện là những tín hiệu đáng
mừng đối với việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Từ ngày 1-12013, thủ tục hải quan điện tử (TTHQĐT) được thực hiện chính
thức trên phạm vi cả nước theo Nghị định 87/2012/NĐ-CP của
Chính phủ và Thông tư 196/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính. Sự kiện
này đánh dấu kết thúc giai đoạn thực hiện thí điểm (theo Quyết
định 149/2005/QĐ-TTg năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ) và mở
rộng thí điểm (theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ). Sau 1 năm, cả nước có hơn 45.000 DN tham
gia, chiếm trên 95% tổng số DN đang thực hiện thủ tục hải quan.
Năm 2013, ngành Hải quan triển khai nhiều chuyên đề, kế hoạch
trong phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại .


Thứ năm, tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một
thời kì nhất định có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách

TNK và nội dung pháp luật thực định về TNK trong giai đoạn đó.
Nhìn chung tuy nằm trong khó khăn chung của kinh tế toàn cầu
nhưng năm 2013 có nhiều sắc hổng được thể hiện trong báo cáo
kinh tế năm 2013, chính trị trong nước khá ổn định. Pháp luật TNK
có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích, hỗ trợ và bảo vệ
nền sản xuất trong nước.
2, Yếu tố tiêu cực
2.1, Hệ thống văn bản pháp luật tuy đã khá hoàn thiện nhưng còn
một số bất cập
- Hệ thống pháp luật còn thiếu sót. Hiện nay, hoạt động thương
mại ngày càng được mở rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng cao,
hàng hóa được nhập khẩu vào nước ta từ nhiều quốc gia, vùng
lãnh thổ khác nhau với giá cả cạnh tranh. Luât TXK, TNK đã quy
định các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá,
thuế tự vệ, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử
trong nhập khẩu hàng hóa nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới ban hành
ba pháp lệnh: Pháp lênh thuế tự vệ năm 2002, Pháp ệnh thuế
chống bán phá giá năm 2004 và Pháp lệnh chống trợ cấp năm
2004. Nhưng đến nay, mới chỉ có một nghị định hướng dẫn cho
thuế chống bán phá giá. Đối với thuế chống phân biệt đối xử trong
nhập khẩu hàng hóa chưa có một văn bản nào quy định cụ thể mà
mới chỉ tồn tại trong Luật TXK, TNK. Với sự thiếu sót ấy đã gây ra
nhiều khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật thuế xuất khẩu.


- Hiện nay, một số quy định trong Luật TXK,TNK không phù hợp với
những nội dung mà VN đã cam kết trong đàm phán quốc tế. Để
đảm bảo tính minh bạch cho hệ thống luật VN, phải làm rõ một số
qui định khác của luật hiện không còn phù hợp với luật thương mại

của thế giới Ngoài một số qui định chưa phù hợp của luật hiện
hành, còn có những qui định chưa rõ ràng, gây hiểu nhầm cho DN
nước ngoài. Ông Stuart P Seidiel, cố vấn pháp luật của Dự án hỗ
trợ Thương mại Star - người có 30 năm quản lý trong ngành Hải
quan tại Hoa Kỳ cho hay, ông đã nghiên cứu nhiều về Luật thuế
XNK, Luật hải quan của VN. Rất khó để tìm kiếm 1 điều khoản qui
định nào trong Luật thuế XNK, Luật hải quan của VN để áp dụng
được vào trường hợp cụ thể của DN. Điều mà các bạn cần làm
ngay là làm rõ tính minh bạch của luật và công khai luật trước
công chúng. Tính minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho việc XNK của DN
cũng như giúp Nhà nước bảo đảm được nguồn thu ngân sách” ông Stuart P Seidiel nói.
- Một số quy định của Luật còn chưa thông nhất: điểm c khoản 2
điều 10 của luật quy định thuế suất thông thường là không quá
70% thuế suất ưu đãi, điều này dễ gây hiểu nhầm cho những người
đọc luật rằng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi,
chỉ bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170%. Bộ Tài
chính có thể quy định một mức thuế suất trong khung lớn từ 100%
đến 170% so với thuê suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng, nhưng
lại tỏ ra cứng nhắc khi quy định thuế suất thông thường được áp
dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt
hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo
điểm b khoản 3 điều 92 Thông tư 194/2010/tt-btc. Ngoài ra còn có
sự mâu thuẫn như điều 70 trong Luật hải quan mâu thuẫn với điều


2 & 10 của Luật TXK, TNK.Sự mâu thuận này gây khó khăn trong
việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế.
- Pháp luật chưa có cơ chế nào để kiểm soát việc mang hàng hóa
từ nước ngoài về nước của các phi công, tiếp viên hàng không,
thủy thủ…do vậy, họ ngang nhiên mang hàng “xách tay” về nước,

các hàng hóa này khi được xách tay về nước đã trốn được thuế
nhập khẩu, do vậy gây thất thu không nhỏ cho ngân sách nhà
nước.Gần nhất là vào rạng sáng 22.9.2013, trên chuyến bay
VN106, một tiếp viên phó của VNA bị lực lượng an ninh sân bay Nội
Bài phát hiện mang trái phép 50 chiếc iPhone 5S còn nguyên đai
nguyên kiện, khi bay từ Paris (Pháp) về sân bay quốc tế Nội Bài.
Người vi phạm là Bùi Ngọc Tuấn (sinh năm 1977), được tuyển dụng
vào đoàn tiếp viên VNA từ năm 2005 .
2.2,Đội ngũ cán bộ, công chức hải quan còn yếu về cả số lượng
chất lượng, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, công chức: nhân lực ở các đơn vị hải
quan còn thiếu và yếu. Do yếu tố lịch sử, phần lớn nguồn cán bộ
được biên chế vào ngành trước đây là từ các ngành như công an,
quân đội, thuế...chuyển sang, tuy có nhiệt huyết với nghề nhưng
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó,
do biên chế ít và chính sách đãi ngộ chưa hợp lý nên hải quan địa
phương rất khó thu hút nhân tài, tuyển dụng được các đối tượng có
trình độ cao, giỏi công nghệ thông tin. Điều đó đã tạo nên hiện
tượng thừa người hưởng lương, nhưng thiếu những người giỏi. Đơn
cử tại Cục Hải quan Hà Nội trong 5 năm qua số biên chế chỉ tăng
khỏang 20% so với yêu cầu, trong khi lượng công việc tăng gần
chục lần, tại Cục Hải quan Long An, đơn vị quản lý hải quan tại 3


tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, đây là cửa ngõ giao thương khu
vực miền Tây và một phần của vùng kinh tế trọng điểm miền Đông
Nam Bộ nhưng chỉ có 107 biên chế, lực lượng cán bộ quá mỏng so
với yêu cầu nhiệm vụ nên nhiều bộ phận phải bố trí làm việc kiêm
nhiệm. Thiếu số lượng và không đồng đều về chất lượng cán bộ, cơ
sở vật chất phục vụ làm việc không tăng đang là bất cập hạn chế

hiệu quả hiện đại hóa và cải cách thủ tục hải quan. Tháng 10/2013
VBF đã thực hiện một cuộc khảo sát DN tại Việt Nam để biết tham
nhũng ảnh hưởng thế nào đến họ mỗi ngày và nghe những đề xuất
cải thiện. Những người tham gia xác định 3 lĩnh vực mà Chính phủ
cần ưu tiên chống tham nhũng, xếp đầu tiên là Hải quan với 55,2%
tiếp đó là đến thuế 46,2%. Trên thực tế, thời gian qua có hàng
trăm cán bộ ngành Hải quan đã bị xử lý vì liên quan đến tham
nhũng và hối lộ.
Tháng 6/2013, TAND tỉnh Lào Cai xử các bị cáo Trần Minh Thượng,
sinh năm 1964, nguyên Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu Mường
Khương 20 năm tù và Nguyễn Văn Cường 12 năm tù về tội "nhận
hối lộ" gần 1,5 tỷ đồng của 1 DN, để làm dịch vụ cho một số đơn vị
có hàng tạm nhập tái xuất, qua cửa khẩu Mường Khương cả trong
và ngoài giờ hành chính .
Ngay cả những vụ nhập ụ nổi do 83M do Dương Chí Dũng nguyên
là Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) thực
hiện cũng có những vấn đề của nhân viên Hải quan.
Kết luận của Cơ quan điều tra cho thấy, mặc dù biết rõ ụ nổi 83M
là tàu biển, có tuổi thọ 43 năm, đã cũ nát, hư hỏng nặng, không
hoạt động được, không đủ điều kiện nhập khẩu nhưng một số cán
bộ thuộc Chi cục Hải quan Vân Phong không báo cáo lãnh đạo mà


vẫn làm thủ tục đề nghị cho thông quan, nhập khẩu. Nếu cán bộ
Hải quan thực hiện đúng có thể Vinalines không nhập khẩu được ụ
nổi và không gây thiệt hại hơn 335 tỷ đồng.
Thứ hai, cơ sở vật chất:nhìn chung các đơn vị hải quan cơ sở đã
được đầu tư theo chiều rộng nếu tính đến các số liệu như số máy
tính trên tỷ lệ cán bộ, số lượng phần mềm quản lý, đầu mối đơn vị
kết nối mạng Internet…Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của sự

đầu tư này chưa cao, thậm chí còn dàn trải, gây lãng phí. Qua thực
tế các đơn vị hải quan ở vùng xa, vùng biên giới như Móng Cái
(Quảng Ninh), Cha Lo (Quảng Bình), La Lay (Quảng Trị) và Cầu Treo
( Hà Tĩnh)…chất lượng đường truyền dữ liệu chưa được tốt, công
tác truyền, nhận thông tin nội bộ đến các đơn vị hải quan cửa khẩu
này cũng hay gặp lỗi, thường xuyên trục trặc. Cùng với đó là nhà
làm việc, trang thiết bị ở hải quan cơ sở phần lớn được xây dựng từ
trước, có chỗ, có nơi không phù hợp với trang bị hiện đại
hóa.không thể phủ nhận cơ cở vật chất của ngành hải quan đang
ngày càng được hoàn thiện, nhưng còn nhiều thiếu thốn là yếu tố
trở ngại đến việc đảm bảo thực thi pháp luật.Các doanh nghiệp
cũng như cán bộ hải quan vẫn đang gặp nhiều khó khăn do đường
truyền hải quan điện tử bị nghẽn, việc đưa container qua máy soi,
…công tác bắt hàng lậu trên biển, các đối tượng dùng xuồng có
công suất lớn nên cán bộ hải quan khó tiếp cận được…
2.3, Ý thức của chủ thể nộp thuế nhìn chung còn chưa tốt
Chủ thể nộp thuế nhập khẩu cũng như các chủ thể nộp thuế khác,
rất ít khi họ tự nguyện nộp thuế mà họ dựa vào các quy định của
pháp luật để tìm ra mọi cách để trốn thuế, giảm số thuế phải
nộp.Trong năm 2013, những thủ đoạn đó là một trong những yếu


tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập
khẩu.
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia
tăng, kéo theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất
khẩu, nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian lận về thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình
thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận.
Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt

động xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng trong năm 2013 và
có diễn biến phức tạp với các phương thức, thủ đoạn gian lận thuế
ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất cập
trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt
hàng... Trong đó, phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận,
trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã hàng, xuất xứ, trị giá tính
thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc nợ thuế
để trốn thuế. Cụ thể như sau:
Một là, buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng
hoá cấm, không khai báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn
nghĩa vụ thuế. Thời gian qua, việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ
hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp.Sau khi nhập lậu
vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe
khách, xe tải và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua
qua bán lại giữa các DN.


Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng
về thủ tục hải quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc
cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không
phải nộp thuế.
Điển hình năm 2013, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án đối với
Công ty CP Thực phẩm Sài Gòn, khai xuất khẩu 3.000 thùng thuốc
lá, trị giá hàng hóa 23,6 tỷ đồng, nhưng kết quả hàng hóa qua
kiểm tra thực tế là 20 tấn gạo. Đây là hoạt động buôn lậu, chiếm
đoạt tiền thuế có tổ chức và diễn ra trong thời gian dài.
Hai là, khai sai chủng loại hàng hoá
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

trong khi nguồn lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu
cầu đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi trong thủ tục hải quan, cơ
quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế hàng hóa khi có nghi
vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại, khai báo và
áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất
lớn vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Thực tế thời gian
qua, nhiều chủ hàng đã lợi dụng các vấn đề trên để thực hiện gian
lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số
hàng hóa.Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình
hằng năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân
loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%,
giảm thuế khoảng 7,4%. Các hành vi thường gặp là:
Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập
khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp.Tháng 5/2013, Cục


Hải quan Hải Phòng đã phát hiện Công ty CP Minh Châu khai sai
tên chủng loại, nhãn hiệu mặt hàng xe đạp điện, giá nhập về chỉ
60 USD/chiếc. Cơ quan hải quan đã yêu cầu DN phải điều chỉnh giá
xe đạp điện lên gấp 3 lần (khoảng 150 USD/chiếc) và nộp bổ sung
hơn 2 tỷ đồng tiền thuế .
Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng
hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để
trở thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp
của hàng linh kiện.
Ba là, khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất
xứ hàng hóa nhập khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi
hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ
các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận về

ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ hàng
hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy
chứng nhận xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu
đãi, ưu đãi đặc biệt.
Bốn là, gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá
tính thuế là hành vi rất phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận
thường được các chủ hàng thực hiện dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng
chịu thuế suất cao. Vụ gian lận giá hàng hóa điển hình bị Chi cục


hải quan Cảng Sài Gòn KV 4 (TP. Hồ Chí Minh) phát hiện gần đây là
lô hàng mang nhãn hiệu Pierre Cardin do Công ty TNHH Dịch vụ
Thương mại Hoa Mặt Trời (trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh) NK vào tháng
5/2013. Theo khai báo của DN, hàng hóa gồm váy, quần lót, áo
ngực… có giá nhập về chỉ từ 6.000 - 16.000 đồng/chiếc. Trong khi
đó, các sản phẩm này được bán trong các cửa hàng thời trang,
trung tâm thương mại lớn, như: Vincom, Parkson với giá khoảng
300.000 - 400.000 đồng/chiếc, tức là gấp 25 lần giá kê khai của
DN.
Tương tự, khi làm thủ tục mở tờ khai hải quan, Công ty Tiến Thành
khai báo những đôi giầy da hiệu Valentino có xuất xứ từ Trung
Quốc, giá trị rất bèo, chỉ từ 16.000 - 300.000 đồng/đôi.Thực tế, giá
thị trường của loại giầy này vào khoảng 3 - 5 triệu đồng/đôi, cao
gấp chục lần giá khai báo. Với giá trị lô hàng giầy Valentino là 1,8
tỷ đồng, nếu làm thủ tục trót lọt thì DN đã "né" được khoản tiền
thuế vài trăm triệu đồng.
Thứ hai, chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải
quan để khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt,

tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế, sau đó khai báo thấp
dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã nhập
khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy định
về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị
giá giao dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế
với mức giá thấp hơn so với trị giá giao dịch thực tế. thời điểm cuối
năm 2013 những tín đồ thời trang sẽ không khỏi giật mình khi biết
đôi giày hiệu Valentino trị giá vài triệu đồng lại có giá nhập khẩu
(NK) rất bèo bọt: chỉ từ 16.000 - 300.000 đồng. Bằng chiêu khai


gian giảm giá trị hàng, nhiều doanh nghiệp (DN) NK quần áo, giầy
dép, xe đạp, sắt thép... đã trốn hàng tỷ đồng tiền thuế.
Thứ ba, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để
thăm dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên
tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai
báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, chủ
hàng đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký
kinh doanh.
Thứ tư, do theo chính sách thuế đối với linh kiện hoặc nguyên liệu
nhập khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc nên DN thực hiện việc
“down” giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh
kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Điều này được thực hiện qua
việc chủ hàng thành lập nhiều công ty khác nhau hoặc tiến hành
móc nối với nhiều công ty để mỗi công ty tiến hành nhập khẩu một
bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác
nhau trong nhiều thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của
cơ quan hải quan.
Thứ năm, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá
hoặc không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ

giúp, phí hoa hồng hoặc các khoản thanh toán gián tiếp để làm
giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ sáu, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế
của hàng hóa nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận
ra nước ngoài…


Năm là, giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu
đãi thuế
Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận
thuế thường là các chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế
thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp thức
hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến là
gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự
án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách quản lý đối với
hàng gia công; gian lận thông qua việc lợi dụng hình thức tạm
nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập... Điển hình nhất là vụ buôn lậu
xăng A92 lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất, trị giá ước tính 27
tỷ đồng tại vùng biển Thanh Hoá; hành vi buôn lậu của Công ty
TNHH một thành viên xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco)
dưới hình thức lợi dụng tạm nhập tái xuất xăng dầu qua cửa khẩu
đường bộ để buôn lậu 296,6 tấn xăng A92, trị giá khoảng 8 tỷ
đồng, số thuế DN gian lận ước tính 2,5 tỷ đồng.
Cũng theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500
ôtô nhập vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng
đến nay chỉ có 100 chiếc làm thủ tục xuất và nhập trở lại. Nghĩa là
còn 400 chiếc không làm thủ tục xuất và nhập trở lại mà lưu hành
trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho Nhà nước.
Ngoài ra, nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để
gian lận thuế; lợi dụng chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó

tẩu tán bán hàng và bỏ trốn khỏi trụ sở kinh doanh mà không làm
thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế...
Sáu là, lợi dụng Hải quan điện tử để trốn thuế


Theo Tổng cục Hải quan, trong năm 2013 lợi dụng hình thức khai
báo thủ tục hải quan điện tử, xuất hiện một số doanh nghiệp sử
dụng thủ đoạn tinh vi, giả mạo chứng từ hồ sơ hải quan bao gồm
hợp đồng, giấy phép chuyên ngành, con dấu, chữ ký công chức hải
quan… bằng cách chỉnh sửa (theo hình thức scan) các nội dung
này trong quá trình chuyển đổi chứng từ, từ chứng từ giấy sang
chứng từ điện tử. Có trường hợp doanh nghiệp lấy vận đơn,
invoice, packing list gốc đem photo che phần ghi hàng hóa thực
sau đó dùng thủ đoạn bắn tên hàng không thuế vào và scan lại,
đóng dấu sao y để nộp hồ sơ giấy cho hải quan có nội dung khớp
với phần khai hải quan điện tử .
III, Ý KIÊN PHÁP LÝ NHẰM THỰC THI TỐT PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP
KHẨU
Để đảm bảo cho việc thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu trong
thời gian tới, trên cơ sở những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp
luật thuế nhập khẩu như em đã phân tích ở trên trong năm 2013,
theo em chúng ta cần thực hiện tốt những công việc sau:
1, Hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu
Trên cơ sở những cam kết, hiệp định mà chúng ta đã tham gia, các
nhà làm luật cần xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất,
phù hợp với pháp luật quốc tế và có tính khả thi.
Một là, việc gia nhập WTO và các cam kết của AFTA đang buộc
chúng ta cắt giảm hàng rào thuế quan.Xuất phát từ yêu cầu hội
nhập quốc tế sâu rộng mà thực tế phát triển kinh tế đối ngoại



trước mắt cũng như lâu dài đặt ra, Luật Hải quan hiện hành phải
được sửa đổi để nội luật hóa các điều ước quốc tế về hải quan mà
Việt Nam là thành viên như Công ước Kyoto, Hiệp định GMS, Hiệp
định về việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN, Hiệp định hợp tác
hải quan ASEAN và góp phần cơ sở pháp lý để tham gia đàm phán
các Hiệp định…Việc xây dựng, hoàn thiện quy định, văn bản hướng
dẫn các loại thuế nhập khẩu bổ sụng để điều tiết kinh doanh, bảo
hộ nền kinh tế trong nước như thuế tự vệ, chống bán phá giá,
chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa
là rất cần thiết. Mặc dù đã có quy định nhưng trên thực tế tính khả
thi của chúng là rất thấp.
Hai là, cần thay đổi cách diễn đạt về cách quy định thuế suất thuế
nhập khẩu đã phân tích ở phần trên cho phù hợp và dễ hiểu, nhằm
giúp những người không nghiên cứu sâu về luật có được cách hiểu
đúng nhất khi đọc văn bản luật.Bộ tài chính cần có những quy định
cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất là bao nhiêu nhằm khác
phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo
khung thuế không bị áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường
hợp riêng lẻ.
Ba là, Luật chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật
của chủ thể nộp thuế là tiêu chí xác định thời hạn nộp thuế. Như
vậy vừa phù hợp với Luật Hải quan sửa đổi bổ sung vừa khuyến
khích sự chủ động, tự tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế.
Nếu dựa trên tiêu chí là mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn
nộp thuế vô hình chung đã đánh đồng những người chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật vơi những người không chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, đồng thời tạo những kẽ hở cho những doanh



nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi
trốn thuế.
Bốn là, đơn giản hoá và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu
thuế. Thông qua cải cách các quy trình, thủ tục về kê khai, nộp
thuế và quản lý thuế, đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, công
khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp và cơ quan quản lý
thu thuế.
Năm là, Cân sửa đổi, bổ sung pháp luật nhằm tăng cường quản lý,
đưa ra những biện pháp chế tài phù hợp nhằm ngăn chặn và xử lý
những hành vi vi phạm. Chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan có liên
quan phối hợp tốt hơn trong hoạt động quản lý hải quan, xây dựng
quy chế phối hợp để hoạt động có hiệu quả hơn trong phòng
chống buôn lậu, gian lận thương mại và thu hồi nợ thuế.
2, Nâng cao cả về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hải quan
cũng như nâng cao chất lượng cơ sở vật chất – kỹ thuật
- Để nâng cao chất lượng đội ngũ hải quan trong thời gian tới cần:
Tiếp tục triển khai Kế hoạch cải cách phát triển hiện đại hóa ngành
Hải quan giai đoạn 2011-2015 và Chiến lược phát triển Hải quan
đến năm 2020. Thực hiện tốt công tác tham mưu cho Bộ Tài chính,
Tổng cục Hải quan; Phấn đấu không để chậm, tồn đọng công việc;
Nâng cao chất lượng đề xuất, tham gia xây dựng văn bản; Cố gắng
hoàn thành 100% các đề án, chương trình công tác đã đăng ký. Rà
soát, hoàn thiện tổ chức bộ máy, chuẩn bị nguồn nhân lực sẵn
sàng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hải quan, thực thiện Dự án
VNACCS/VCIS và triển khai Luật Hải quan sửa đổi. Không ngừng
trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ và kỹ


×