Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2015 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.28 KB, 51 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
-----------------------------------------------

NGUYỄN QUANG HUY

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Hà Nội, tháng 6 năm 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
-----------------------------------------------

ĐỀ ÁN
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

Người thực hiện: Nguyễn Quang Huy
Lớp: CCLLCT B4-14
Chức vụ: Phó trưởng phòng QLCN&SHTT
Đơn vị công tác: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn
Người hướng dẫn: Tiến sĩ Đậu Tuấn Nam

Hà Nội, tháng 6 năm 2015




LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện chính trị khu vực I cá nhân tôi đã
nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của tập thể các giảng viên của Học viện đây là yếu tố
hết sức quan trọng để tôi có thể hoàn thành khóa học cũng như hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể Ban Giám đốc học viện, toàn thể các
thầy, cô giáo là giảng viên của Học viện đã tận tình chỉ bảo, truyền thụ kiến thức giúp tôi
ngày càng trưởng thành hơn về nhận thức và lý luận.
Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ Đậu Tuấn Nam, Phó
Giám đốc Học viện chính trị khu vực I đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành đề
án tốt nghiệp lớp cao cấp lý luận chính trị tại Học viên Chính trị khu vực I.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến cô giáo chủ nhiệm Ngô Thị Hoàng Yến và toàn thể
học viên lớp B3-14 đã luôn đồng hành, động viên, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề án tốt nghiệp của mình.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CN

: Công nghệ

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

GD-ĐT


: Giáo dục – đào tạo

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

KH&CN

: Khoa học và công nghệ

KH

: Khoa học

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

LĐ&TBXH

: Lao động và thương binh xã hội

NCKH

: Nghiên cứu khoa học

NN&PTNN

: Nông nghiệp và phát triển nông thôn


NSNN

: Ngân sách nhà nước

TCĐLCL

: Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng

TN&MT

: Tài nguyên và môi trường

UBND

: Ủy ban nhân dân

UDKHCN

: Ứng dụng khoa học công nghệ


MỤC LỤC
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH.......................................
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH.......................................
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................
3
A.PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................45



1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Ngày nay KH&CN được coi là khâu then chốt trong phát triển kinh
tế - xã hội, KH&CN mang lại nhiều lợi ích đối với sự phát triển của quốc gia,
giúp đẩy nhanh CNH-HĐH, thay thế công nghệ cũ bằng công nghệ mới hiện
đại, nâng cao năng suất lao động, hàng hóa, của cải vật chất tăng cao, đất
nước ngày càng phát triển và có vị thế về kinh tế trong quá trình hội nhập.
Ngoài ra, KH&CN giúp nâng cao chất lượng y tế, quốc phòng, an ninh,... về
máy móc, phương tiện. Rút ngắn thời gian thực hiện ý tưởng, vòng đời các
sản phẩm KH&CN, giải phóng người lao động khỏi quá trình sản xuất trực
tiếp, thay đổi các quan hệ xã hội, thể hiện hào khí dân tộc.
Khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản suất nòng cốt,
trực tiếp của xã hội, là động lực cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội. Chính
vì vậy đầu tư cho KH&CN chính là đầu tư cho phát triển. Xác định rõ tầm
quan trọng của KH&CN, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên
quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành
nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của KH&CN đối với
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tỉnh Lạng Sơn hơn 10 năm gần đây (2000 - 2014) đã có nhiều thành tích
đáng khích lệ trong phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã chú trọng đầu tư cho
phát triển KH&CN, phấn đấu đạt mức đầu tư kinh phí là 1% trong tổng chi
ngân sách hàng năm của tỉnh cho KH&CN. Tuy nhiên, các chính sách
KH&CN nói chung và chính sách đầu tư phát triển KH&CN nói riêng ở tỉnh
Lạng Sơn còn thiếu và nhiều bất cập, nguồn vốn huy động cho đầu tư thấp



2

nhưng lại đầu tư dàn trải, quá trình kiểm tra, giám sát chưa phù hợp nên hiệu
quả sử dụng thấp. Do đó việc nghiên cứu đề án “Hoàn thiện chính sách đầu
tư phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2015 - 2020”
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho phát triển
KH&CN là hết sức cần thiết
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Hệ thống lại những vấn đề lý luận về KH&CN, chính sách đầu tư phát
triển KH&CN để phục vụ cho việc xây dựng, hoàn thiện chính sách đầu tư
phát triển khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Thông qua phân tích tình hình thực hiện các chính sách đầu tư cho phát
triển KH&CN chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân những hạn chế
trong chính sách đầu tư phát triển KH&CN. Trên cơ sở định hướng phát triển
KH&CN của Việt Nam và với chiến lược phát triển KH-XH của Lạng Sơn đề
xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển KH&CN.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2020, các chính sách về KH&CN trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền
kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao
đạt khoảng 25% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt trên 15%/năm
giai đoạn 2016 - 2020. Giá trị giao dịch của thị trường KH&CN tăng trung
bình 5 - 10%/năm.
Số lượng công bố quốc gia các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà
nước giai đoạn 2016 - 2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó
đặc biệt tăng nhanh số lượng sáng kiến cải tiến kỹ thuật được tạo ra từ các đề
tài, dự án KH&CN và các Cuộc thi sáng tạo kỹ thuật.
Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm
2020. Bảo đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KH&CN không dưới



3

2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm.
Đến năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
đạt 8 - 10 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 100
kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ
cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.
Đến năm 2020, hình thành 01 tổ chức nghiên cứu và ứng dụng đạt trình
độ vùng, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu của địa phương đặt ra
đối với KH&CN; 10 doanh nghiệp KH&CN; 01 cơ sở ươm tạo công nghệ
cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
3. Giới hạn của đề án:
Đối tượng nghiên cứu của đề án là: hệ thống các chính sách đầu tư phát
triển khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Về mặt không gian: nghiên cứu chính sách đầu tư phát triển trong phạm
vi không gian tỉnh Lạng Sơn.
Về mặt thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu chính sách đầu tư phát triển
KH&CN ở tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn 2000 – 2014 làm cơ sở cho việc xây
dựng, hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển KH&CN trong giai đoạn 20152020..


4

B. NỘI DUNG

1. Căn cứ xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm về khoa học và công nghệ

a. Khái niệm khoa học
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm khoa học, theo cách hiểu
thông thường thì khoa học là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm tập hợp
các hiểu biết của con người về các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy và nó sẽ
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi nó được đem vào áp dụng trong sản
xuất và cuộc sống của con người.
Luật Khoa học và Công nghệ định nghĩa “Khoa học là hệ thống tri thức
về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”.
b. Khái niệm công nghệ
Ở Việt Nam, công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành một
công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc. Theo quan niệm
này, công nghệ chỉ liên quan đến sản xuất vật chất. Luật Khoa học và Công
nghệ cho rằng “công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí
quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
c. Khái niệm hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng
tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
d. Khái niệm về tổ chức khoa học và công nghệ
Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt


5

động dịch vụ khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động
theo quy định của pháp luật.
e. Khái niệm về phát triển công nghệ
Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản,

nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử
nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
f. Đầu tư phát triển KH&CN
Đầu tư phát triển KHCN là một quá trình bao gồm từ xác định mục tiêu,
phương hướng, tạo nguồn vốn, phân bổ và cân đối, thực hiện cấp phát và
quản lý chi tiêu nhằm mục tiêu nâng cao về chất trình độ KH&CN. Quá trình
xây dựng và phát triển nền KH&CN của đất nước phụ thuộc rất lớn vào nguồn
tài chính đầu tư cho KH&CN.
Việc tăng đầu tư phát triển cho KH&CN sẽ tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật để
phát triển nhanh về kinh tế và ngược lại khi nền kinh tế đạt trình độ cao sẽ tạo
điều kiện cho KH&CN phát triển. Thông thường khi thu nhập quốc dân càng
cao thì khả năng chi cho hoạt động KH&CN càng lớn. Tuy nhiên, khi thực hiện
đầu tư phát triển KH&CN, có nhiều ý kiến cho rằng đầu tư cho KH&CN là tốn
kém và không có hiệu quả nhưng nhiều nhà khoa học lại nhận định rằng đầu tư
cho KHCN chưa đủ tầm, chưa đến ngưỡng. Đây là vấn đề lớn đối với việc
hoạch định chính sách đầu tư hợp lý cho phát triển KHCN.
1.1.2. Vai trò của chính sách đầu tư phát triển KH&CN
Chính sách đầu tư phát triển KH&CN là một tập hợp các văn bản quy
phạm pháp luật định rõ các phương châm, nguyên tắc, quy định, thể lệ của
nhà nước đối với hoạt động KH&CN, làm cơ sở cho công tác quản lý KH&CN.
Có chính sách KHCN quốc gia, cũng có chính sách của một vùng, một đơn vị
hành chính hoặc một tổ chức, một ngành cụ thể. Tập hợp các chính sách ấy thể
hiện thái độ của nhà nước hay chủ thể quản lý đối với mục tiêu phát triển


6

KHCN, các biện pháp thực hiện mục tiêu đó trong phạm vi cả nước hoặc ngành
hẹp, địa phương.
a. Vai trò của chính sách đầu tư phát triển KH&CN

Chính sách đầu tư phát triển KH&CN có vai trò hết sức quan trọng đối
với phát triển KT-XH nói chung và KHCN nói riêng. Điều này bắt nguồn từ
vai trò của KHCN trong sự phát triển KT-XH đất nước, khi mà KH&CN ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt, trực tiếp của xã hội, là động lực
cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách đầu tư hợp lý cho phép sử dụng nguồn vốn, đặc biệt là vốn
NSNN hiệu quả, việc đầu tư sẽ có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự kết hợp giữa
các nguồn vốn nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển KH&CN.
Chính sách đầu tư phát triển KH&CN hợp lý là sẽ cho phép đa dạng hoá
được nguồn vốn đầu tư cho hoạt động KH&CN, giảm gánh nặng cho NSNN,
thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, từ các tổ chức và cá nhân
trong nước, đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động KH&CN. Chính sách đầu
tư phát triển KH&CN không chỉ là tăng NSNN cho hoạt động KH&CN mà
quan trọng hơn là phải tạo môi trường thuận lợi để thu hút được các nguồn
vốn khác vào lĩnh vực này, tức là cần chuyển dần từ một chính sách cho khoa
học bằng một chính sách bằng khoa học.
Chính sách đầu tư phát triển KH&CN phù hợp có tác dụng khuyến khích
được các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm; tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời
giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường do sử dụng công nghệ lạc hậu.
Chính sách đầu tư phù hợp còn có tác dụng khai thác hiệu quả nguồn
chất xám từ các nhà khoa học trong nước. Khi các biện pháp đòn bẩy, kích
thích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của các nhà khoa học hợp lý sẽ tạo điều
kiện để họ tập trung dành thời gian và tâm huyết nghiên cứu khoa học và sáng


7

tạo công nghệ.
b. Những chính sách đầu tư phát triển KH&CN cơ bản

Trong chính sách đầu tư phát triển KH&CN lại được chia thành nhiều
chính sách khác nhau và giữa các chính sách này có mối quan hệ chặt chẽ,
phụ thuộc nhau, đó là các bộ phận chính sách đầu tư phát triển KH&CN.
Chính sách đầu tư của nhà nước cho KH&CN
Đầu tư tài chính từ nhà nước cho KH&CN là quá trình phân phối sử
dụng một phần vốn NSNN để duy trì, phát triển hoạt động KH&CN. Nhà
nước xây dựng hướng nghiên cứu và những hoạt động nghiên cứu ưu tiên
trong chiến lược phát triển KT-XH ở mỗi thời kỳ. Trên cơ sở đó xác định mức
đầu tư cho hoạt động KH&CN. Thông qua nguồn tài chính này, Nhà nước sẽ
điều chỉnh các hoạt động nghiên cứu phát triển KH&CN theo đường lối, chủ
trương của mình.
Nguồn vốn NSNN cấp đầu tư cho KH&CN được kết cấu từ hai phần:
vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho các cơ quan khoa học và kinh phí sự nghiệp
KH&CN.
Chính sách xã hội hóa hoạt động đầu tư phát triển KH&CN
Đầu tư phát triển KH&CN là nhu cầu thực tế khách quan nhằm đẩy
mạnh hoạt động NCKH và ứng dụng công nghệ. Nền kinh tế chuyển sang thị
trường, việc đầu tư phát triển KH&CN không còn là việc riêng của các cơ
quan nhà nước mà là của chung xã hội, của toàn bộ nền kinh tế. Phát triển
KH&CN đem lại lợi ích thiết thực cho cả cá nhân và xã hội. Khi các sản
phẩm KH&CN có tính xã hội thì các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân và cộng
đồng đều có trách nhiệm quan tâm góp sức lực trí tuệ, tiền của để phát triển
hoạt động KH&CN.
Trên thế giới, nhất là những nước có nền kinh tế phát triển, tỷ lệ đầu tư
cho KH&CN ngoài NSNN thường rất cao. Mỹ, Đức, Ailen, Đài Loan trên


8

60%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Điển trên 70%...

Để thực hiện xã hội hóa nguồn vốn đầu tư cho KH&CN, Nhà nước có
các biện pháp sau:
Một là, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN thông qua chính
sách ưu đãi về thuế cho hoạt động KH&CN
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Doanh nghiệp sẽ không phải chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp từ việc thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật để hoạt động KH&CN thì chi phí này được coi là chi phí hợp lý và được
trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế VAT, thuế nhập khẩu, xuất khẩu:
+ Máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa
sản xuất được; công nghệ trong nước chưa tạo ra; tài liệu, sách bóa nhập khẩu
để sử dụng trực tiếp vào hoạt động NCKH và phát triển công nghệ không phải
chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng.
+ Sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm; sản phẩm làm ra từ
công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam; các hoạt động tư vấn
KH&CN; chuyển giao công nghệ, thiết bị công nghệ cao nhập khẩu; xuất khẩu
công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế.
- Doanh nghiệp thực hiện đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ được
hưởng các ưu đãi về thuế.
+ Doanh nghiệp được tính câc khoản chi phí phát triển KH&CN vào chi
phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế, bao gồm các khoản chi cho NCKH
và phát triển công nghệ, mua thông tin, tư liệu công nghệ, sở hữu công nghiệp
và chi phí cho các hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Các khoản đầu tư về công nghệ tạo thành tài sản cố định được trừ dần vào chi
phí sản xuất.


9


+ Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển KH&CN để chủ động đầu tư cho
KH&CN theo yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. nguồn vốn của Quỹ này
được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp và các nguồn khác.
+ Doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề KH&CN thuộc lĩnh vực
ưu tiên, trọng điểm của nhà nước được cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN
các cấp có thẩm quyền xét tài trợ từ ngân sách sự nghiệp KH&CN hoặc được
quỹ phát triển KH&CN xem xét tài trợ.
Hai là, Khuyến khích đầu tư KH&CN thông qua chính sách ưu đãi về tín
dụng
Tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN vay vốn trung và dài hạn để tiến
hành hoạt động KH&CN được hưởng lãi suất ưu đãi khi vay vốn tại Quỹ phát
triển KH&CN quốc gia và quỹ khác.
Trường hợp vay vốn tại các ngân hàng thương mại để đầu tư vào hoạt
động KH&CN, các tổ chức, cá nhân được quỹ hỗ trợ phát triể xem xét hỗ trợ
lãi suất sau đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư theo điều lệ của quỹ.
Những chương trình, đề tài, dự án KH&CN phục vụ trực tiếp các chương
trình KT-XH trọng điểm của Nhà nước và phát triển tiềm lực KH&CN quốc
gia có yêu càu sử dụng vốn lớn, được ưu tiên xét cho sử dụng vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) theo phương thức: 1) Tài trợ không hoàn lại hoặc cho
vay ưu đãi đối với các hoạt động nghiên cứu và phát triển 2) Cho vay đối với
dự án đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN hoặc cho vay có thu hồi đối với các
dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN.
Ba là, Cho phép thành lập các quỹ phát triển KH&CN để huy động các
nguồn vốn từ xã hội
- Quỹ phát triển KH&CN quốc gia: Chính phủ lập Quỹ phát triển
KH&CN quốc gia để sử dụng vào các mục đích sau: tài trợ cho việc thực hiện
nghiên cứu cơ bản; tài trợ cho các nhiệm vụ KH&CN đột xuất, mới phát sinh,


10


có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, các nhiệm vụ KH&CN có
triển vọng nhưng có tính rủi ro; cho vay với lãi suất thấp hoặc không lãi suất
để thực hiện việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống.
- Quỹ phát triển KH&CN của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương: Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thành lập Quỹ phát triển KH&CN để phục vụ cho các yêu cầu
phát triển KH&CN của mình.
- Quỹ phát triển KH&CN của tổ chức, cá nhân: nhà nước khuyến khích tổ
chức, cá nhân thành lập quỹ phát triển KH&CN. Quỹ này được hình thành từ các
nguồn: vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân sáng lập không có nguồn gốc từ
NSNN; các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân; cá
nguồn khác.
c. Các tiêu chí đánh giá chính sách đầu tư phát triển KH&CN
Đánh giá chính sách đầu tư phát triển KH&CN là một trong những nội
dung quan trọng. Đánh giá chính sách có thể được hiểu là quá trình xem xét,
so sánh, đánh giá các mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách đầu tư phát
triển KH&CN. Phân tích những ảnh hưởng của chính sách, tính hiệu lực và
hiệu quả của chính sách đối với hoạt động đầu tư phát triển KH&CN.
Tính hiệu quả của chính sách
Tính hiệu quả của chính sách là tương quan so sánh giữa kết quả do chính
sách đó đưa lại so với chi phí và công sức đã bỏ ra cho kết quả đó. Khi đánh
giá hiệu quả của chính sách, người ta phải xác định hiệu quả tổng hợp của
chính sách. Đó là hiệu quả tổng hợp cả về KT-XH của chính sách. Hiệu quả
tổng hợp phản ánh mức độ đạt được các kết quả về kinh tế và tác động xã hội
theo mục tiêu đã đề ra với một chi phí và công sức nhất định. Trong quá trình
đánh giá chính sách, có nhiều chỉ tiêu không thể lượng hóa được, mà chỉ có thể
xác định về mặt định tính, nhất là những tác động xã hội. Đối với hiệu quả kinh



11

tế thì có thể đánh giá bằng chỉ tiêu định lượng, thể hiện tương quan so sánh
giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra.
Tính hiệu lực của chính sách
Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của
chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn
của các nhà hoặc định chính sách. Việc đánh giá hiệu lực của chính sách, tức
là nhằm trả lời câu hỏi: chính sách có đạt được kết quả có giá trị hay không?
Hiệu lực chính sách gồm có:
- Hiệu lực lý thuyết: thể hiện sự ra đời, có mặt của chính sách để chính
sách được thực thi. Hiệu lực này được xác định bởi cơ quan hoặc người có
thẩm quyền quyết định chính sách.
- Hiệu lực thực tế của chính sách thể hiện tác động của chính sách trong
đời sống KT-XH của đất nước.
Tính khả thi của chính sách
Tính khả thi của chính sách đầu tư phát triển KH&CN là tiêu chí quan
trọng nhất để đảm bảo cho chính sách đó được thực hiện trên thực tiế. Tính
khả thi phải được xem xét trên nhiều phương diện: từ việc xác định đúng các
nguyên nhân làm xuất hiện vấn đề chính sách đến việc lựa chọn mục tiêu, giải
pháp, công cụ và thời điểm ban hình thích hợp.
Chính sách đầu tư phát triển KH&CN dù hay, hấp dẫn đến đâu nhưng
không được đảm bảo bằng các điều kiện vật chất, kỹ thuật và nhân lực, không
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chủ thể chính sách và đối tượng
chính sách, không phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, các quy luật
khách quan và điều kiện thực tế của Việt Nam, điều kiện và tiềm năng của
mỗi địa phương thì chính sách đó không thể thực thi được trên thực tế.
Tính khả thi của chính sách là một yêu cầu hết sức quan trọng để biến
mong muốn của Nhà nước và nhân dân thành hiện thực. Tính khả thi của



12

chính sách phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố: năng lực của nhà hoạch định và
thực thi chính sách, tiềm lực, môi trường thực thi của chính sách, sự đồng bộ
của hệ thống chính sách và pháp luật.
Tính công bằng của chính sách
Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ các chi phí và lợi ích có
được phân bổ công bằng giữa các cá nhân và các nhóm người khác nhau hay
không? Sự công bằng ở đây bao gồm hai góc độ: thứ nhất, sự đối xử khác
nhau đối với những đối tượng khác nhau, như đối xử với người giàu khác đối
xử với người nghèo. Một chính sách sẽ được đánh giá là công bằng sự đối xử
là như nhau đối với những đối tượng như nhau.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
* Các văn bản, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương chính sách để phát triển KH&CN. Vai trò của KH&CN ngày càng
được khẳng định cùng với tiến trình phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, Đại hội XI của Đảng cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém
trong khoa học, công nghệ: “Khoa học, công nghệ chưa thực sự trở thành
động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học, công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn
kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư
cho khoa học, công nghệ còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ công
nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi mới chậm.”
Các quan điểm chỉ đạo về phát triển KH&CN cũng được chỉ rõ trong
nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII, Luật KH&CN (2000, 2013) và các văn bản dưới luật, văn
kiện Đại hội Đảng lần IX, X và kết luận của Hội nghị Trung ương khoá 6;
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng



13

bàn về công tác khoa học công và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nhấn
mạnh “...tăng mạnh đầu tư cho các hoạt động KH&CN từ nhiều nguồn. Dành
một tỷ lệ cao hơn trong ngân sách Nhà nước cho kinh phí sự nghiệp khoa học
ít nhất 2% ngân sách hàng năm...”. Cùng với việc tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà
nước cho KH&CN, Nghị quyết của Đảng cũng khẳng định cần phải đa dạng
hoá các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động KH&CN.
* Các văn bản của địa phương.
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy,
UBND tỉnh Lạng Sơn cũng đã có sự quan tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống văn
bản nhằm cụ thể hóa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Cụ
thể đã ban hành:
- Chương trình hành động của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh số
13/CTr/TU ngày 06/11/02 về thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX về khoa học & công nghệ;
- Chương trình hành động của Tỉnh ủy số 24/CTr-TU về một số chủ
trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Lạng Sơn
lần thứ XIII, trong đó có công tác khoa học & công nghệ;
- Đề án Quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Lạng Sơn đến
năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
- Quyết định số 06/2009/QĐ-UBND ngày 11/5/2009 của UBND tỉnh
Lạng Sơn ban hành một số chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư vào Khu kinh tế
cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn;
- Quyết định số 25/QĐ-UBND ngày 11/01/2012 của UBND tỉnh Lạng
Sơn Ban hành quy định tạm thời một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ áp
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống trên địa bàn

tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2011 – 2015.


14

Các văn bản nêu trên chính là cơ sở cho việc thúc đẩy đầu tư phát triển
khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đặc biệt là hai quyết định
số 06/2009/QĐ-UBND và 25/QĐ-UBND hai quyết định này có tác động trực
tiếp và mạnh mẽ đến việc đầu tư phát triển KH&CN trên địa bàn tỉnh.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội trong nước có tác động không nhỏ
tới quá trình thực hiện chính sách công nói chung và chính sách đầu tư phát
triển KH&CN nói riêng. Giữa khoa học và môi trường chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội có sự quy định lẫn nhau. KH&CN suy cho cùng là một bộ phận
của nền văn hóa của một dân tộc. Môi trường xã hội càng văn minh, dân chủ
thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho KH&CN phát triển và ngược lại khi các
cuộc cải cách xã hội chưa tiến kịp với trào lưu văn minh nhân loại thì chắc
chắn chưa tạo được mảnh đất tốt cho KH&CN. Một nền kinh tế tăng trưởng
cao sẽ là tiền đề để Nhà nước đảm bảo nguồn NSNN thực hiện chính sách đầu
tư phát triển KH&CN. Quan hệ sản xuất tiên tiến, lành mạnh, một nền hành
chính minh bạch, kỷ cương là tiền đề KT-XH cho việc phát triển KH&CN.
Đối với nước ta hiện nay đang trong giai đoạn thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên về nhiều phương
diện còn thua kém nhiều các nước công nghiệp trong phát triển KH&CN. Vấn
đề là cần nhận thức đúng về hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể của đất nước để
có phương hướng đối với việc tạo dựng tiền đề KT-XH cho KH&CN.
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các biến động về kinh tế,
chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng có tác động
đáng kể trong việc thực thi các chính sách của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn
tới hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế chủ yếu của thế giới. Toàn

cầu hóa tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ; tự do hóa kinh tế và tài chính
tiếp tục gia tăng, nhiều hình thức liên kết mới xuất hiện. KH&CN ngày càng


15

trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ và
theo đó chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc
gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta có nhiều khả
năng hơn để tiếp cận những thành tựu KH&CN hiện đại của thế giới, tiếp nhận
chuyển giao những công nghệ thích hợp mà trong nước chưa làm được để nâng
cao trình độ công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực KH&CN thông qua đào tạo
và nghiên cứu ở nước ngoài, kích thích đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp
đồng thời tạo ra sự cạnh tranh về kinh tế và KH&CN.
Tại tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn kể từ năm 2009 trở về trước các chính sách
thu hút đầu tư, khuyến khích đầu tư phát triển KH&CN hoàn toàn chưa được
xây dựng và ban hành. Sau năm 2009 thì có một số văn bản được ban hành
trong đó có 02 văn bản quy định rõ nét nhất có tác động trực tiếp đến việc
thúc đẩy đầu tư phát triển KH&CN trên địa bàn nhưng lại chưa phát huy được
hiệu quả. Theo Quyết định số 06/2009/QĐ-UBND thì tỉnh ưu đãi cho 53 dự
án đầu tư vào tỉnh Lạng Sơn với tổng số vốn hơn 700 triệu đô la Mỹ tuy nhiên
đến hết năm 2014 mới chỉ có 03 dự án được đầu tư với tổng số vốn khoảng 05
triệu đô la Mỹ mà 03 dự án này lại là xây dựng bến bãi, cơ sở hạ tầng phục vụ
xuất nhập khẩu nên không có tác dụng thúc đẩy nhiều trong việc phát triển
KH&CN. Năm 2012 tỉnh Ban hành Quyết định số 25/QĐ-UBND quy định
một số chính sách khuyến khích cụ thể hơn nhưng lại là tạm thời và ngắn hạn
(giai đoạn 2011-2015) do vậy cũng chưa mang lại được hiệu quả như mong
muốn.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các năm qua đã
tạo cho Lạng Sơn những lợi thế mới về vị trí địa lý kinh tế. Tỉnh Lạng Sơn là
điểm đầu tiên của Việt Nam trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung


16

Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng; có 2 cửa khẩu quốc tế (Hữu Nghị đường bộ; Đồng Đăng - đường sắt), 2 cửa khẩu chính (Chi Ma - Lộc Bình,
Bình Nghi - Tràng Định) và 7 cửa khẩu phụ (trong đó có Tân Thanh, Cốc
Nam, Bản Chắt, Quốc Khánh,...); có các tuyến đường giao thông quan trọng
như quốc lộ: 1A, 1B, 3B, 4A, 4B, 31, 279 và tuyến đường sắt liên vận quốc tế
Việt - Trung (Hà Nội - Lạng Sơn - Trung Quốc). Đây là cơ hội, điều kiện
thuận lợi để Lạng Sơn thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế, cải thiện các lĩnh vực
xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Kinh tế liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng trưởng
tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) bình quân hằng năm thời kỳ 2001 - 2010 đạt
10,2%, trong đó giai đoạn 2001 - 2005 đạt 10,04%, giai đoạn 2006 - 2010 đạt
10,36%; GDP năm 2011 tăng 9,18%, năm 2012 tăng 7,32%. GDP bình quân
đầu người (giá thực tế) năm 2010 đạt 16,3 triệu đồng (năm 2012 đạt 23,7 triệu
đồng), gấp 2,68 lần so với năm 2005 và gấp 5,17 lần so với năm 2000.
Hệ thống hạ tầng giao thông đã và đang được đầu tư hiện đại là những
tuyến chính gắn kết quan hệ toàn diện của Lạng Sơn với các tỉnh khác trong
cả nước và quốc tế.
Với vai trò ngày càng quan trọng của KH&CN tới phát triển KT-XH, nhiều
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN nói chung và đầu tư
phát triển KH&CN nói riêng đã được ban hành tạo điều kiện thuận lợi tiến hành
các hoạt động KH&CN.
Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH&CN ở Việt Nam năm 2004 đưa ra
các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động
KH&CN. Tập trung vào việc đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KH&CN và

đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt
động KH&CN. Theo đó phấn đấu đạt tỷ lệ 50/50 giữa kinh phí đầu tư cho
khoa học và công nghệ từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước và nguồn


17

ngoài ngân sách nhà nước thông qua các biện pháp như: khuyến khích doanh
nghiệp thành lập Quỹ phát triển KH&CN; doanh nghiệp được khấu hao
nhanh đối với tài sản, thiết bị, máy móc; được vay vốn với lãi xuất ưu đãi tại
Quỹ phát triển KH&CN để tiến hành hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi
mới công nghệ. Các tổ chức KH&CN có thể khai thác nguồn vốn ngoài nước
từ hoạt động hợp tác quốc tế khác nhau (hợp tác nghiên cứu, đào tạo song
phương, đa phương). Đối với phần NSNN sẽ tập trung đầu tư vào các lĩnh
vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển KH&CN, các lĩnh
vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực
công ích do Nhà nước quy định…
Bên cạnh đó nhiều chủ trương chính sách khác cũng đã được ban hành
như: Nghị định 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức này được quyền tự
chủ về kế hoạch, tài chính, về tổ chức cán bộ và hợp tác quốc tế đồng thời
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. Nghị định 80/2007/NĐ-CP
về thành lập doanh nghiệp KH&CN; Nghị định số 95/2014/NĐ-CP quy định
về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ. Thông tư
liên tịch số 44/2007/TTLT/BKHCN-BTC ngày 7/5/2007 của Bộ Khoa học và
Công nghệ, Bộ Tài chính hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán
kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước;
Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT/BKHCN-BTC ngày 4/10/2006 của Bộ
Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ khoán kinh phí đề
tài, dự án KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước…

Quán triệt chủ trương, chính sách phát triển KH&CN của Đảng và Nhà
nước Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng và những ban hành những
chính sách cụ thể để phát triển KH&CN. Những văn bản pháp lý đã được ban
hành là cơ sở cho việc đầu tư nghiên phát triển khoa học và công nghệ nhằm


18

nâng cao tiềm lực KH&CN, phát huy vai trò to lớn là động lực phát triển KTXH của tỉnh tuy nhiên trong giai đoạn 2000-2014 các chủ trương, văn bản của
tỉnh Lạng Sơn ban hành vẫn chưa tạo được sức hút cần thiết để phát triển,
khai thác hết tiềm năng vốn có.
2.2. Thực trạng chính sách đầu tư phát triển KH&CN trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2000– 2014
2.2.1. Những chính sách đầu tư phát triển KH&CN đã được ban
hành.
Như đã trình bày ở các phần trên, thực trạng chính sách đầu tư phát
triển KH&CN trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn còn rất nhiều hạn chế cả về số
lượng và chất lượng. Nổi bật nhất mới chỉ có 02 văn bản do UBND tỉnh ban
hành đó là: Quyết định số 06/2009/QĐ-UBND ngày 11/5/2009 của UBND
tỉnh Lạng Sơn ban hành một số chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư vào Khu
kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn đã được sửa đổi bổ sung năm 2011
và Quyết định số 25/QĐ-UBND ngày 11/01/2012 của UBND tỉnh Lạng Sơn
Ban hành quy định tạm thời một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ áp dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, giai đoạn 2011 – 2015.
Tuy nhiên, những chính sách này còn bộ lộ một số hạn chế như sau:
danh mục thu hút đầu tư hầu hết nằm ở các lĩnh vực có sức hút thấp, đòi hỏi
thời gian dài, vốn lớn chưa mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn. Chính sách
khuyến khích, hỗ trợ chưa phù hợp, mức độ hỗ trợ thấp trong khi các điều
kiện để được hưởng hỗ trợ lại cao và hạn chế số lượng đơn vị được được hỗ

trợ.
2.2.2. Tính hiệu quả của chính sách
Thực trạng chính sách đầu tư cho phát triển KH&CN ở tỉnh Lạng Sơn
trong giai đoạn 2000 – 2014 thể hiện qua các chính sách của địa phương ban


19

hành đã và phát huy hiệu quả nhất định, cụ thể:
a. Về đầu tư tài chính từ NSNN cho KH&CN
Kết quả thống kê cho thấy trong giai đoạn 2000 – 2014 đầu tư tài
chính cho KH&CN từ nguồn NSNN của tỉnh Lạng Sơn ổn định qua các
năm. Chi đầu tư phát triển KH&CN đạt mức dưới 1% so với tổng chi
NSNN của tỉnh.
b. Về đội ngũ nguồn nhân lực
Đội ngũ cán bộ KH&CN không ngừng được nâng lên, số người có trình
độ đại học và trên đại học tăng mạnh; việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao phục vụ cho tiến trình đẩy mạnh CNH-HĐH được chú trọng đúng mức,
bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho phát triển của tỉnh.
Tính đến hết năm 2014, trên địa bàn tỉnh có 07 tiến sỹ, hơn 450 thạc sỹ, 3.100
cán bộ, công chức viên chức có trình độ đại học, cao đẳng. Số lượng lao động
đã qua đào tạo đến hết năm 2014 dự kiến đạt 56%.
Có thể thấy rằng đội ngũ cán bộ KH&CN ở Lạng Sơn vẫn nhiều hạn
chế: chất lượng đội ngũ cán bộ KH&CN chưa cao, cơ cấu cán bộ bất hợp lý
về ngành nghệ, trình độ, lĩnh vực hoạt động, chưa có những chuyên gia đầu
ngành, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ hạn chế.
c. Về cơ sở vật chất các tổ chức KH&CN:
Mạng lưới tổ chức KH&CN ở Lạng Sơn gồm: các đơn vị KH&CN độc
lập (các cơ quan nghiên cứu và phát triển, các trường trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề, trường cao đẳng, đại học, các đơn vị dịch vụ KH&CN); các

đơn vị hành chính, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội có thực hiện hoạt
động KH&CN.
Hệ thống các Trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn tỉnh hiện
có 03 trường cao đẳng; 01 trường trung cấp và không có trường đại học.
Trong các nhà trường hệ thống tổ chức về KH&CN chưa được hình thành


20

rõ nét, mặc dù đã có bộ phận quản lý, theo dõi hoạt động khoa học và công
nghệ nhưng còn thiếu các trung tâm thực hành, xưởng sửa chữa, các phòng
thí nghiệm hiện đại, phòng chuyên dùng phục vụ cho công tác đào tạo và
nghiên cứu.
Trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu và hỗ trợ hoạt động quản lý nhà
nước đã được tăng cường, bước đầu đáp ứng được yêu cầu thực tế tại địa
phương. Một số phòng thí nghiệm đã hình thành như: Nuôi cấy mô, phân tích
chỉ tiêu môi trường, kiểm dịch thú y, kiểm tra đo lường.
2.2.3. Tính hiệu lực của các chính sách
Phần lớn các chính sách đầu tư phát triển KH&CN đã được các cấp,
các ngành ở địa phương chấp hành và triển khai theo đúng tinh thần chỉ đạo
của văn bản. Tuy nhiên hiệu lực thực tế của các chính sách còn hạn chế, cụ
thể:
Chính sách đầu tư của Nhà nước cho KH&CN
Nhìn chung mức đầu tư cho KH&CN hiện nay ở Lạng Sơn mặc dù đã
được các cấp lãnh đạo quan tâm nhưng vẫn ở mức rất thấp so với tinh thần
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII thực tế các năm qua mới đạt trung bình
dưới 1% tổng chi ngân sách tỉnh.
Chính sách xã hội hóa nguồn vốn đầu tư KH&CN
Đối với nguồn vốn ngoài NSNN đầu tư cho KH&CN, cho đến nay,
ngoài nguồn NSNN, Lạng Sơn chưa tổng hợp được thực trạng đầu tư, hỗ trợ

của các nguồn tài chính khác cho hoạt động KHCN ở tỉnh, chưa có chế độ
thống kê, đánh giá đầy đủ nhưng theo nhận định chung của các nhà quản lý
thì “Việc đầu tư cho KH&CN được huy động bằng một số nguồn khác còn rất
hạn chế mà chủ yếu vẫn do ngân sách nhà nước đầu tư”.
2.2.4 Tính khả thi của các chính sách
Tỉnh Lạng Sơn đã ban hành được các chính sách khuyến khích, thu hút


×