Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Tăng cường giáo dục kỹ năng mềm cho cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2016 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.14 KB, 52 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

PHẠM VĂN TIẾN

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM
CHO CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC HỌC SINH,
SINH VIÊN TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2016-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM
CHO CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC HỌC SINH,
SINH VIÊN TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2016-2020

Người thực hiện: Phạm Văn Tiến
Lớp: Cao cấp LLCT Liên Bộ Y tế - Khoa học và
Công nghệ Lao động Thương binh và Xã
hội
Chức vụ: Phó vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh, sinh
viên
Đơn vị công tác: Tổng Cục dạy nghề - Bộ Lao động




LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ths Đặng Thị Tố Tâm - Phó Tổng biên
tập Tạp chí Giáo dục lý luận - Học viện Chính trị Khu vực I - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn Đề
án này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể thầy giáo, cô
giáo các khoa chuyên môn thuộc Học viện chính trị Khu vực I - Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cô giáo chủ nhiệm Nguyễn
Phương Nam, Lãnh đạo Tổng cục Dạy nghề, đã giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện tốt nhất để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành Đề án này.
Tuy đã rất nỗ lực và cố gắng, song đề án không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, kính mong nhận được những ý kiến đóng
góp của Hội đồng bảo vệ đề án Cao cấp lý luận chính trị và bạn đọc
để đề án được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả đề án

Phạm Văn Tiến


MỤC LỤC


7

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết xây dựng đề án

Cách đây hơn 200 năm, đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn
hóa thế giới, đã viết: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Năm 1996,
Chủ tịch Ủy ban UNESCO về Giáo dục cho thế kỷ XXI, Jacques
Delors, đã công bố bản báo cáo “Học tập: Một tài sản tiềm ẩn”, trong
đó khẳng định bốn trụ cột của giáo dục là: Học để biết; Học để làm;
Học để tồn tại và Học để chung sống. Hầu hết các trường học nước ta
hiện nay đều đề cao khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, học sống
làm người trước rồi mới học chữ để hành nghề. Chưa bao giờ vấn đề
giáo dục, trong đó có giáo dục kỹ năng sống lại trở nên cấp thiết như
hiện nay.
Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa
vào kỹ năng, năng lực của con người được đánh giá trên cả 3 khía
cạnh: kiến thức; kỹ năng và thái độ. Trong đó kiến thức chiếm 4%, kỹ
năng 26%, thái độ chiếm 70%. Chúng ta bước vào thế kỷ 21 đã 16
năm, thế mà chương trình đào tạo và việc đánh giá năng lực của học
sinh, sinh viên vẫn dựa chủ yếu vào kiến thức. Trong giáo dục nghề
nghiệp đã quan tâm đến đánh giá kỹ năng nghề nghiệp nhưng trong
tình trạng phần lớn trang thiết bị hình thành kỹ năng còn nghèo và lạc
hậu chưa tiếp cận được khoa học và công nghệ hiện đại.
Lâu nay chúng ta chỉ nghĩ đến xuất khẩu lao động, nhưng một
thực tế mới đang thách thức người lao động Việt Nam là chúng ta đã
gia nhập WTO, gia nhập TPP và AEC, người nước ngoài đang đến
làm việc tại Việt Nam ngày càng nhiều. Chúng ta có thể bị thất nghiệp


8

trong khi phải thuê lao động nước ngoài cao hơn rất nhiều so với lao
động trong nước ngay trên sân nhà.
Trong những thập niên vừa qua, nền kinh tế nước ta thực hiện

theo cơ chế thị trường đã cho thấy phần lớn học sinh, sinh viên khi tốt
nghiệp ra trường, tỉ lệ có việc làm rất thấp, trong khi lao động có kỹ
thuật cao vừa thiếu vừa yếu đang là một thách thức đối với đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước . Theo quan điểm của
UNESCO về Giáo dục cho thế kỷ XXI thì “học để tồn tại và học để
chung sống” là 2/4 trụ cột của giáo dục chưa được quan tâm đúng
mức và đã trở thành rào cản trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực trạng giáo dục Việt
Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, trong đó bất cập lớn nhất là
chất lượng đào tạo chưa cao. Các nguyên nhân chính tập trung vào
sự yếu kém, bất hợp lý trong phương pháp giảng dạy, đội ngũ giáo
viên, giảng viên, chương trình đào tạo, tài liệu, trang thiết bị học tập,
giáo trình chưa kịp đổi mới tiếp cận với khoa học và công nghệ hiện
đại,...
Một phương pháp giảng dạy hiện đại, khoa học, phù hợp là tiền
đề giúp giảng viên và người học phát huy hết khả năng của mình
trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Một
phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò của người
giảng dạy, đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê, chủ động sáng tạo
từ phía người học.
Ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, kiến thức kỹ năng mềm
chưa phải là kiến thức được đào tạo chính khóa, mà chỉ được thực
hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa trong thời gian các em học
tập tại nhà trường. Chính vì vậy chưa có biên chế giáo viên giảng dạy


9

kỹ năng mềm cho học sinh, sinh viên mà thực hiện nhiệm vụ này là
cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên; giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy,

đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mềm cho cán bộ làm công tác học sinh,
sinh viên hiện nay là nhu cầu bức thiết.
Kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có
liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái
độ và hành vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với
người, kỹ năng mềm là những kỹ năng có liên quan đến việc hòa mình
vào, sống với hay tương tác với xã hội, cộng đồng, tập thể hoặc tổ
chức như: Kỹ năng giao tiếp; Kỹ năng làm việc nhóm; Kỹ năng lãnh
đạo người khác; Kỹ năng nói chuyện trước đám đông; Kỹ năng giải
quyết xung đột và hòa giải; Kỹ năng thấu hiểu và thông cảm với người
khác; Kỹ năng thương lượng; Kỹ năng Quyết định; Kỹ năng xây dựng
đội ngũ Kỹ năng tạo ảnh hưởng; Kỹ năng lắng nghe; Kỹ năng từ chối
một cách khéo léo…v.v…
Kỹ năng sống và kỹ năng mềm không phải là hai phạm trù khác
nhau, và càng không phải là hai phạm trù giống nhau, mà kỹ năng
mềm chính là một phần của kỹ năng sống, hay kỹ năng sống bao gồm
kỹ năng mềm và một số kỹ năng khác.
Kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng mềm nói trên, cộng thêm
những kỹ năng giúp chúng ta phản ứng hiệu quả trước những thách
thức của cuộc sống, và từ đó vươn lên mạnh mẽ để thành công hơn,
như là: Lòng tự trọng; Sự tự tin; Kỹ năng tự tạo động lực hay tự động
viên bản thân; Kỹ năng tự nhận thức giá trị của bản thân; Kỹ năng
nhận thức điểm mạnh và điểm yếu của mình; Kỹ năng đặt mục tiêu
cho mình trong cuộc sống; Kỹ năng làm chủ và tự đánh giá bản thân;
Kỹ năng suy nghĩ tích cực;…


10

Những năm gần đây Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ

chức đào tạo, bồi dưỡng thí điểm kỹ năng mềm cho cán bộ làm công
tác học sinh, sinh viên, với mong muốn đào tạo được đội ngũ cán bộ,
giáo viên nòng cốt có đủ năng lực, kiến thức, kinh nghiệm trong quản
lý, giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp trên cả nước.
Với các lý do trên, Tôi lựa chọn đề án “Tăng cường giáo dục
kỹ năng mềm cho cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên trong
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2016 - 2020” làm đề án
tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Trong bối cảnh hiện nay để có được đội ngũ lao động chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và khắc phục những tồn
tại của hệ thống giáo dục quốc dân, thì đào tạo, bồi dưỡng được một
đội ngũ cán bộ, giáo viên hạt nhân làm công tác học sinh, sinh viên có
kiến thức và phương pháp truyền đạt, giảng dạy tiên tiến hiện đại,
những nội dung về kỹ năng mềm một cách đơn giản, dễ hiểu, phù hợp
với các hoạt động trong nhà trường có hiệu quả thiết thực đối với học
sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là rất cần thiết và
có tính cấp bách trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Từng bước hoàn thiện chương trình, xây dựng giáo trình đào
tạo bồi dưỡng kỹ năng mềm hướng tới trình cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt để đưa vào nội dung đào tạo chính khóa trong các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp.


11

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Năm 2015 và năm 2016 xây dựng và hoàn thiện chương trình

và tài liệu đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác học sinh, sinh
viên.
- Năm 2016 đến năm 2020, đào tạo, bồi dưỡng nhân rộng kỹ
năng mềm cho tất cả cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên trong
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cả nước.
- Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Đề án, hoàn thiện chương
trình, tài liệu giảng dạy và học tập trình cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt để ban hành.
- Tổng kết rút kinh nghiệm để tiến hành tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng chuyên sâu rộng khắp trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
3. Giới hạn của đề án
Đề án tập trung nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện chương
trình, giáo trình và tài liệu, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mềm cho cán
bộ làm công tác học sinh, sinh viên tại các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp trên toàn quốc.
Đề án cũng tập trung nghiên cứu 07 kỹ năng cơ bản, phù hợp
với kiến thức kỹ năng cần trang bị cho đội ngũ lao động có kỹ thuật
trong tình hình mới, bao gồm: Kỹ năng giảng dạy tích cực; kỹ năng tổ
chức công việc và quản lý thời gian hiệu quả; Kỹ năng giao tiếp; kỹ
năng giải quyết vấn đề; kỹ năng làm việc đồng đội; Kỹ năng làm việc
hiệu quả trong mội trường áp lực; Kỹ năng học tập hiệu quả.


12

B. NỘI DUNG
1. Căn cứ xây dựng đề án
Căn cứ thực tiễn: Trong xã hội hiện đại, Kỹ năng mềm ngày
càng được đánh giá cao. Rất nhiều nhà tuyển dụng xem trọng những
kỹ năng thiên về tính cách này và xem đây là một trong những yêu

cầu tuyển dụng quan trọng.
Ngày nay trình độ học vấn và các bằng cấp chưa đủ để quyết
định trong việc tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp và người
sử dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố cá nhân như kỹ năng, sự
nhạy bén trong xử lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động,
các yếu tố này được người ta gọi là “Kỹ năng mềm”, kỹ năng mềm (Trí
tuệ cảm xúc) là hành vi ứng xử của mỗi con người, cách thức tương
tác với bạn bè, đồng nghiệp, cách làm việc nhóm. Kỹ năng này thể
hiện cách sống, cách tích lũy kinh nghiệm từ cuộc sống và trong xã
hội hiện đại, đây được xem là chìa khóa vàng dẫn đến thành công.
Kỹ năng mềm không chỉ cần thiết cho cuộc sống mà còn là tiêu
chí mà các nhà tuyển dụng rất quan tâm bởi chúng ảnh hưởng lớn
đến việc người lao động có hoà nhập được với môi trường làm việc và
đạt hiệu suất công việc cao hay không. Xây dựng một xã hội làm việc
và hơn thế là làm việc chuyên nghiệp. Cần nhận thức rằng không chỉ
người lao động cần mà từ các giám đốc điều hành, nhà quản lý…
cũng rất cần rèn luyện và nâng cao kỹ năng cho bản thân, đặc biệt với
đội ngũ lao động tương lai như học sinh, sinh viên càng cần thiết
được đào tạo bồi dưỡng để tạo thành thói quen ngay khi còn trẻ. Tuy
nhiên, ngay từ trên giảng đường đại học, không phải sinh viên nào
cũng được trang bị tốt các kỹ năng thiết yếu này.


13

Ở Việt Nam, các kỹ năng mềm chưa được đưa vào chương
trình học chính khóa trong hệ thống giáo dục. Có rất nhiều giả định
“người ta biết thì người ta sẽ làm được”. Thực tế, từ biết đến hiểu là
một khoảng cách rất xa, và từ hiểu đến làm việc chuyên nghiệp với
năng suất cao là một khoảng cách còn xa hơn nữa. Và kỹ năng mềm

mãi là quá trình học tập và rèn luyện không bao giờ đủ cho tất cả
những ai mang khát vọng thành công.
Hiện tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên toàn quốc chưa
được biên chế giáo viên, giảng viên giảng dạy kỹ năng mềm mà do
đội ngũ cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên đảm nhiệm thông qua
các hoạt động ngoại khóa. Chính vì vậy đội ngũ này đang còn thiếu và
yếu.
Căn cứ pháp lý: Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác
định việc đầu tư cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu tư cho sự phát
triển bền vững, là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng cao nhằm
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy,
công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đội ngũ trí thức giữ một vị trí rất quan trọng. Đây chính là yếu tố then
chốt, mang tính quyết định đưa đất nước đi lên như cha ông ta đã
từng nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước
mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy’’.
Nghị quyết số 29/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo nước ta đã thể hiện quy luật: muốn đổi mới phải căn bản,
toàn diện, khởi đầu cho con đường đi đến kết quả mới của giáo dục
và đào tạo nước nhà, ngành giáo dục và toàn dân phải thực sự khởi


14

sắc và có sự dịch chuyển mạnh mẽ ở tất cả cấp, bậc học, từ mầm
non, tiểu học, trung học, giáo dục nghề nghiệp đến đại học, sau đại
học.
Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 6/6/2014 của Ban Bí thư về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay
nghề cao đã xác định cụ thể: “Tăng cường giáo dục tác phong làm
việc chuyên nghiệp, phẩm chất đạo đức để hình thành năng lực nghề
nghiệp, nhân cách cho người học” (Mục 3).
1.1. Cơ sở lý luận
Thế giới hiện nay thay đổi chóng mặt, nhiều thứ hôm qua thịnh
hành thì hôm nay đã lỗi thời. Walt Disney cứ 5 phút công bố một sản
phẩm mới, thông tin thế giới tăng gấp đôi trong khoảng 18 tháng,
SONY mỗi giờ xuất xưởng 3 sản phẩm mới, lưu lượng thông tin di
chuyển trên internet tăng 30%/tháng, tăng gấp đôi sau 100 ngày…
Chúng ta đã gia nhập WTO, gia nhập TPP và AEC, nếu không đổi mới
ta sẽ bị thua ngay trên sân nhà.
Kỹ năng mềm không những giúp người lao động nâng cao năng
suất, hiệu quả công việc mà còn rất bổ ích đối với họ trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, trong gia đình, ngoài xã hội, tại doanh nghiệp, tại
công sở. Kỹ năng mềm nâng cao đáng kể chất lượng cuộc sống và
văn hóa xã hội, góp phần thay đổi diện mạo con người Việt Nam.
Đào tạo được một đội ngũ cán bộ hạt nhân có khả năng, năng
lực giảng dạy hiệu quả, biết cách truyền đạt đến học sinh, sinh viên
những nội dung về các kỹ năng mềm một cách đơn giản, dễ hiểu và
hiệu quả thì sẽ đào tạo được thế hệ học sinh, sinh viên học tại cơ sở
giáo dục nghề nghiệp phát triển toàn diện, hòa nhập nhanh và thành
công trong hội nhập kinh tế quốc tế.


15

1.2. Cơ sở chính trị
Cùng với chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng mềm có vai trò rất
quan trọng đối với sinh viên trong công việc và cuộc sống. Kỹ năng

mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng trong cuộc sống như: kỹ
năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm
việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ
năng lập kế hoạch tổ chức công viêc, kỹ năng tổ chức sự kiện, kỹ
năng tìm kiếm việc làm,…
Có thể khẳng định, sinh viên được trang bị tốt các kỹ năng trên
sẽ tạo mối quan hệ vững chắc hơn cũng như có khả năng trở thành
người quản lý và tạo động lực nhanh hơn trong công việc. Bởi họ có
những phẩm chất mà kỹ năng mềm trang bị như: Có ý chí chiến
thắng, có quan điểm lạc quan; Có tinh thần đồng đội, hòa đồng với tập
thể; Giao tiếp hiệu quả; tự tin; Mài dũa kỹ năng sáng tạo; Chấp nhận
và học hỏi từ những lời phê bình; Thúc đẩy bản thân và dẫn dắt người
khác; Đa nhiệm vụ và xác định trước những việc cần làm; Có cái nhìn
tổng quan,…
Có thể đánh giá vai trò và lợi ích của kỹ năng mềm qua một số nội
dung:
Thứ nhất, kỹ năng mềm tạo cho học sinh, sinh viên có ý chí và
tinh thần lạc quan.
Tinh thần lạc quan làm cho học sinh, sinh viên có thái độ tích
cực trong mọi tình huống, đó là điều quan trọng để các em giải quyết
tốt vấn đề gặp phải. Để có tinh thần lạc quan, các em cần chủ động,
có những kiến thức và kỹ năng mềm cơ bản trong giao tiếp và ứng xử
trước người khác.


16

Thứ hai, kỹ năng mềm tạo cho học sinh, sinh viên có tinh thần
đồng đội và hòa đồng với tập thể.
Các nhà tuyển dụng rất quan tâm tới những nhân viên thể hiện

được khả năng làm việc tốt trong tập thể. Hòa đồng với tập thể không
chỉ có nghĩa là có tính cộng tác mà còn thể hiện được khả năng lãnh
đạo tốt khi có thời điểm thích hợp.
Thứ ba, kỹ năng mềm giúp cho học sinh, sinh viên giao tiếp
hiệu quả.
Trong xã hội, quan hệ giữa con người với con người thông qua
nhiều hình thức trong đó có quan hệ giao tiếp. Các kỹ năng giao tiếp
ứng xử sẽ giúp cho chúng ta thể hiện đầy đủ nội dung và mục đích
giao tiếp của mình với người nghe, từ đó họ dễ tiếp nhận các nội dung
một cách thống nhất.
Thứ tư, kỹ năng mềm giúp cho học sinh, sinh viên tự tin hơn
trước đám đông, sự tự tin luôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc
sống, nó có thể mang lại những thành công cho mỗi chúng ta. Để có
được sự tự tin trước những người khác, ngoài chuyên môn vững chắc
các em cần có những kỹ năng sống nhất định, khi được trang bị kỹ
năng mềm nó sẽ đem lại cho các em những điều cần thiết ấy.
Thứ năm, Kỹ năng mềm giúp cho học sinh, sinh viên phát triển
tốt khả năng tìm kiếm xin việc làm, khi tham gia đàm phán và phỏng
vấn xin việc, kỹ năng mềm sẽ được nhà tuyển dụng để tâm vì những
ứng viên sẽ không thể hiện được ý tưởng nếu họ không trình bày để
thuyết phục nhà tuyển dụng hay người nghe. Đồng thời kỹ năng mềm
còn rất hữu ích trong quá trình làm việc sau này.
Thứ sáu, kỹ năng mềm giúp sinh viên mài dũa khả năng sáng tạo,
tính sáng tạo và lối suy nghĩ thông minh được đánh giá cao ở bất cứ


17

công việc nào. Thậm chí công việc mang tính kỹ thuật nhất cũng đòi hỏi
khả năng suy nghĩ thoát ra khỏi khuôn khổ. Vì vậy, cần đánh giá đúng

sức mạnh của việc giải quyết vấn đề theo cách sáng tạo. Kỹ năng mềm
sẽ trang bị cho học sinh, sinh viên phương pháp giải quyết công việc
sáng tạo và thông minh nhất có thể.
Thứ bẩy, kỹ năng mềm trang bị cho sinh viên cách nhìn tổng
quan về mọi vấn đề về công việc, có nghĩa là có khả năng xác định
được các yếu tố dẫn tới thành công. Điều này cũng có nghĩa là nhận
ra các nguy cơ tiềm ẩn và thời điểm nó xảy ra. Bởi vì trong mọi lĩnh
vực, nếu nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể nhận thấy rằng
không chỉ là đạt được mục đích của mình mà còn làm thỏa mãn và
thuyết phục được người khác, từ đó khẳng định khả năng và vai trò
của mình.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông,
đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động
khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực
hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 20112020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011. Tuy nhiên,
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn thấp và cần phải
được sớm cải thiện.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân
lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện
tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại
chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là
nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao.


18
Thực tế cho thấy người thành đạt “chỉ có 25% là do những kiến thức
chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang
bị” (theo Wikipedia). Như vậy, muốn đạt được thành công trong cuộc sống và sự
nghiệp, bạn phải hội tụ đủ kỹ năng chuyên môn (kỹ năng cứng) và kỹ năng mềm.

Nếu sở hữu được các kỹ năng mềm chuyên nghiệp, bạn sẽ đóng góp lớn vào sự
thành công của một doanh nghiệp. Vì lí do này, các nhà tuyển dụng rất coi trọng
kỹ năng mềm và xem đây là một trong những yêu cầu tuyển dụng.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục nghề nghiệp là tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao, trước khi bước vào thế kỷ 21, UNESCO đã
khuyến cáo nêu ra bốn mục đích của việc học tập trong thế kỷ mới là: “Học để
biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để làm người”. Quả thế, trước sự
phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin, người ta
nhận thấy rằng người lao động ở thế kỷ 21 không phải chỉ học để biết, để làm mà
quan trọng hơn phải “cùng chung sống và tự khẳng định mình” trong xã hội đầy
biến động. Năng lực của người lao động thế kỷ này không chỉ nằm ở sự biết, sự
biết làm mà chủ yếu phải là sự biết làm người, sự tự khẳng định mình trong sự
đóng góp chung cho xã hội.

Nhận thức được tầm quan trọng của nó, những năm gần đây,
Tổng cục Dạy nghề đã đầu tư kinh phí triển khai đào tạo, bồi dưỡng
thí điểm kỹ năng mềm cho cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên và
tiến tới tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhân rộng, chuyên sâu cho các
cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp trên phạm vi toàn quốc.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp nhằm
tạo ra cho người học những kỹ năng thiết yếu giúp người học có thể
nhanh chóng tiếp cận cơ hội việc làm và làm việc có hiệu quả trong thị
trường lao động.


19


Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị
trường lao động ở Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng, do mới hình
thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động Việt Nam
đang bộc lộ nhiều điểm yếu lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng
nhất là mất cân bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp.
Trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực
phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ trung cao cấp lại thiếu hụt
lao động trầm trọng.
Lao động Việt Nam giàu lực lượng, nghèo kỹ năng, đó là đánh
giá của không ít các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân
lực ở Việt Nam rất dồi dào nhưng lại thiếu trầm trọng về chất lượng.
Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo,
tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển
giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường lao
động hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn
đang là mối quan tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần
các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các
nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ
bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Tuy
nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị trường còn hạn
chế. Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn
thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản
lý nước ngoài đã nhận xét: “Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự
mình giải quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu
quả kém đi nhiều”. Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp


20


không thể thành đạt được, cho dù họ đã tập hợp được đội ngũ nhân
công kỹ thuật có chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo cơ bản.
Khi tham gia TPP, Việt Nam có lợi thế là có lực lượng lao động
dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,
tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao
động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực
dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng
lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10
năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào
tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị
trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm
chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí
công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê
chuyên gia nước ngoài.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là
nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động
chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động
vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng
45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những
“điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật
chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ
chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là


21


3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm
8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào
tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy,
dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng
34% tổng số lao động trong cả nước.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp
và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng
Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á
tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt
6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm... Do vậy, nên
năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái
Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11
lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần).
Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái
Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình
5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam
chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề,
nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao
động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình
độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó
khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn
nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước
được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).



22

Từ những đánh giá trên, có thể thấy, nguồn nhân lực Việt Nam
hiện nay có các đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức; chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp;
chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu
thuẫn giữa lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông
dân, công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực
để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Những yếu kém trên đây cũng chính là những thách thức lớn đối
với lao động Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
của nền kinh tế trong quá trình tham gia TPP và thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trang bị thêm các kỹ năng giúp sinh viên phát huy hiệu quả các kiến thức
chuyên môn và phát triển tiềm năng cá nhân, đáp ứng tốt hơn, thích ứng nhanh
hơn với tình hình thực tế, đáp ứng nhanh nhu cầu cao của của xã hội.
Tạo lập môi trường phát triển các kỹ năng mềm để học sinh, sinh viên
được phát huy tối đa năng lực học tập, nghiên cứu khoa học và lập nghiệp; góp
phần vào quá trình nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.

Một số vấn đề ảnh hưởng tới việc xây dựng và thực hiện đề án:
Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển nhanh theo
quy hoạch vì vậy số lượng cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên lớn
phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhân rộng kỹ năng mềm trong 2 năm
sau đó tổ chức các buổi hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm đào tạo, bồi

dưỡng kỹ năng mềm từ đó tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu.


23

- Luật giáo dục nghề nghiệp bắt đầu có hiệu lực thực hiện từ
1/7/2015 nhưng Chính phủ chưa chính thức giao quản lý nhà nước về
giáo dục nghề nghiệp ở Trung ương cho một cơ quan, để thống nhất
chỉ đạo.
- Ngân sách nhà nước gặp khó khăn nên việc bố trí kinh phí để
thực hiện đề án còn nhiều hạn chế.
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
- Chưa có chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng
mềm chính thức được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Cán bộ làm công tác học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp trực tiếp tham gia đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mềm
cho học sinh, sinh viên còn yếu và thiếu.
- Số lượng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên toàn quốc tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mềm cho học sinh, sinh viên chưa
rộng khắp.
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
Trong khuôn khổ của Đề án, tác giả xin được trình bày 07 kỹ
năng mềm để đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác học sinh,
sinh viên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cụ thể như sau:
2.3.1. Kỹ năng giảng dạy tích cực
a.Tầm quan trọng của kỹ năng giảng dạy tích cực
Phương pháp giảng dạy phổ biến tại các cấp, bậc học của
nước ta hiện nay chủ yếu vẫn là thầy giảng, trò chép. Học sinh thụ
động ngồi nghe, chép và học thuộc. Công tác đánh giá chất lượng
giáo dục, đào tạo được tiến hành thông qua kiểm tra, thi cử, cấp bằng.

Với cách dạy học này, các em học sinh giống như những cái kho và
thầy, cô giáo hàng ngày chất đầy kiến thức khoa học vào đó. Hậu quả


24

của tư duy giáo dục cũ dẫn đến sự thụ động của người học trong việc
tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân khiến người học trở
nên trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, lười tư duy và thiếu tính
sáng tạo. Sự giao tiếp, trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ
mang tính một chiều.
Thực tế trên cho thấy, nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới
phương pháp giảng dạy là việc làm cấp thiết và cần tiến hành một
cách đồng bộ. Đổi mới phương pháp giảng dạy góp phần tạo nên
những cơ hội đặc biệt để thầy và trò nhận thức rõ những giá trị quan
trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều này yêu cầu người giảng viên
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cũng như vốn hiểu
biết xã hội. Vì vậy, vai trò mới của người giảng viên trở thành nhân tố
kích thích trí tò mò của học viên, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu
độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng
sáng tạo. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại có một vai trò
và tầm quan trọng vô cùng lớn.
“Thế giới không bị điều hành bởi cái đúng
mà bởi người biết thuyết phục là đúng”
b. Thiết kế bài giảng
Việc giảng viên lên kế hoạch chi tiết cho mỗi bài giảng để đạt
được mục tiêu của bài, đó chính là các bước thiết kế bài giảng.
- Phân tích: Phân tích là bước quan trọng nhất trong quá trình
này. Nó giúp giảng viên có dữ liệu, làm cơ sở cho tất cả các quyết
định trong tương lai. Một sai lầm mà nhiều người mới vào nghề dễ

mắc phải đó là không tiến hành được một phân tích đúng đắn ngay từ
đầu.
“Đúng ngay từ đầu, chuẩn ngay từ gốc”.


25

- Thiết kế: Đây là bước mà giảng viên sử dụng thông tin có được
trong giai đoạn phân tích để tạo ra một chương trình hoặc khóa học
đáp ứng nhu cầu của học viên. Có nhiều cách thức thiết kế và chúng
có thể chưa được tốt ở vài lần đầu. Vì vậy, thử nghiệm của giảng viên
trong giai đoạn thiết kế sẽ giúp giảng viên tiết kiệm thời gian và tiền
bạc.
- Phát triển: Giai đoạn phát triển tập trung vào việc xây dựng các
kết quả của giai đoạn thiết kế. Quá trình này tiêu tốn nhiều thời gian
dành cho việc tạo ra học liệu cho khóa học. Nó bao gồm các bước
khác nhau như dự thảo ban đầu, đánh giá, viết lại, và thử nghiệm.
- Thực hiện: Giai đoạn thực hiện bao gồm nhiều quá trình chứ
không chỉ đơn thuần là trình bày lại các tài liệu đã phát triển. Nếu như
các khái niệm và học liệu đã được thử nghiệm trong suốt quá trình
phát triển, thì giai đoạn thực hiện có thể khám phá ra yêu cầu cần phát
triển thêm chủ đề hoặc phải thiết kế lại hay tái cấu trúc lại bài giảng.
Các quy trình cho giai đoạn này thay đổi dựa trên quy mô của các tổ
chức, sự phức tạp của chương trình và sự phân bổ của học liệu. Việc
này bao gồm các khái niệm như giai đoạn thử nghiệm, các buổi đào
tạo chuyên môn cho giáo viên, phương pháp phân phối và trình bày
các tài liệu.
- Đánh giá: Giai đoạn đánh giá đóng vai trò quan trọng từ đầu
cho tới cuối quá trình. Mục tiêu của quá trình này nhằm nhìn nhận
tổng quan, xem xét, đánh giá lại những điều đã được khám phá ra

trong quá trình phân tích. Những phát hiện này bao gồm các mục tiêu
và kỳ vọng của người học.
c. Ứng dụng thiết kế bài giảng


×