Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Bản chất, nguyên tắc hoạt động, chức năng và cấu trúc của thị trường chứng khoán các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán và thực trạng thị trường chứng khoán ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.2 KB, 52 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việc hình thành và phát triển Thị trường (TTCK) là bước phát triển tất
yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối giữa một bên là các
nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân chúng) với bên kia là
các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và Nhà nước cần vốn để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước (tiền đề thỏa mãn các nhu cầu
chung của đất nước).
TTCK có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài
chính nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ có
thể được thực hiện khi các giao dịch trên thị trường được diễn ra một cách
hợp pháp, tạo điều kiện tăng tính hiệu quả và giảm rủi ro của thị trường. Kinh
nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, để đạt được mục tiêu đó, hoạt
động giám sát của Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và các Sở giao
dịch chứng khoán (SGDCK) đối với TTCK, đặt biệt là giám sát giao dịch
chứng khoán trên SGDCK là một yêu cầu rất quan trọng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và quy mô TTCK ngày càng tăng, sự
tham gia của các trung gian tài chính trong và ngoài nước trên TTCK ngày
càng phát triển.TTCK từ khi thành lập đến nay đã phát huy được chức năng
của mình đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những
hạn chế gây kiềm hãm sự phát triển của thị trường, với những vấn đề trên việc
nghiên cứu giao dịch chứng khoán trên TTCKVN thực sự là một nhu cầu cần
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Bản chất,
nguyên tắc hoạt động, chức năng và cấu trúc của thị trường chứng khoán.
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán và thực trạng thị trường
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay”.

1



PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của thị trường
chứng khoán.
TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế
hiện đại. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính,
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán
chứng khoán - các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia,
theo những quy tắc ấn định trước.
TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế.
Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết
phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này
vượt quá khả năng đáp ứng của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực
tế, đang tồn tại một lượng vốn rất lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối trong nền kinh tế, đó là
những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có
vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư, dẫn đến vốn bị ứ đọng, gây lãng
phí. Xuất phát từ nghịch lý này, TTCK đã ra đời đóng vai trò là kênh dẫn vốn
quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung, phân phối vốn một
cách hiệu quả trong nền kinh tế.
Tiền thân của TTCK là các chợ và hội chợ. Đây là nơi có vị trí thuận
lợi, có địa điểm, thời gian họp cố định. Đồng thời là nơi gặp gỡ, trao đổi
thông tin giữa các thương nhân, nơi giao dịch và kí kết các hợp đồng mua bán
các hàng hóa không mang ra chợ vẫn xác định được lượng, chất của hàng hóa,
nơi kí kết hợp đồng giữa những người môi giới, các hãng thương mại thâu
tóm được cung cầu.

2



Những dấu hiệu của một TTCK sơ khai đã xuất hiện ngay từ thời Trung
cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỉ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương
Tây, trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ, tiếp xúc
với nhau tại các quán cà – phê để thương lượng, mua bán, trao đổi hàng hóa.
Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với
nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng
hóa, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỉ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường
hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương
lượng. Những quy ước này dần dần trở thành những quy tắc có tính chất bắt
buộc đối với các thành viên tham gia.
Năm 1453, phiên chợ đầu tiên đã diễn ra tại một lữ điếm của gia đình
lãnh chúa Vanber ở Bruges, với biển hiệu “Bourse” (Mậu dịch thị trường) vẽ
hình 3 túi da tượng trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch hàng hóa, giao dịch
ngoại tệ, giao dịch chứng khoán. Vào năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất
đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị
sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auves (Bỉ). Ở đây, thị trường phát triển rất
nhanh chóng. Sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên xuất hiện ở Anh vào giữa thế
kỉ XVI. Các sàn giao dịch như vậy cũng được thành lập ở Đức và Mĩ vào cuối
thế kỉ XIII, ở Thụy Sĩ vào giữa thế kỉ XIX và ở Nhật vào cuối thế kỉ XIX.
Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước
thăng trầm. Thời kì huy hoàng nhất là vào những năm 1875 – 1913, TTCK
phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày
29/10/1929 - ngày được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đã mở đầu cuộc khủng
hoảng TTCK New York và sau đó lan rộng ra các TTCK Tây Âu, Bắc Âu,
Nhật Bản. Sau thế chiến thứ hai, các TTCK phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng
rồi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa đã làm cho các TTCK
thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn
cuộc khủng hoảng năm 1929. Nhưng chỉ 2 năm sau, TTCK thế giới lại đi vào
ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được
3



trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường.
2. Khái niệm thị trường chứng khoán.
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua
bán, trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng
khoán thì đó là hoạt động của TTCK.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ,
nó có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu
có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu
cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu
của chúng. Có nhiều cách để phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức
khác nhau. Nếu dựa theo tính chất của chứng khoán thì hàng hoá trên thị
trường bao gồm hai loại chủ yếu là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn
và quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ
phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị
trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền
tham gia quản lý công ty thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ
đông, quyền mua trước đối với cổ phiếu phát hành mới.
Với chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, là loại chứng khoán quy
định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hữu chứng khoán
toàn bộ giá trị cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.
Với các đặc tính trên, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính
mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ
sở hữu đối với tổ chức phát hành.
Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong
các loại thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về
giá. Giá mua bán hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.


4


Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị
trường sơ cấp hay ở thị trường thứ cấp, tại Sở giao dịch hay tại thị trường giao
dịch qua quầy, ở thị trường giao ngay hay ở thị trường kì hạn. Các quan hệ
mua bán trao đổi làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, thực chất đây
chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản
kinh doanh.
Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng
kinh tế nòng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người
tạm thời dư thừa vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được
thể hiện qua sơ đồ H1.1
Tài trợ gián tiếp

Các trung gian tài chính
Vốn

Người cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp

- Ngân hàng thương mại
- Bảo hiểm, quỹ hưu trí
- Tổ chức nhận tiền gửi và
cho vay

Vốn


Người đi vay vốn
1. Hộ gia đình

vố
n

2. Doanh nghiệp

3. Chính phủ

3. Chính phủ

4. Nước ngoài

Vèn

Thị trường tài
chính

4. Nước ngoài
Vèn

- Thị trường tiền tệTài trợ trực tiếp
- Thị trường vốn
Sơ đồ 1: Các dòng vốn qua hệ thống tài chính

5


Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con

đường trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp
từ những người tạm dư thừa vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ.
Hoặc con đường thứ hai để dẫn vốn là thông qua các trung gian tài chính, đây
là một bộ phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào
đầu tư và góp phần tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.
Như vậy, thị trường tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc
tích tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được
xem là đặc trưng cơ bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của
chứng khoán (hàng hoá trên thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư, vì vậy,
TTCK được coi là hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường.
3. Bản chất và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
3.1. Bản chất của thị trường chứng khoán
- Về hình thức: TTCK là nơi giao dịch (SGD) kí kết thực hiện hợp đồng
mua bán các giấy tờ có giá (mua bán chứng khoán) giữa những người môi giới
- Về bản chất: TTCK là thị trường mua bán quyền sử dụng và quyền sở
hữu về vốn (mua bán quyền sử dụng và quyền sở hữu tư bản)
- Về nội dung: lúc đầu thuần túy là thị trường về vốn (mua bán các văn tự
nợ), về sau phát triển thành thị trường đầu tư ( mua bán cổ phiếu là chủ yếu)
3.2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
a. Nguyên tắc trung gian.
Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được thực hiện
thông qua tổ chức trung gian và môi giới là các công ty chứng khoán. Trên thị
trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành
mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua
nghiệp vụ môi giới kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán
giúp các nhà đầu tư, hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và
bán cho các nhà đầu tư khác.

6



Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là
chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi
của các nhà đầu tư.
b. Nguyên tắc định giá.
Việc định giá chứng khoán trên thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào các
nhà trung gian môi giới. Mỗi nhà trung gian môi giới định giá mỗi loại chứng
khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào số cung cầu chứng
khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán được thực hiện thông
qua cuộc thương lượng giữa những người trung gian môi giới cần mua và cần
bán. Giá cả được xác định khi hai bên đã thống nhất.
Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường không ai có thể can
thiệp vào sự tác động qua lại của số cung cầu chứng khoán trên thị trường và
cũng không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán. Vì thế thị
trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất trong các thị trường.
c. Nguyên tắc công khai hoá.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai
hoá về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như
tình hình tài chính về kết quả kinh doanh của công ty phát hành và số lượng
chứng khoán và giá cả từng loại đều được công khai trên thị trường và trong
các báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch số lượng chứng khoán được
mua bán, giá cả từng loại đều được lập tức thông bán ngay. Nguyên tắc này
nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người bán chứng khoán không
bịhớ trong mua bán chứng khoán và người mua chứng khoán dễ dàng chọn
loại chứng khoán theo sở thích của mình.
4. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán:
a. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở

7


các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
b. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với
các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác
nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa
chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
c. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở
hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với
người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư.
TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
d. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản
ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt
động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra
một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
e. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách
nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang
mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho
thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong
vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực
hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua

và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách,
8


biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế.
5. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán ở Việt Nam
5.1.Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán
chứng khoán do mình phát hành cho các nhà đầu tư. Chủ thể phát hành bao
gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và các quỹ đầu tư
a) Chính phủ
Mục đích phát hành của chính phủ là sự bù đắp thiếu hụt của ngân sách
và huy động vốn đẻ tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính
phủ cấp các loại chứng khoán gồm: Trái phiếu chính phủ, Trái phiếu công
trình và Tín phiếu kho bạc.
b) Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp phát hành các chứng khoán để huy động vốn và tăng
vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các Ngân hàng
thương mại. Trong nền kinh tế thị trường có 3 hình thức tổ chức doanh nghiêp
cơ bản đó là: Doanh nghiệp một chủ; Công ty hợp doanh và Công ty cổ phần.
Ở Việt Nam, theo luật doanh nghiệp ban hành năm 1998 và có hiệu lực
năm 1999, chỉ có các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần hoá là tổ chức
được phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu. Doanh nghiệp Nhà nướcvà các công
ty trách nhiệm hữu hạn được phép phát hành trái phiếu để huy động vốn. Các
doanh nghiệp còn lại: Doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty hợp danh
không được phép phát hành bất khì loại chứng khoán nào ra thị trường.
c) Các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành

bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các
loại hình đầu tư khác. Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút
những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh. Đặc trưng cơ bản nhất của quỹ
đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành bằng việc phát hành ra các
9


chứng khoán như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư vừa đóng vai trò là quỹ đầu
tư, kinh doanh các loại chứng khoán. Quỹ đầu tư có nhiều loại mỗi loại sẽ có
phương thức phát hành khác nhau
5.2. Các nhà đầu tư
Là những người thực hiện mua và bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán để kiếm lợi nhuận.
- Nhà đầu tư cá nhân: là các cá nhân và hộ gia đình có vốn nhàn rỗi tạm
thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoánvới mục đích kiếm lợi nhuận
- Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán
chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường.Gồm các thành phần như:ngân
hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư,công ty bảo hiểm, quỹ
tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác.
- Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong các nghiệp vụ chính là
môi giới,quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán
và tự doanh.
5.3. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
- Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường
và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng
khoán trên Sở phù hợp với quy định của pháp luật và UBCK.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các

công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng
khoán được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của các thành viên và các
nhà đầu tư trên thị trường
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ các
chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch
chứng khoán. Ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán đáp ứng
10


đủ điều kiện của UBCK sẽ thực hiện dịch vụ lưu kí và thanh toán bù trừ
chứng khoán.
- Các tổ chức hỗ trợ là tổ chức được thành lập với mục đích khuyến
khích mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua các hoạt động như cho
vay tiền để mua CK và cho vay CK để bán trong các giao dịch bảo chứng.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán là tổ chức phụ trợ, phục vụ
các giao dịch chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch
vụ đánh giá năng lực thanh toán khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn theo
những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát
hành cụ thể.
6. Cấu trúc của thị trường chứng khoán.
6.1. Căn cứ vào phương thức giao dịch:
Thị trường chứng khoán tập trung (SGD): Là thị trường chứng khoán
có tổ chức, chứng khoán được sàng lọc, lựa chọn. Giao dịch chứng khoán
được tập trung tại một nơi là sàn giao dịch. Đây là nơi tập trung lệnh mua và
bán để ghép lệnh. Lệnh mua ghép với lệnh bán hình thành giá. Sàn giao dịch
chứng khoán có thể là tổ chức phi lợi nhuận hoặc là công ty cổ phần. Ở Việt
Nam, sàn giao dịch chứng khoán là công ty TNHH một thành viên
Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): Giao dịch chứng khoán ở
đây không tập trung tại một nơi. Giao dịch có thể bằng gặp trực tiếp, bằng

điện thoại hay qua mạng. Giá theo phương thức thỏa thuận.
So với thị trường chứng khoán phi tập trung, giao dịch ở sàn giao dịch được
tổ chức quản lí chặt chẽ hơn, tính thanh khoản cao hơn; nhưng số lượng loại
cỏ phiếu và tổng giá trị giao dịch lại thường nhỏ hơn.
6.2. Căn cứ vào tính chất chứng khoán giao dịch:
Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua
bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.

11


Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và
mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái
phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường chứng
khoán phái sinh, bao gồm thị trường hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa
chọn,… Đây là thị trường cấp cao mua bán chuyển giao các công cụ tài
chính cấp cao; Do đó thị trường này chỉ xuất hiện ở các nước có thị
trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao.
6.3. Căn cứ vào sự lưu chuyển vốn:
Thị trường chứng khoán sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng
khoán phát hành lần đầu. Việc phát hành phải thông qua bảo lãnh. Giá do
tổ chức phát hành quy định. Thị trường chứng khoán sơ cấp trực tiếp
mang lại vốn cho công ty. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được
chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng
khoán mới phát hành.
Thị trường chứng khoán thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán
đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Vốn trên thị trường chứng
khoán thứ cấp không vào công ty phát hành. Giá phụ thuộc vào cung cầu
(thông qua đấu giá, đấu lệnh…) Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh

khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được
phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các
mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng
năm, hưởng chênh lệch giá.
 Vai trò của TTCK
Xu thế hội nhập và quốc tế hoá nền kinh tế đòi hỏi tự bản thân mỗi
quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Một thị
trường tài chính năng động có khả năng làm tăng thêm sức mạnh cho nền
kinh tế hơn bất cứ một loại tài nguyên nào, mà trong đó TTCK là một định
12


chế tài chính rất quan trọng. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế
giới đã khẳng định vai trò quan trọng của TTCK trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các công cụ
có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời
hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Yếu tố thông tin
và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một
cách có hiệu quả.
Thứ hai, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Với
cơ chế thông tin hoàn hảo đã tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã
làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, đảm bảo phân bổ lợi ích
một cách hài hoà giữa người sở hữu, nhà quản lý và người làm công ăn lương.
Đồng thời, TTCK đã tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN.
Thứ ba, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông
qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng,
từ đó phân tán quyền lực kinh tế trong tay một số tập đoàn, tránh hiện tượng
độc quyền, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải toả tập

trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó
tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các
nguồn tài chính để phục vụ cho các mục đích của mình mà không tạo áp lực
về lạm phát, hơn nữa, hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho
Nhà nước, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính
tiền tệ của Chính phủ.
Thứ năm, việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc
tế hoá TTCK. Điều này cho phép các công ty có thể huy động được một
lượng vốn đầu tư lớn ở thị trường ngoài nước, bên cạnh đó mở rộng các cơ

13


hội kinh doanh cho các công ty trong nước, cho phép các công ty có thể huy
động nguồn vốn được rẻ hơn.
Thứ sáu, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh
doanh trong tương lai. Việc giá chứng khoán lên xuống có xu hướng đi trước
chu kỳ kinh doanh đã đưa ra một dự báo giúp cho Chính phủ và các công ty
có kế hoạch phân bổ các nguồn lực của họ. Như vậy, TTCK cũng tạo điều
kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên, hoạt động của TTCK cũng có
những tác động tiêu cực nhất định. Ta biết rằng, thị trường hoạt động dựa trên
cơ sở thông tin hoàn hảo, tuy nhiên ở hầu hết các thị trường không phải nhà
đầu tư nào cũng có khả năng tiếp cận thông tin đầy đủ và như nhau, vì vậy
việc đưa ra các quyết định đầu tư không hoàn toàn dựa trên việc xử lý thông
tin, dẫn tới việc giá cả chứng khoán không phản ánh chính xác giá trị công ty
và chưa phân bổ một cách hiệu quả các nguồn lực. Ngoài ra, còn có một số
hiện tượng tiêu cực khác trên TTCK như hiện tượng đầu cơ, mua bán nội

gián, xung đột quyền lực…gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư. Thực tế này
đặt lên vai các nhà quản lý thị trường phải có những biện pháp hiệu quả để
giảm thiểu đến mức tối đa các tiêu cực trên thị trường nhằm đảm bảo cho tính
hiệu quả của thị trường, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư.
Như vậy ta thấy vai trò của TTCK đã được thể hiện dưới nhiều góc độ
khác nhau. Vai trò này có thực sự được phát huy hay không nó phụ thuộc vào
sự quản lý của Nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường.

14


PHẦN B: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
I.TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK VIỆT NAM (TỪ 2007 - 2010)
1. Tình hình niêm yết chứng khoán:
Thị trường chứng khoán VN bắt đầu hoạt động từ năm 2000, khởi thuỷ
là sự kiện thành lập Trung tâm chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11 tháng
7 năm 1998 theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và thực hiện phiên giao
dịch đầu tiên vào ngày 28 tháng 07 năm 2000. Trong khi đó, trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội thành lập vào ngày 08 tháng 03 năm 2005. Tiếp sau
là các sự kiện thành lập Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11
tháng 05 năm 2007 theo Quyết định số 599/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
Phủ và Sở giao dịch Hà Nội trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Khởi thuỷ, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ có 2 mã Cổ phiếu
niêm yết là SAM và REE, đến năm 2005, số công ty niêm yết đã lên 32 công
ty, cho đến nay, số lượng đã vượt qua con số 300, gồm các loại chứng khoán
và chứng chỉ quỹ tổng trên cả 2 sàn niêm yết, với giá trị lên đến hàng nghìn tỷ
đồng. Tuy có những tình hình phát triển khả quan như vậy về số lượng, nhưng
về mặt giá trị thì tuy có gia tăng nhưng đã gây ra những biến động thăng trầm
có những lúc đến không ngờ, và nếu không thoát khỏi thị trường kịp thời

trong những lúc giảm điểm kịp thời thì các nhà đầu tư cũng sẽ gặp những rủi
ro về vốn của mình.
2. Tình hình giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động được 10 năm, trải qua
nhiều thăng trầm, nhưng có thể nói những diễn biến trong giai đoạn từ 2007
đến 2010 là đầy biến động nhất và nhiều sự kiện nhất. Tuỳ theo giá trị về vốn
chủ sỡ hữu mà các công ty có thể niêm yết Cổ phiếu của mình ở những thị
trường Hà Nội, vốn dưới 80 tỷ hay là TP. Hồ Chí Minh, vốn trên 80 tỷ.

15


Tình hình giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian
qua, đặc biệt là từ những năm 2007 đến 2010 cực kỳ sôi động, các công ty
đại chúng, các tập đoàn tài chính, đặc biệt là lĩnh vực Ngân hàng và Bảo
hiểm cũng thay nhau lên sàn. Đến thời điểm hiện nay, ở mỗi sàn giao dịch,
tổng giá trị giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Ngày trước, các công ty
niêm yết chủ yếu là những công ty vừa cổ phần hoá, tham gia niêm yết vì sự
kêu gọi từ phía Nhà nước; còn bây giờ Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ
Chí Minh liên tục thông báo nhận hồ sơ niêm yết từ nhiều công ty từ các đô
thị lớn đến các tỉnh xa, từ công ty tư nhân cho đến các công ty có gốc là
doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng còn những
hạn chế nhất định. Có những ý kiến cho rằng cơ sở pháp lý và điều kiện quản
lý hiện nay chưa thực sự giúp thị trường đủ lớn mạnh và được như mong
muốn của những công ty niêm yết, đó là làm sao để doanh nghiệp, kể cả ngân
hàng, khi cần vốn có thể tìm đến thị trường chứng khoán. Đến ngày hôm nay,
thị trường chứng khoán vẫn chủ yếu là giao dịch cổ phiếu có sẵn, còn những
giao dịch gọi vốn qua thị trường để thay thế nguồn vốn ngân hàng thì vẫn
chưa nhiều, do đó chúng ta cần có những giải pháp căn cơ hơn để giải quyết

vấn đề cốt yếu này để thị trường phát triển và tăng quy mô của thị trường lên,
đáp ứng đúng mục tiêu huy động vốn của thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Tình hình biến động chỉ số VN-Index:
Theo đà thăng trầm của tình hình niêm yết và tình hình giao dịch trên
thị trường chứng khoán Việt Nam, (thì chỉ số VN-Index, chỉ số giao dịch
chứng khoán Việt Nam HOSE-index tại sàn TP. Hồ Chí Minh và chỉ số
HNX-Index, chỉ số tại sàn giao dịch Hà Nội, cũng có những biến động không
ngừng và hầu như hai chỉ số này luôn luôn biến động cùng chiều với nhau)
hai chỉ số này hầu như luôn biến động.
Có thể nhìn lại diễn biến chỉ số VN- Index trong mười năm qua để thấy
hết thăng trầm. Chỉ non 01 năm sau khi mở cửa thị trường, vào tháng 0616


2001, chỉ số này đã leo lên 571 điểm. Ở giai đoạn tốt đẹp này, với sự chào
đón nồng nhiệt của công chúng đầu tư trong điều kiện hiếm hàng (do có ít
công ty niêm yết), thị trường nóng lên là không có gì khó hiểu. Chính cái bẫy
tăng nóng, tình trạng thiếu đáp ứng nhiều mặt, cùng sự thoả mãn, thất vọng và
sợ hãi đan xen vào thời kỳ sơ khai này đã kéo thị trường xuống đáy sâu chưa
đầy hai năm sau đó. Hậu quả là VNI-Index rớt liên tục xuống còn 139 điểm
vào tháng 4-2003. Vào giai đoạn bỉ cực này, có lúc cả cổ phiếu tên tuổi cũng
bị đẩy xa về phía dưới mệnh giá. Từ đó, thị trường rơi vào giai đoạn ngủ đông
cho đến hết năm 2005.
Sau đó, thị trường lại ấm lên vào năm 2006, rồi sốt cao, đỉnh điểm là
chỉ số VNI-Index cao nhất từ trước đến nay 1.170 điểm vào tháng 03-2007,
một chỉ số kỷ lục mà mãi cho đến nay vẫn chưa tìm thấy được. Sự hưng phấn
quá trớn này làm cho mọi người cứ nghĩ đó là xu thế, là quy luật, để rồi đoán
non đoán già rằng VNI-Index sẽ còn vượt lên trên 2000 điểm! Thật may là
điều đó đã không xảy ra. Thay vào đó là giai đoạn điều chỉnh dài ngày, ảm
đạm suốt năm 2008, và chỉ dừng lại ở cái đáy sâu 235 điểm vào tháng 2-2009.
Thị trường trong những gia đoạn ảm đạm đã tụt đốc không phanh, có

thể quy cho một số tác động kinh tế, bởi lúc này, khách quan trên thế giới đã
xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới do Mỹ châm ngòi, tạo ra những tác
động tiêu cực trên toàn thế giới về kinh tế nói chung và thị trường chứng
khoán nói riêng. Tuy vậy, điều đáng nói ở đây chính là thực tế lúng túng trong
cách ứng phó và các áp đặt mang tính hành chính từ phía các nhà quản lý thị
trường, được cho là đã gây nên tình trạng thị trường có lúc như bị mất lửa.
Bảng điện tử đỏ đều suốt tháng, bi quan lây lan bao trùm, tình trạng tháo lui
khỏi thị trường diễn ra tràn lan…Thế nhưng, vào thời điểm vắng lặng làm cho
không ít nhà đầu tư rời bỏ thị trường với nỗi lo “sập sàn” thì thị trường như
bừng tỉnh lại. Trong vòng bảy tháng, từ tháng 3 đến 10-2009 thị trường đã
tăng ngoạn mục từ 235 đến 633 điểm. Không ít nhà đầu tư đã tận dụng cơ hội
này để kiếm lại những gì đã mất trước đó.
17


Có thể nói tóm lại rằng, thị trường chứng khoán lắm thăng trầm nhưng
cũng không kém cuốn hút. Chỉ tính ba năm gần đây thôi đã có bốn thời đoạn
vui buồn kịch tính: hoành tráng 2007, sóng gió 2008, thử thách 2009 và ẩn số
2010. Hy vọng rằng, với những nỗ lực không ngừng nghỉ và tâm huyết của
các nhà quản lý, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có những bước phát
triển tốt hơn trong tương lai.
II. CÁC MẶT HẠN CHẾ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM – NGUYÊN NHÂN.
1. Các mặt hạn chế
Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng thị trường chứng
khoán Việt Nam còn non trẻ nên còn có một số hạn chế sau:
+ Sự tăng trưởng của thị trường chưa bắt nguồn từ động cơ tích cực khi
nhà đầu tư còn chạy theo phong trào, thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư dài
hạn. Số lượng nhà đầu tư còn hạn chế so với tiềm lực dân số và tiềm năng về
vốn của nền kinh tế, số lượng nhà đầu tư nước ngoài chưa nhiều và nhà đầu tư

có tổ chức còn rất hạn chế. Các nhà đầu tư trong nước đa số hiểu biết chưa
thật đầy đủ về cơ chế hoạt động của TTCK, tầm nhìn chiến lược còn ngắn
hạn. Mặt khác còn do sự thiếu trung thực trong việc cung cấp thông tin của
các công ty, đã làm cho không ít nhà đầu tư không còn đủ tin cậy để sử dụng
các thông tin này trong việc ra quyết định. Từ đó xuất hiện một số nhà đầu tư
“chơi chứng khoán” như đánh bạc, họ sẵn sàng dốc hầu bao của mình ra để
thử vận may. Hậu quả là số lượng các hộ gia đình đã lâm vào tình trạng phá
sản do đầu tư chứng khoán theo kiểu đánh bạc rất lớn.
+ Tính thanh khoản thị trường thấp dẫn đến mất cân đối cung – cầu, làm
cho giá cả biến động thất thường. Tính thanh khoản của chứng khoán là khái
niệm thể hiện khả năng chuyển đổi dễ dàng từ tiền sang chứng khoán và
ngược lại. Thị trường có những lúc không thể hiện đúng giá trị của nó. Giá
chứng khoán bị thổi phồng theo tin đồn mà không phải căn cứ vào tình hình
tài chính thực sự của công ty, đương nhiên sẽ nhanh chóng bị xẹp xuống khi
18


có tin đồn xấu. Thị trường thiếu những công ty hoạt động thực sự hiệu quả, có
tầm nhìn chiến lược dài hạn, các “blue chip” khá ít ỏi đã khiến cho thị trường
có tính thanh khoản kém, khó ổn định trước những cơn bão tài chính.
Biên độ giao dịch chứng khoán hiện nay trên các sàn có sự chênh lệnh
khá lớn (HOSE với biên độ 5%, HNX với 7% và Upcom là 10%). Điều này sẽ
dẫn đến tình trạng đầu cơ gia tăng khi thị trường có biến động mạnh.
+ Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ cho hoạt động của thị trường
còn nhiều hạn chế. Khung pháp lý của thị trường còn nhiều bất cập khi mà
luật chứng khoán đã ban hành song chưa đầy đủ ở một số hành vi như: giao
dịch khống, giao dịch tín dụng, giao dịch các sản phẩm phái sinh. Các hành vi
tiêu cực xảy ra trong các hoạt động kinh doanh đầu tư chứng khoán bị xử phạt
theo luật chứng khoán là chưa thích đáng với mức độ gây hại của nó. Theo
thống kê của Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM trong năm 2007 có các

hành vi tiêu cực sau:
Có 135 công ty chứng khoán vi phạm khi đặt lệnh: Hủy lệnh trong cùng
đợt khớp lệnh, đặt mua vượt quá tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài…
Giao dịch của các cổ đông lớn không báo cáo.
Giao dịch của những người liên quan không công bố thông tin.
Nhân viên công ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại
công ty chứng khoán khác.
Nhiều người mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán khác nhau.
Trong năm 2008 thì số trường hợp vi phạm là 137.
Đã có một số vụ thao túng thị trường và giao dịch nội gián. Điển hình là
vụ thao túng thị trường đối với các cổ phiếu của Công ty kỹ nghệ khoáng sản
Quảng Nam (MIC), Công ty cổ phần Vincom (VIC), Công ty cổ phần
Vinpearland (VPL), vụ thao túng thị trường đối với cổ phiếu của các công ty
cổ phần xi măng Cần Thơ (CCM), vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu của
các công ty, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre (FBT),

19


Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức (TDH), Công ty cổ phần khoáng sản
Hà Nam (KSH).
Tuy nhiên mức xử phạt hiện hành theo Nghị Định 36/2007/NĐ-CP chỉ
dừng lại ở mức xử phạt hành chính tối đa là 70 triệu đồng. Điều này thật sự
chưa hợp lý vì lý do việc thu lợi từ việc vi phạm nhiều hơn so với mức đóng
phạt hành chính. Điều này chưa đủ sức răn đe.
2. Nguyên nhân.
Thứ nhất: Hàng hóa trên thị trường tuy có tăng về số lượng nhưng chưa
đa dạng về chủng loại. Thị trường niêm yết hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái
phiếu và chứng chỉ quỹ, chưa có công cụ phái sinh. Điều này không làm tăng
tính đa dạng trong hoạt động đầu tư. Thiếu công cụ phòng ngừa hạn chế rủi ro

khi thị trường có biến động lớn.
Thứ hai: Các công ty niêm yết phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chưa có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn nên khả năng cạnh tranh
chưa cao nên chưa làm yên lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra công tác quản trị,
chế độ kế toán của các công ty niêm yết có những điểm chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế điều này gây trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Thông
tin chưa minh bạch, chính xác điều này gây mất niềm tin đối với nhà đầu tư.
Thứ ba: Nguồn nhân lực cho hoạt động của thị trường còn hạn chế cả về
số lượng và chất lượng. Phần lớn nhân lực trong lĩnh vực chứng khoán chưa
được đào tạo chính quy và đúng chuyên môn mà từ các lĩnh vực chuyển sang
nên còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cũng như nội dung
đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực chứng khoán còn rất nhiều hạn chế. Hiện
tại, Ủy ban chứng khoán nhà nước là cơ quan duy nhất được phép đào tạo và
cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, do vậy việc đào tạo gì, cấp bằng gì,
chất lượng ra sao không có ai phản biện nên khó nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực này. Ngoài ra việc thanh tra, giám sát hoạt động của công ty chứng
khoán còn lỏng lẻo và chưa triệt để nên sai phạm của các công ty này diễn ra
thường xuyên làm xói mòn niềm tin vào thị trường.
20


Thứ tư: Số lượng công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam so với quy
mô thị trường tương đối nhiều, tuy nhiên còn thiếu về nhiều mặt. Hạ tầng kỹ
thuật của các công ty chứng khoán chưa được đầu tư đúng mức, cho nên các
công ty chứng khoán tuy nhiều nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Phần mềm Giao dịch chứng khoán tại
Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là phần mềm chuyển giao từ Thái Lan
trước đây, khi có sự cố phải mời các chuyên gia Thái Lan sang khắc phục,
gây tốn nhiều chi phí và không mang tính chuyên nghiệp mất nhiều thời gian
để chuyên gia Thái Lan sửa lỗi. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng

kiến nhiều lần “sập sàn” do quy mô giao dịch tăng đột biến những năm 2007.
Tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao. Điều này thể hiện ở thị trường
chưa minh bạch, kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với
nhà đầu tư còn hạn chế, pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán chưa ổn định…
Thứ năm: Hiện trung tâm lưu ký quản lý tài khoản trực tiếp của công ty
chứng khoán mà chưa quản lý cụ thể đến từng nhà đầu tư. Điều này không
kiểm soát được việc nhà đầu tư mở một lúc nhiều tài khoản qua nhiều công ty
chứng khoán khác nhau. Quan trọng hơn chính vấn đề này nhiều công ty
chứng khoán có cơ hội vi phạm như dùng đòn bẩy tài chính, bán chứng khoán
ngày T, T+1, T+2, phân bổ chứng khoán của công ty chứng khoán cho nhà
đầu tư không chính xác, điều này gây nên sự những nhiễu và bất lợi cho nhà
đầu tư nhỏ.
3. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam.
3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày
28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính
phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng
khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các
điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ chức và quản lý nhà nước về
21


chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ
chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của các nhà đầu tư.
UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ, có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của một cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK;
quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK.

Với Nghị định số 90/2003/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 12/8/2003
thay thế Nghị định số 75/CP, UBCKNN có các nhiệm vụ, quyền hạn:


Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được
Thủ tướng Chính phủ phân công ký các văn bản quy phạm pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán và tổ chức thực hiện các văn bản
đó;



Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch,
các chương trình, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm và các dự án quan
trọng của UBCKNN; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, chương
trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt;



Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu
chuẩn, quy trình, quy phạm chuyên môn nghiệp vụ và định mức kinh tế kỹ thuật được áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định
của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;



Cấp, gia hạn, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép phát hành, niêm
yết, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, hành nghề kinh doanh chứng
khoán theo quy định của pháp luật;




Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt
động hoặc giải thể Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch
Chứng khoán, các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức;

22




Tổ chức, quản lý Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao
dịch Chứng khoán và các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, các
trung tâm lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán;



Quản lý các hoạt động liên quan đến thị trường chứng khoán của
tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức niêm yết chứng khoán, tổ chức
kinh doanh chứng khoán và tổ chức phụ trợ theo quy định của pháp luật;



Thanh tra, kiểm tra và giám sát các đối tượng tham gia hoạt động
trên thị trường chứng khoán và xử lý các vi phạm về chứng khoán và thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;



Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo
quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng
thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo yêu cầu của

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;



Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức hiệp hội chứng khoán
thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra
thực hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của hiệp hội chứng khoán
theo quy định của pháp luật;



Tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường
chứng khoán; đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên
chức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các đơn vị trực thuộc, nhân
viên kinh doanh chứng khoán và các đối tượng tham gia thị trường chứng
khoán;



Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng
khoán và thị trường chứng khoán cho các tổ chức và cho công chúng;



Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;




Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành
chính của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo mục tiêu và nội dung

23


chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt;


Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ,
công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước;



Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân
sách được phân bổ theo quy định của pháp luật;



Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của UBCKNN theo Nghị định 90/2003/NĐ-CP của

Chính phủ:

24





Lãnh đạo UBCKNN:
o

Chủ tịch, các Phó Chủ tịch;

o

Các Uỷ viên kiêm nhiệm cấp Thứ trưởng Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;



Các tổ chức tham mưu giúp Chủ tịch UBCKNN (Chủ tịch)
thực hiện quản lý các lĩnh vực về chứng khoán và TTCK:

25


×