Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.75 KB, 10 trang )

Nguyên Tắc Tổ Chức Và Hoạt Động Của Bộ Máy Nhà Nước Phong
Kiến Việt Nam
1. Nguyên tắc liên kết dòng họ
1.1. Cơ sở của nguyên tắc
Xuất phát từ đặc điểm của chế độ phong kiến nói chung, hoàng tộc
luôn là hậu thuẫn chính trị của vương triều. Ngay từ thời Ngô,
Đinh, Tiền Lê tầng lớp quý tộc đã đóng vai trò rất quan trọng trong
tổ chức bộ máy nhà nước. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc “liên kết dòng họ” nhằm củng cố sự vững
chắc của vương triều, chế độ quân chủ chuyên chế, phát huy trí
tuệ, sức mạnh của cả hoàng tộc và triều đình, câu kết với hoàng
tộc thành khối chặt chẽ làm bệ đỡ chính trị cho quyền lực của nhà
vua, bảo vệ ngôi vua được vững chắc.

1.2. Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc này đó là tăng cường việc hoàng thân
quốc thích được trao cho nhiều tước vị, bổng lộc và nắm giữ quyền
lực, từ đó tạo cơ sở vững chắc cho việc giữ vững vương quyền cho
dòng họ nhất định. Quyền lực của vua không phải là tuyệt đối mà
bị hạn chế bởi tầng lớp quý tộc – quan lại và hoàng thân quốc
thích; đồng thời khuyến khích hôn nhân nội tộc để củng cố sự vững
chắc của vương triều, nhằm bảo vệ ngôi vua được vững bền, ngăn
ngừa để lọt ngôi vua vào tay dòng họ khác.
1.3. Biểu hiện của nguyên tắc


Nguyên tắc “liên kết dòng họ” trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là dưới thời Lý –
Trần.
Nhà vua dưới thời Lý – Trần bị hạn chế rất nhiều quyền lực, thể
hiện rõ nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ này.


Thời Lý, đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức
đứng đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo
(tam thái). Dưới đó là chức thái úy, nắm giữ việc chính trị, quân sự
trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng . Tiếp đến là các
chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm
quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm hiệu bình
chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà
vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ
quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài,
Hành khiển thượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học
sĩ.
Thời Trần, trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là tam thái chỉ
có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá
thánh, phụ quốc để gia phong thêm (như thống quốc thái sư, tá
thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng quốc)
đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể
tướng (tướng quốc) thời Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm
trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chức
thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu.
Dưới các chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn
và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một viên thượng thư.


Bên võ có các chức vụ phiêu kỵ tướng quân, đại tướng, đô tướng,
tướng quân, lúc có chiến tranh, đặt thêm chức tiết chế tổng chỉ
huy toàn quân.
Như vậy, có thể nhận thấy trong bộ máy nhà nước thời Lý – Trần
tồn tại một chức vụ nắm giữ quyền Hành pháp rất lớn là Tể tướng.
Điều này có nghĩa rằng, nhà vua thực tế đã bị chia sẻ một phần
quyền năng Hành pháp của mình cho Tể tướng. Hơn nữa, vua cũng

không trực tiếp điều động quân đội mà việc này nằm trong quyền
hành của thiếu úy. Vua cũng không trực tiếp quản lý Lục Bộ mà
phải thông qua Trung thư sảnh cũng như Tể tướng. Như vậy, trên
thực tế, trong quản lý bộ máy nhà nước, nhà vua thời Lý – Trần đã
bị hạn chế một phần quyền lực của mình do sự phân tán quyền lực
vào tay các quan lại quý tộc trong thời kỳ này.
Thời Lý và cả thời Trần sau này, quan lại được lựa chọn theo
nguyên tắc: “Người có quan tước, con cháu được thừa ấm mới
được làm quan. Người giàu, khỏe mạnh mà không có quan tước thì
sung quân, đời đời làm lính”. Phương châm “tông tử duy thành”
(dùng con cháu tông thất làm thành lũy) mang đặc trưng của nhà
nước quân chủ quý tộc thời kỳ này được thể hiện rõ nét qua cách
tuyển dụng quan lại. Có những cách tuyển dụng quan lại chủ yếu
thời kỳ này là Nhiệm tử, Tiến cử, Bảo cử, Khoa cử.
Trong đó, nhiệm tử (tập ấm) được sử dụng rộng rãi hơn cả. Nhiệm
tử là định lệ của Triều đình dựa vào ân trạch của cha ông mà được
bổ vào một chức quan nào đó. Theo tinh thần “trọng thị công
thần”, khi một nhân thân, nhờ tiêu chí “thân huân” được tuyển
dụng vào cương vị quan chức cao, thì con cháu người đó, nhờ được


tín nhiệm về mặt lý lịch, cũng được “tập ấm”, được phong “ấm
tước” mà trở thành quan chức.
Trong khi đó, khoa cử chưa phổ biển trong thời Lý – Trần. Ta có thể
thấy rằng tủ rằng từ năm 1075, Nhà Lý đã bắt đầu mở khoa thi để
tuyển chọn nhân tài nhưng trải qua 216 năm triều Lý, sử sách ghi
chép chỉ có 9 khoa thi được tổ chức, trong đó có các khoa thi
không ghi đầy đủ tên người đỗ. Các khoa thi không đều đặn theo
định kỳ và các kỳ thi cũng chưa có cách thức nhất định. Trong 175
năm tồn tại, nhà Trần cũng chỉ tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính

thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ.
Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Lý Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng
lớp quý tộc tông thất nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức
vụ chủ chốt trong triều đình đều do các người họ hàng thân cận
với nhà vua nắm giữ.
Lý Công Uẩn lên ngôi xưng Hoàng đế phong Thái tử Lý Phật Mã là
Khai Thiên Vương... năm Đinh Dậu (1237), Trần Thái Tông phong
cho anh là Trần Liễu là Yên Sinh Vương. Sau này, đến thời Trần, để
đề phòng nạn ngoại thích, nhà Trần đã thực hiện chế độ hôn nhân
đồng tộc. Nhiều nhà vua và vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy
người trong họ hàng, đôi khi khá gần gũi (như Trần Thái Tông lấy
chị dâu, Trần Thủ Độ lấy chị họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Trần
Thánh Tông thường căn dặn: “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông,
người nối giữ cơ nghiệp tổ tông nên cùng anh em trong tông thất
chung hưởng phú quý… Anh em là xương thịt rất thân, gặp lúc lo
thì cùng lo, gặp lúc vui thì cũng vui...”.


Ngoài ra, dưới thời Lý – Trần, các quý tộc phong kiến ngoài việc
được phong tước vị cao, còn được hưởng bổng lộc và ban cho đất
đai. Nếu như thời Lý trong buổi đầu có Khai Quốc vương Bồ trấn trị
phủ Trường Yên, Uy Minh hầu Nhật Quang giữ Nghệ An, Lý Thường
Kiệt giữ Thanh Hóa,…
Ngoài việc làm trên, nhà nước Trần còn tiến thêm một bước, cho
vương hầu quý tộc được hưởng thái ấp, có phủ đệ ở các địa
phương trọng yếu, chỉ về kinh đô dự triều hội. Như: Yên Sinh Vương
Trần Liễu ở Đông Triều, Yên Hưng (Quảng Ninh); Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Chí Linh - Hải Hưng); Trần Thủ Độ ở
Quắc Hương (Tức Mạc - Nam Hà); Trần Quốc Chẩn ở Chí Linh (Hải
Hưng); Trần Quang Khải ở xã Cao Đài (huyện Mỹ Lộc - Nam Hà);

Trần Khát Chân ở Cổ Mai (huyện Thanh Trì - Hà Nội); Trần Khánh Dư
ở Dưỡng Hòa (huyện Duy Tiên - Nam Hà );…
2. Nguyên tắc tôn quân quyền
2.1. Cơ sở hình thành nguyên tắc
Có một số bằng chứng cho rằng Nho giáo đã được truyền vào thế
kỷ 1 TCN khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn
phong kiến họ Triệu giành lấy quyền thống trị và cho lập 3 quận tại
Bắc Bộ. Tuy tầm ảnh hưởng còn rất hạn chế, song Nho giáo là công
cụ thống trị của chính quyền đô hộ. Đến thế kỷ 9 sau chiến thắng
Bạch Đằng của Ngô Quyền thì nước ta bước sang kỷ nguyên độc
lập, tự chủ, bắt tay vào xây dựng đất nước trong khuôn khổ nhà
nước phong kiến tập quyền, đạo Nho bắt đầu có ảnh hưởng lớn.
Các triều đại phong kiến Việt Nam dựa vào hệ tư tưởng Nho giáo
để thiết lập bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tôn quân quyền,


đặc biệt là trong các giai đoạn về sau thời Lê – Nguyễn, khi mà
Nho giáo càng chiếm vị trí lớn trong hệ tư tưởng phong kiến, trở
thành tư tưởng hình thành nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước.
2.2. Nội dung nguyên tắc
Nguyên tắc “tôn quân quyền” tức là quyền lực nhà vua được đưa
lên vị trí độc tôn, theo đó vua nắm tất cả các quyền hành. Tất cả
mọi người phải phục tùng theo nhà vua, vua là “thiên tử”, ý vua là
ý trời, vua nắm quyền cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Người đứng đầu nhà nước không chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai,
nắm giữ địa vị độc tôn trong các mối quan hệ. Tôn quân quyền là
đưa quyền cho bậc quân vương, cũng là tôn trọng tối đa vương
quyền đó, quyền lực nhà vua nắm địa vị độc tôn. Vua là người nắm
trọn vương quyền: là người duy nhất có quyền đặt ra luật pháp.
Các chiếu chỉ của vua có giá trị pháp lý tối cao, các bộ luật được

biên soạn trên cơ sở ý chí của vua. Vua đứng đầu nhà nước, điều
hành hoạt động của bộ máy hành pháp từ trung ương đến địa
phương, có quyền bổ nhiệm, khen thưởng hoặc trừng phạt các
quan lại. Vua cũng là quan toà tối cao, có quyền quyết định trong
các vụ xét xử và là người duy nhất có quyền ân xá cho phạm nhân.
Không chỉ nắm vương quyền các nhà vua còn nắm giữ thần quyền:
vua ban danh hiệu quốc sư, ban sắc phong cho các thần linh. Chỉ
có vua mới có quyền tế trời, thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên và
thần thánh. Ngoài ra, quyền lực của vua còn chi phối đến nhiều
lĩnh vực cụ thể khác ví dụ như về kinh tế vua là người sở hữu tối
cao với ruộng đất công của các làng xã. Hơn nữa vua còn được
hưởng nhiều đặc quyền khác.


Dưới vua có bộ máy quan lại giúp việc cho vua cai quản với chức
năng chính là chức năng tư vấn; chức năng phụ tá và thực thi
quyền lực của vua.
2.3. Biểu hiện của nguyên tắc
Trải qua các triều đại, tính chất quân chủ ngày càng được tăng
cường, đến thời Lê Sơ, Nguyễn được thể hiện rõ nét nhất. Nguyên
tắc tôn quân quyền được thể hiện trong cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước quân chủ chuyên chế từ thời Lê Thánh Tông tới triều
Nguyễn mà đỉnh cao là hai cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông
và vua Minh Mạng.
Mô hình nhà nước thời Lê Thánh Tông đã trở thành mẫu mực cho
những đời vua sau và các triều đại sau mô phỏng theo. nhằm tập
trung quyền lực tuyệt đối vào tay nhà vua theo nguyên tắc tôn
quân quyền của nho giáo và tăng cường hiệu lực của bộ máy quan
liêu, tăng cường hiệu quả quyền lực của hoàng đế. Lê Thánh Tông
đã thực hiện cải tổ bằng việc loại bỏ bớt một số chức quan, cơ

quan ở trung ương, thành lập các cơ quan giám sát, không tập
trung quyền hành vào một cơ quan tránh cho việc lạm quyền, tiếm
quyền. Theo đó, vua là người đứng đầu, các quan lại, cơ quan chỉ
là cơ quan giúp việc cho vua. Ông bãi bỏ các chức quan và cơ
quan trung gian giữa vua và các bộ phận thừa hành như thượng
thư sảnh, trung thư sảnh….Lê Thánh Tông đã bãi bỏ chức tể tướng,
trước đây tể tướng là người dưới một người trên muôn người, rất
nhiều quyền hành, nay vua tự mình đứng ra điều khiển các quan,
không thông qua tể tướng. Tương tự chức đại hành khiển đứng đầu
quan văn cũng bị bãi bỏ. Ngoài ra Lê Thánh Tông còn bãi bỏ tam
tư, chỉ còn lại tam thái, tam thiếu. Công thần dưới triều này không


kiêm nhiệm các trọng trách lớn mà chỉ là những công thần không
có thực quyền được hưởng phẩm cao, bổng hậu. Tiếp đó, Lê thánh
tông lại tách sáu Bộ ra khỏi thượng thư sảnh, thành lập sáu cơ
quan riêng, chịu trách nhiệm trực tiếp từ vua. Đặt thêm các chức
danh, cơ quan giám sát. Ở địa phương chia cả nước thành 12 đạo
thừa tuyên, thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện,
châu, xã. Ông trực tiếp điều hành ở mức tối cao nhiều công việc
của triều đình. Ở mỗi xã đặt ra các chức xã trưởng, do dân bầu
nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan cấp trên. Đồng thời cho
phép làng xã lập hương ước nhưng phải qua sự kiểm duyệt của cơ
quan nhà nước, cấp trên. Trong quân sự, vua bỏ quyền của thái úy
trực tiếp điều khiển quân đội. Thái úy hiện nay chỉ còn giữ việc
tuyển quân, luyện quân; quyền lực thực tế thuộc về nhà vua.
Cũng noi gương Lê Thánh Tông, cuộc cải cách của Minh Mạng thời
Nguyễn, Nho giáo được đề cao đến mức cực đoan, đã bộc lộ nhiều
hạn chế, thậm chí cản trở sự phát triển đất nước.
Việc áp dụng nguyên tắc “liên kết dòng họ” đã tạo nên sự hòa hợp

giữa nhà vua và hoàng tộc, hoàng tộc với nhân dân... tạo nên tính
cộng đồng lơn, tạo ra sức mạnh đoàn kết bảo vệ lãnh thổ nước ta
trước thế lực phương Bắc. Từ đó ta thấy rằng mô hình nhà nước
phong kiến Việt Nam có những điểm đặc trưng riêng biệt so với
các nhà nước khác ở phương Đông cũng như trên thế giới.
Tuy nhiên, nguyên tắc này tiềm ẩn trong lòng mô hình nhà nước
nguy cơ phân quyền, tiếm quyền cát cứ giữa các quý tộc, khi mà
các vương hầu quý tộc được phong vương ban cấp ruộng đất có
tiềm lực lớn mạnh về kinh tế - chính trị, quân sự thì sẽ không
thuần phục nhà vưa nữa. Lúc này sẽ xuất hiện sự tranh giành


quyền lực lẫn nhau. Hơn nữa, với đội ngũ quan lại chủ yếu là
hoàng thân quốc thích sẽ không tạo ra được hệ thống quan lại có
tài, có đức, từ đó sẽ làm cho đất nước dần lâm vào tình trạng suy
thoái.
Việc áp dụng nguyên tắc “liên kết dòng họ” đã tạo nên sự hòa hợp
giữa nhà vua và hoàng tộc, hoàng tộc với nhân dân... tạo nên tính
cộng đồng lơn, tạo ra sức mạnh đoàn kết bảo vệ lãnh thổ nước ta
trước thế lực phương Bắc. Từ đó ta thấy rằng mô hình nhà nước
phong kiến Việt Nam có những điểm đặc trưng riêng biệt so với
các nhà nước khác ở phương Đông cũng như trên thế giới.
Tuy nhiên, nguyên tắc này tiềm ẩn trong lòng mô hình nhà nước
nguy cơ phân quyền, tiếm quyền cát cứ giữa các quý tộc, khi mà
các vương hầu quý tộc được phong vương ban cấp ruộng đất có
tiềm lực lớn mạnh về kinh tế - chính trị, quân sự thì sẽ không
thuần phục nhà vưa nữa. Lúc này sẽ xuất hiện sự tranh giành
quyền lực lẫn nhau. Hơn nữa, với đội ngũ quan lại chủ yếu là
hoàng thân quốc thích sẽ không tạo ra được hệ thống quan lại có
tài, có đức, từ đó sẽ làm cho đất nước dần lâm vào tình trạng suy

thoái.
Về nguyên tắc tôn quân quyền: Nguyên tắc này đã giúp tổ chức bộ
máy từ trung ương đến địa phương dần hoàn thiện, phân chia
nhiệm vụ rõ ràng, các quan lại, bộ máy nhà nước chỉ là bộ phận
giúp việc cho vua, thừa hành mệnh lệnh của vua, do đó tránh được
sự tiếm quyền của các cơ quan đó.
Tuy nhiên, do quyền lực của vua bao trùm bộ máy nhà nước nên sự
hưng thịnh hay suy vong của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào


phẩm chất, năng lực của họ. Thực tế lịch sử chứng minh rằng
không phải vị vua nào cũng có đủ “tài” và “đức” để duy trì cơ cấu
tổ chức nhà nước theo cách thức này. Khi Lê Thánh Tông qua đời,
mô hình cai trị của ông không được phát huy, thậm chí bộc lộ
nhiều bất cập: bộ máy cồng kềnh, quan liêu nặng nề, luật pháp
không được tuân thủ nghiêm túc, quá trình tư hữu hoá phát triển
mạnh. Có thể thấy vận dung tư tưởng “tôn quân quyền” tức là đã
mang vận mệnh của cả dân tộc đặt cược trong tay một con người.
Khi quyền lực tập trung quá nhiều vào tay vua, không thể tránh
khỏi sự lạm quyền, lộng quyền, chuyên chế quá mức của nhà vua.



×