Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Phương thức lãnh đạo của huyện uỷ đối với chính quyền cấp huyện ở mê linh hà nội hiện nay luận văn cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.45 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ MINH KIÊN

PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN ỦY
ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN
Ở MÊ LINH - HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ MINH KIÊN

PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN ỦY
ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN
Ở MÊ LINH - HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành : Chính trị học


Mã số

: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: NGƯT. TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

NXB


:

Nhà xuất bản

TNCS

:

Thanh niên cộng sản

TW

:

Trung ương

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong công cuộc đổi mới,
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
ngày càng không ngừng được củng cố và nâng cao. Có được kết quả đó trước

hết là do Đảng đã có đường lối chính trị đúng đắn và phương thức lãnh đạo
phù hợp để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực, thành hành
động thực tế của tồn dân, của hệ thống chính trị, tạo nên những thắng lợi vẻ
vang. Tuy nhiên, trong thời gian qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Điều đó làm ảnh
hưởng khơng tốt đến năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, sự phát triển
của tình hình và nhiệm vụ mới đang đặt ra vấn đề đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với toàn xã hội, đặc biệt là đối với Nhà nước. Đây là vấn đề
đang được quan tâm sâu sắc của các cấp uỷ đảng, trước hết là Ban chấp hành
Trung ương.
Ở phạm vi của từng địa phương, vấn đề phương thức lãnh đạo của
Đảng cũng đang rất được quan tâm. Bối cảnh xã hội nói chung và thực tế ở
từng địa phương trong q trình đổi mới có nhiều biến đổi. Trong bối cảnh
đó, nếu phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền vẫn giữ ngun
như cũ thì sẽ làm giảm hiệu quả lãnh đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu phương
thức lãnh đạo của Đảng là yêu cầu cần thiết từ cấp Trung ương đến các cấp ở
địa phương. Do đó, việc tìm hiểu về phương thức lãnh đạo của Đảng ở cấp
huyện đối với chính quyền cũng là điều cần thiết đối với Huyện ủy Mê Linh Hà Nội
Trong những năm qua, Huyện uỷ Mê Linh đã xác định vai trị lãnh đạo
đối với chính quyền huyện thông qua Quy chế làm việc của Ban Chấp hành


2

Đảng bộ huyện ở từng nhiệm kỳ. Huyện ủy cũng xác định rõ việc đảm bảo
thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
không bao biện làm thay, không buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Huyện ủy
cũng xác định nhiệm vụ và quyền hạn của mình là nghiên cứu và vận dụng cụ
thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành nghị quyết, chỉ thị
phù hợp với tình hình địa phương và lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu

quả cao. Từ sự lãnh đạo của Huyện ủy, huyện Mê Linh đã đạt được nhiều
thành tựu đáng phấn khởi trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phịng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.
Song thực tiễn lãnh đạo của Huyện ủy đối với chính quyền huyện cũng
còn một số vấn đề cần được làm rõ bởi không phải lúc nào các nghị quyết của
Huyện ủy cũng được Ủy ban nhân dân huyện triển khai, tổ chức thực hiện
một cách có hiệu quả. Tình trạng làm thay, bao biện nhiệm vụ chính quyền
tạo nên tâm lý ỷ lại, hạn chế tính năng động của cơ quan chính quyền vẫn
đang xảy ra. Có những vấn đề Huyện ủy can thiệp quá sâu vào hoạt động của
chính quyền.
Trong bối cảnh đó, cần có sự nghiên cứu về phương thức lãnh đạo của
Huyện ủy đối với chính quyền nói chung và đối với huyện Mê Linh nói riêng
để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đáp ứng yêu
cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Phương thức lãnh đạo của Huyện uỷ đối với
chính quyền cấp huyện ở Mê Linh - Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phương thức lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà
nước từ lâu đã được các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học chú
trọng nghiên cứu. Với nhiều ngành khoa học khác nhau, vấn đề Đảng cầm
quyền, Đảng lãnh đạo được nghiên cứu với những khía cạnh khác nhau.


3

Dưới góc độ Chính trị học, đã có nhiều cơng trình khoa học của các tác giả
nghiên cứu về vấn đề này.
- Nhóm các cơng trình khoa học nghiên cứu về phương thức lãnh đạo
của Đảng ở tầm vĩ mô như: “Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền: Nội dung
và phương thức cầm quyền của Đảng” của GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ

biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011; “Đảng lãnh đạo Nhà nước”
của Trần Đình Huỳnh, NXB Hà Nội, 2001; “Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng” của Trần Đình Nghiêm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
“Thể chế Đảng Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do
Đặng Đình Tân (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2005; “Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở thành phố
Hà Nội” của Vũ Trọng Lâm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2008; “Q
trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-2011)” của TS. Phạm
Ngọc Trâm, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội, 2011; “Cơ chế giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, của GS.TSKH Đào Trí Úc, NXB Chính trị quốc
gia, 2010; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của Thang
Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5-2006; GS. TS Phạm Ngọc Quang
và TS. Ngô Kim Ngân (đồng chủ biên): “Phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007;
“Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đồn thể nhân dân cấp
phường trong điều kiện kinh tế thị trường” của GS.TS Dương Xuân Ngọc
(Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Nhóm cơng trình khoa học nghiên cứu về lý luận Đảng cầm quyền:
“Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004; “Xây dựng Đảng


4

cầm quyền: Một số kinh nhiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam” của Nguyễn
Phú Trọng, Tạp chí cộng sản số 5 - 2004; Một số bài viết trong cuốn “Chính
trị học Việt Nam” của Phân viện Báo chí và tuyên truyền NXB Chính trị quốc

gia, Hà nội, 2005; “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính
trị Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Hữu Đổng (chủ biên), NXB Chính
trị quốc gia, Hà nội, 2010; “Hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc điểm, xu hướng và
giải pháp”, của Vũ Hồng Cơng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011): Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền:
Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà
nội; Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (đồng chủ biên) (2010): Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và
thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nhóm cơng trình khoa học nghiên cứu về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước; của Tỉnh ủy đối với chính quyền tỉnh.
“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Tâm
(Luận văn thạc sỹ chính trị hoc);
“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ với Uỷ ban nhân dân tỉnh từ
thực tiễn Tiền Giang” của Xuân Tế - Ngọc Chung (Tạp chí Xây dựng Đảng
tháng 9-2006);
“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với chính quyền tỉnh
Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay”của Phạm Thị Thúy (Luận văn thạc sỹ).
- Các văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, IX, X, XI;
các văn kiện đại hội đảng bộ huyện Mê Linh lần thứ V, VI,VII, VIII; báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới, NXB Chính trị
quốc gia, Hà nội, 2005;
- Một số văn bản của Thành ủy Hà Nội; Huyện ủy, UBND huyện Mê Linh:


5

+ Thành ủy Hà Nội: Chương trình số 01-Ctr/TU ngày 18/8/2011 về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất

lượng đội ngũ đảng viên; năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính
quyền; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
các cấp giai đoạn 2011 - 2015; Thành ủy Hà Nội: Chương trình số 08Ctr/TU ngày 18/10/2011 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách
nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai
đoạn 2011 - 2015”
+ Huyện ủy Mê Linh - 2010: Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện lần thứ IX; Huyện ủy Mê Linh - 2010:chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX; Huyện ủy Mê
Linh - 2010: Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX.
+ Ủy ban nhân dân huyện Mê Linh: Quy chế làm việc của Uỷ ban nhân
dân huyện Mê Linh nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Mặc dù với góc độ và phạm vi đề cập khác nhau song các tác giả đều
có sự tương đồng khi đề cập đến khái niệm, quan niệm về Đảng lãnh đạo,
Đảng cầm quyền và sự cần thiết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
trong thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập và đổi mới đất nước.
Tuy nhiên các đề tài trên mới chỉ đề cập đến đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; của tỉnh ủy đối với chính quyền tỉnh,
chưa có đề tài nào nghiên cứu về đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện
ủy đối với chính quyền cấp huyện, đặc biệt là của huyện ủy Mê Linh đối
với chính quyền cấp huyện. Những cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tài
liệu hết sức quan trọng để tác giả kế thừa, sử dụng làm tư tiệu phục vụ cho
quá trình nghiên cứu của mình, giúp q trình nghiên cứu của mình có cơ
sở khoa học hơn.


6

3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên của cứu đề tài
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo, cụ thể là Đảng lãnh đạo Nhà

nước, đề tài làm rõ những thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Huyện uỷ
đối với chính quyền cấp huyện ở Mê Linh, từ đó gợi mở một số giải pháp đổi
mới sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với cơ quan chính quyền trong tình hình
hiện nay nhằm tăng cường vai trò và hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Huyện
uỷ đối với chính quyền cấp huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài sẽ tập trung làm rõ những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nội
dung phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với chính quyền cấp huyện.
- Làm rõ thực trạng về phương thức sự lãnh đạo của Huyện ủy đối với
chính quyền cấp huyện ở Mê Linh
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới
phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với chính quyền cấp huyện ở Mê
Linh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với chính quyền
cấp huyện ở Mê Linh (đối với Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân huyện).
4.2. Giới hạn nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với
chính quyền cấp huyện ở Mê Linh dưới góc độ chính trị học từ năm 2008
đến nay.


7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước về sự lãnh đạo của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, phương pháp nghiên cứu được sử dụng là:
phương pháp lôgic - lịch sử; phương pháp so sánh; phân tích - tổng hợp, điều
tra xã hội học...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với
chính quyền cấp huyện ở một địa phương cụ thể (huyện Mê Linh - Hà Nội
trên phương diện Chính trị học góp phần làm rõ lý luận về sự lãnh đạo của
huyện uỷ đối với cơ quan chính quyền cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 7 tiết.


8

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG
1.1. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
1.1.1. Phương thức lãnh đạo
- Phương thức
Theo Từ điển tiếng Việt, phương thức được hiểu là “phương pháp và
hình thức tiến hành” [34, tr.1352] một cơng việc hoạt động nào đó. Phương
pháp là “cách thức tiến hành để có hiệu quả cao” [34, tr.1351]. Phương pháp

càng đúng thì kết quả cảng cao, cùng một kết quả nhưng có thể có nhiều
phương pháp khác nhau. Chủ thể hành động có thể xây dựng và sử dụng
phương pháp thích hợp. Cịn hình thức được hiểu là “cái bên ngồi cái chứa
đựng nội dung” [34, tr. 809], hình thức là biểu hiện ra bên ngoài của nội dung.
Như vậy, phương thức là hình thức của phương pháp mà chủ thể thực
hiện một hoạt động (nhận thức hoặc thực tiễn) cụ thể theo mục tiêu đã được
xác định. Qua phân tích trên có thể thấy, phương thức là sự kết hợp giữa
phương pháp để tiến hành một công việc, nội dung, hoạt động cụ thể với
những hình thức thích hợp nhằm đạt được mục tiêu mà chủ thể đặt ra. Nhờ có
phương thức mà các hoạt động được tiến hành theo một trật tự, một lơgíc nhất
định nhằm đạt được hiệu quả cao nhất mà chủ thể hoạt động mong muốn.
- Lãnh đạo
Lãnh đạo là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong khoa học
về tổ chức - nhân sự. Từ ngàn xưa, hoạt động của con người luôn gắn liền với
tính cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội dù ở quy mơ nào cũng địi hỏi phải
được tổ chức và được quản lý. Chính vì vậy, quan hệ lãnh đạo và chịu sự lãnh


9

đạo là quan hệ chính yếu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cho
nên, vấn đề lãnh đạo và quản lý đã trở thành đối tượng nghiên cứu, bàn luận
của các nhà tư tưởng, các nhà chính trị. Thơng thường, khi nói đến lãnh đạo,
người ta hay nghĩ đến vai trò của những cá nhân đầy quyền lực, tác động
mạnh mẽ vào tổ chức mà người đó đứng đầu và thường là trên phạm vi quốc
gia. Cách hiểu trên đây thiên về hướng đồng nhất sự lãnh đạo nói chung với
vai trị lãnh đạo của các vĩ nhân, thường được thể hiện trong các học thuyết
trước học thuyết Mác.
Mặc dù các học thuyết chính trị xã hội khác nhau có nêu ý niệm về
lãnh đạo, nhưng nó chỉ thực sự được mổ xẻ vào những thế kỷ gần đây, nhất là

ở thế kỷ XX. Phần lớn các nghiên cứu cũng chỉ chú trọng vào hiệu quả lãnh
đạo và do đó, tập trung giải thích về năng lực, hành vi, phẩm chất và những
yếu tố liên quan (tính mục đích, ý chí kiên cường, lịng can đảm, lịng nhân ái
và lịng tốt, chính trực và lương thiện, tính khiêm nhường, cơng bằng và bình
đẳng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý, phát triển đội ngũ lãnh đạo…) xác
định khả năng của người lãnh đạo ảnh hưởng tới người khác nhằm đạt tới các
mục tiêu của tổ chức. Từ những năm giữa thế kỷ XX, các nước trên thế gới đã
xuất bản rất nhiều cơng trình nghiên cứu về lãnh đạo, quản lý. Ở nước ta, mãi
tới những năm gần đây mới xuất hiện những đầu sách, chuyên luận bàn về
lãnh đạo, quản lý. Trong nhiều cơng trình, các tác giả chỉ ra rằng, thuật ngữ
lãnh đạo tương đồng với các khái niệm: “chỉ huy”, “soái lĩnh”, “trị nước”,
“cầm quân”, “tiết chế”, “tư lệnh”, “cai quản”, “cai trị”, “đầu lĩnh”, “tướng
lệnh”, “quân lệnh”, “dụng nhân”, “kinh bang tái thế”, “bá đạo, vương đạo”,
… Có người làm rõ nội hàm của khái niệm: “Lãnh đạo là sự ảnh hưởng (tác
động) mang tính tương tác, được thực hiện trong một tình huống, được chỉ
đạo, thơng qua q trình thơng tin để đạt tới những mục tiêu cụ thể”
(Tannenbaum, Weschler và Masarik, 1961); “Lãnh đạo là quá trình ảnh


10

hưởng tới những hoạt động của nhóm có tổ chức để đạt tới mục tiêu" (Rauch
và Behing, 1984).... Từ đó, các tác giả đã đưa ra một số khái niệm:
- Lãnh đạo là một chức năng hoạt động xã hội của con người (cá nhân
hay tập thể) bằng phương pháp tác động, gây ảnh hưởng, thuyết phục (một cá
nhân, một tập thể, một cộng đồng xã hội, một dân tộc) nhằm tổ chức các mối
quan hệ, tập hợp các thành viên để huy động mọi khả năng và ý chí của họ
hành động đạt nhưng mục tiêu chung đã xác định
- Hay lãnh đạo là một quá trình ảnh hưởng mang tính xã hội trong đó
lãnh đạo tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của

tổ chức.
- Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân
hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức.
- Lãnh đạo được miêu tả là một quá trình ảnh hưởng xã hội cái mà một
người có thể tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ của những người khác nhằm đạt
được thành công cho một mục tiêu chung. Tất nhiên cũng xuất hiện nhiều
cách lí giải khác sâu hơn.
Nói khái quát nhất, Lãnh đạo là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa một
chủ thể nhất định, gọi là chủ thể lãnh đạo đối với chủ thể khác gọi là chủ
thể bị lãnh đạo hay đối tượng lãnh đạo, trong đó chủ thể lãnh đạo có khả
năng tác động vào đối tượng lãnh đạo, làm cho đối tượng thực hiện theo ý
muốn của chủ thể lãnh đạo, từ đó chủ thể lãnh đạo đạt được mục tiêu nhất
định. Lãnh đạo chính là: "đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên
thực hiện”.
Trên địa hạt chính trị, khái niệm lãnh đạo gần đồng nghĩa với quyền lực
chính trị, tức là “quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp, tập đoàn
xã hội (hoặc của nhân dân - trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội), nó nói lên
khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình”. Trên nền nhận thức


11

chung về khái niệm lãnh đạo, nhiều tác giả đã đề cập đến khái niệm lãnh đạo
trong chính trị: khái niệm đảng lãnh đạo - đảng cầm quyền. Ở đây, chúng ta
xét đảng lãnh đạo trong điều kiện đã giành được chính quyền. Do đó, đảng
lãnh đạo được hiểu là đảng cầm quyền.
Theo cách hiểu phổ biến trên thế giới hiện nay, đảng cầm quyền là
đảng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Trên cơ
sở đó, đảng đứng ra thành lập chính phủ và đưa ra các quyết định chính sách
dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước, đại diện cho nhân dân. Trong hệ thống

nghị viện, đảng cầm quyền là đảng chính trị hoặc liên minh chính trị chiếm đa
số ghế trong nghị viện. Trong hệ thống này, đảng chiếm đa số ghế trong cơ
quan lập pháp cũng đồng thời là đảng kiểm soát nhánh hành pháp của chính
phủ. Các đảng cịn lại sẽ trở thành đảng đối lập. Trong hệ thống tổng thống,
ứng cử viên tổng thống của đảng nào được người dân lựa chọn thơng qua
cuộc bầu cử thì đảng đó được gọi là đảng cầm quyền. Ở những nước có duy
nhất một đảng cộng sản đang nắm chính quyền để lãnh đạo cách mạng thì
đảng cộng sản là đảng cầm quyền.
Như vậy, “Đảng cầm quyền” hay “Đảng lãnh đạo” là đảng nắm giữ
những vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước để kiểm sốt q trình hoạch định
và thực thi chính sách quốc gia. Hoặc đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo
người của mình trong bộ máy nhà nước thực hiện các mục tiêu phát triển của
đảng thông qua các chính sách của nhà nước.
Trong những năm gần đây, nhiều cơng trình nghiên cứu về đảng nói
chung, Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng đã lý giải nhiều về đảng lãnh đạo.
Sự đồng thuận cao về khái niệm đảng lãnh đạo thể hiện ở: tính định hướng
chính trị, tổ chức lực lượng, thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư tưởng
nhằm lôi kéo các tầng lớp khác trong xã hội đi theo và thực hiện những mục
tiêu chính trị của đảng. Đương thời, Lênin cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng


12

còn mềm dẻo hơn nhiều so với việc “chỉ huy nhẹ nhàng của một viên nhạc
trưởng”. Đảng lãnh đạo là việc định hướng chính trị, đề ra chủ trương và
tuyên truyền, cảm hóa, thu hút, lơi cuốn các lực lượng, các tầng lớp, các giới
tham gia thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chính trị ấy. Cịn khi nói đảng
cộng sản lãnh đạo là nói đảng đưa ra những định hướng về quan điểm, nguyên
tắc xây dựng đất nước theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; lựa chọn các nội
dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và vận động, thuyết phục, tổ chức

các tầng lớp nhân dân thực hiện cho bằng được các nội dung ấy.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” chỉ xuất hiện khi đã giành chính quyền,
nó dùng để chỉ vai trị của Đảng khi Đảng đã trực tiếp lãnh đạo, xây dựng Nhà
nước. Chính quyền Nhà nước lúc này hồn tồn đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Khái niệm “Đảng lãnh đạo” có nội dung rộng hơn khái niệm “Đảng
cầm quyền”. Khi đã lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng trở
thành Đảng cầm quyền, tức là Đảng thông qua Nhà nước để thực thi quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Từ khi có chính quyền, Đảng sử
dụng Nhà nước để thực hiện ý chí chính trị của mình, nghĩa là Nhà nước phải
thể chế hoá tất cả quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên, thuật ngữ “Đảng cầm quyền” biểu đạt rõ hơn tính chất toàn diện,
tuyệt đối và trực tiếp sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hiện nay, ở nước ta đang dùng cả hai khái niệm “Đảng lãnh đạo” và
“Đảng cầm quyền” và đều được hiểu là tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội và toàn thể quốc gia - dân tộc đều đặt dưới sự lãnh đạo của một
Đảng chính trị duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn bộ
hệ thống chính trị và cả xã hội nhưng Đảng cũng là một bộ phận của hệ thống
chính trị. Đảng có các tổ chức đảng nằm ngay trong các cơ quan Nhà nước,
các cương vị chủ chốt trong bộ máy Nhà nước ở các cấp phần lớn là đảng
viên và cán bộ đảng. Như vậy, Đảng không chỉ kêu gọi, định hướng chung mà


13

các tổ chức Đảng và đảng viên được Đảng giao nhiệm vụ, đồng thời được
nhân dân trao cho quyền sử dụng các quyền lực Nhà nước để quản lý xã hội.
Song, Đảng cầm quyền khơng có nghĩa là Đảng làm thay cơ quan Nhà nước,
càng không phải là “đảng trị”. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành

động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính
quyền, theo đúng quy trình, thủ tục, pháp luật của Nhà nước. Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân. Nhưng xét về mặt lý luận và chỉ đạo thực tiễn, nhất
là khi nghiên cứu về phương thức lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần có sự phân
biệt một cách tương đối hai thuật ngữ này.
Lãnh đạo là khái niệm có nội dung rộng hơn khái niệm “Phương thức
lãnh đạo”. Phương thức lãnh đạo rất quan trọng; tuy nó tác động vào các đối
tượng khác nhau nhưng lại có ảnh hưởng sâu xa và rộng lớn, có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trước hết, phương thức lãnh đạo có quan hệ đến chính bản thân
Đảng về tất cả mọi phương diện như xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
đến việc hồn thành các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra; đến uy tín chính trị
của Đảng với nhân dân… Thứ hai, phương thức lãnh đạo khơng chỉ có quan
hệ đến bản thân Đảng mà cịn có quan hệ đến các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Một phương thức lãnh đạo không phù hợp sẽ ảnh hưởng rất xấu, có
tác hại khơng nhỏ đến hoạt động của Nhà nước. Chẳng hạn khi Đảng bao biện
làm thay, ôm việc nhỏ, bỏ việc chính trong việc lãnh đạo Nhà nước thì vừa
khơng phát huy được vai trị của Nhà nước, làm cho nó vừa ỷ lại, dựa dẫm,
khơng sử dụng được quyền lực nhà nước để quản lý đất nước một cách có
hiệu lực và hiệu quả, vừa làm cho Đảng khơng hồn thành chức năng lãnh
đạo của mình.


14

Phương thức lãnh đạo là một bộ phận của khoa học lãnh đạo, nó địi hỏi
phải am hiểu và vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học: triết học, tâm lý học,
xã hội học, chính trị học, luật học, sử học, dân tộc học, tin học, văn hoá học…
Phương thức lãnh đạo bao giờ cũng được thực hiện trong một hoàn

cảnh cụ thể với những đối tượng cụ thể, trong những điều kiện cụ thể, do đó,
nó ln có sự thay đổi khi tình hình cách mạng đã thay đổi. Ví dụ như phương
thức lãnh đạo của Đảng khi cịn đấu tranh giành chính quyền khác với phương
thức lãnh đạo khi đã có chính quyền… Nhưng cho dù phương thức lãnh đạo
có sự thay đổi như thế nào thì cũng chỉ nhằm đưa tới giành thắng lợi, đạt được
mục tiêu mà nội dung lãnh đạo đã đề ra. Do vậy, thực chất của phương thức
lãnh đạo là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Phương thức lãnh đạo đúng, đạt hiệu
quả lãnh đạo cao sẽ trở thành nghệ thuật lãnh đạo. Do đó có thể thấy phương
thức lãnh đạo là một hình thức biểu hiện của trình độ khoa học và nghệ thuật
lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Trong hoạt động của Đảng ta, thuật ngữ “phương thức” được dùng đầu
tiên trong Nghị quyết Hội nghị cán bộ miền bắc Đông Dương về cuộc vận
động thi đua ái quốc ngày 25-5-1948. Song ý nghĩa thuật ngữ đã được thể
hiện ngay từ cuốn “Đường cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc viết năm 1927
với tên gọi “cách tổ chức”. Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI
ngày 29-3-1989, thuật ngữ phương thức lãnh đạo được sử dụng với nội dung
đầy đủ, có thể đề cập theo các khía cạnh khác nhau:
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các thành tố trong hệ thống
chính trị: Nhà nước, đồn thể nhân dân, tổ chức xã hội
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước: lập
pháp, hành pháp, tư pháp


15

- Phương thức lãnh đạo trong nội bộ hệ thống đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng bao hàm những nguyên tắc, u cầu
chung đồng thời có những hình thức cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực, từng

cơ quan và thay đổi theo sự phát triển của đường lối, nhiệm vụ cách mạng.
Tóm lại, Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống phương pháp,
hình thức, biện pháp mà Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính trị
và xã hội nhằm đạt được mục tiêu, nội dung lãnh đạo của Đảng.
Phương thức lãnh đạo khơng bao giờ thốt ly khỏi nội dung lãnh đạo,
ngược lại nó phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo. Chính yêu cầu về nội dung
lãnh đạo địi hỏi phải có phương thức lãnh đạo phù hợp để tác động đến đối
tượng nhằm thực hiện nội dung. Tuỳ thuộc vào nội dung và đối tượng lãnh
đạo mà xác định phương thức lãnh đạo. Tuy nhiên, phương thức lãnh đạo
khơng chỉ hồn tồn phụ thuộc vào nội dung mà nó cịn phụ thuộc vào những
yếu tố chủ quan và khách quan như: Tổ chức bộ máy của Đảng và cơ chế vận
hành, mối quan hệ, tác động qua lại giữa các bộ phận trong bộ máy tổ chức
của Đảng; Tổ chức bộ máy của Nhà nước, nguyên tắc phân công và phối hợp
giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và cơ
chế tác động, mối quan hệ qua lại giữa tổ chức, bộ máy của Đảng với các tổ
chức và bộ máy của Nhà nước; Trình độ cán bộ của Đảng; Đạo đức và phong
cách của những người lãnh đạo chủ chốt của Đảng; bối cảnh kinh tế - xã hội
trong nước và thế giới, nhận thức chính trị của quần chúng trong những thời
kỳ lịch sử nhất định…
Trong cuốn Chính trị học Việt đã nêu ra khái niệm về Đảng lãnh đạo
Nhà nước như sau: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ
thống các hình thức, biện pháp, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động
đến đối tượng lãnh đạo của mình là Nhà nước nhằm tập hợp, quy tụ, phát huy
sức mạnh của mọi lực lượng trong hệ thống chính trị và đông đảo nhân dân
để thực hiện thắng lợi đường lối chính trị, nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra.


16

Phương thức lãnh đạo được thực hiện bởi các chủ thể lãnh đạo (tổ chức

Đảng các cấp) sử dụng các hình thức, phương pháp, biện pháp rất đa dạng: sử
dụng các thể chế, các tổ chức bộ máy của Nhà nước, tổ chức và bộ máy của
của các tổ chức xã hội, các hoạt động của bản thân tổ chức Đảng và đảng
viên, thông qua các cá nhân, những người có uy tín trong xã hội (trí thức nhân
sĩ, chức sắc tôn giáo, dân tộc…). Thước đo sự đúng đắn của phương thức lãnh
đạo là sự hoạt động đồng bộ và có hiệu quả của các chủ thể chính trị, của cả
hệ thống chính trị, là hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước, là năng suất và chất
lượng công tác, lao động… được thể hiện ở tiến độ phát triển kinh tế - xã hội
và ở sự đối chiếu với yêu cầu mục tiêu của nội dung lãnh đạo. Uy tín chính trị
của Đảng, sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng cũng chính là biểu hiện kết quả
của phương thức lãnh đạo của Đảng.
1.1.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta
về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, loài người đã xuất hiện những nhà tư
tưởng chính trị lỗi lạc nhất của thời đại. Đó là C.Mác và Ph.Ăngghen. Một
trong những phát kiến vĩ đại nhất của các ông là học thuyết duy vật biện
chứng về lịch sử. Các ông đã chỉ rõ “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày
nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Cuộc đấu tranh ấy dẫn tới sự xác lập và
lần lượt thay thế nhau của các Nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản…
Với quan điểm khoa học lịch sử, C.Mác đã chứng minh quyền lãnh đạo
lịch sử đã chuyển sang tay giai cấp vô sản bởi những lực lượng sản xuất xã
hội, đã phát triển lên đến mức mà giai cấp tư sản khơng có thể chế ngự được
nữa, chỉ cịn đợi đến lúc giai cấp vơ sản đồn kết lại, đoạt lấy những lực lượng
sản xuất đó để thiết lập nên một chế độ đem lại cho mỗi thành viên của xã hội
khả năng tham gia không những vào công việc sản xuất, mà cả vào việc phân


17


phối và quản lý của cải xã hội và nhờ đó tổ chức kế hoạch tồn bộ nền sản
xuất, làm tăng thêm những lực lượng sản xuất và những sản phẩm do lực
lượng sản xuất đó tạo ra đến mức đảm bảo thoả mãn được những nhu cầu hợp
lý ngày càng tăng của mỗi người.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp có tính lịch sử này, giai cấp vơ sản cần
có một đảng chân chính lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên do chưa có
tiền đề khách quan về đảng cầm quyền nên C.Mác và Ph.Ăngghen chưa phát
biểu được những vấn đề cụ thể về đảng trong điều kiện có chính quyền mà chỉ
dừng lại ở việc giai cấp cơng nhân phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo để
giành chính quyền. Vào giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen cịn sống, do giai
cấp vô sản trong thực tế chưa giành được chính quyền và chưa có một nhà
nước của mình nên các ơng chưa có điều kiện đề cập đến và có những quan
điểm cụ thể về vấn đề này. Mác và Ph.ăngghen chủ yếu mới đề cập đến vấn
đề đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến việc hình
thành các Đảng chính trị và các Đảng chính trị đó sẽ đóng vai trị quan trọng
trong đời sống xã hội. Các ơng chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào giành được chính quyền nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực
hiện vai trò lãnh đạo xã hội. Việc xuất hiện Công xã Pari cũng chỉ đủ để các
ơng nêu những kinh nghiệm về giữ chính quyền.
V.I.Lênin (1870 - 1924) đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện
học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vơ sản trong điều
kiện đó. Người đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được để
khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa
cách mạng giải phóng dân tộc. Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, V.I.Lênin đã phát triển một loạt vấn
đề về xây dựng chính quyền xơ viết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật;


18


tiến hành cơng nghiệp hố, điện khí hố tồn quốc; thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa...
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, Lênin đấu tranh không khoan nhượng với
các quan điểm tư sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội “tả”,
“khuynh”, giáo điều,... trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo
vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác. Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác
của Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống lý luận
thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của Lênin
và chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được gọi là
chủ nghĩa Mác – Lênin. Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ
nghĩa Mác – Lênin đã, đang tiếp tục được vận dụng, bổ sung và phát triển
trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các
dân tộc trên thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề Đảng cộng sản cầm quyền nói chung và nội dung, phương thức
cầm quyền (hay phương thức lãnh đạo) của Đảng nói riêng là một trong
những nội dung quan trọng được chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập. Chỉ đến đầu
thế kỷ XX, trong những điều kiện mới, kế thừa những di sản tư tưởng, quan
điểm cơ bản của Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển và có những
luận điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền của Đảng
Ngay từ trước cách mạng thág Mười Nga (năm 1917), Lênin đã cho
rằng, Đảng Bơnsêvích Nga “bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm tồn
bộ chính quyền”. Trong thời kỳ lãnh đạo giành chính quyền và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga, Lênin đã nhiều lần sử dụng trong các bài nói, bài
viết của mình các thuật ngữ, khái niệm như “đảng cầm quyền”, “đảng chấp
chính”, “đảng nắm chính quyền”, “đảng lãnh đạo”… Theo ơng, Đảng cầm
quyền có nghĩa là Đảng lãnh đạo nhà nước hay đảng lãnh đạo nhà nước khi đã



19

cầm quyền. Trong các luận điểm về Đảng cộng sản cầm quyền, Lênin đã đề
cập đến nhiều vấn đề về sự cầm quyền của Đảng, trong đó cốt lõi là nội dung
và phương thức cầm quyền (lãnh đạo) của đảng cộng sản đối với Nhà nước và
xã hội. Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước chính là nói lên các đặc điểm mang
tính bản chất của nền chun chính vơ sản. Trong nền chun chính vơ sản,
nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Trong vấn đề Đảng lãnh đạo, trước hết Lênin đề cập đến mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước và vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng cộng sản
đối với Nhà nước. Chỉ có Đảng cộng sản lãnh đạo, Nhà nước mới đáp ứng
đúng mục tiêu của Đảng là xây dựng được một xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Và để giải quyết được mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước, đáp ứng được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước trong chế độ xã hội mới thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có
sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với chức năng quản
lý của Nhà nước. Vấn đề này đã được Lênin chỉ ra vào thời kỳ trước khi Đảng
công nhân dân chủ xã hội Nga giành được chính quyền.
Vấn đề phân định chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với chức
năng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước được Lênin tiếp tục đề cập, làm rõ và
khẳng định cụ thể hơn sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành cơng, Đảng
cộng sản Nga đã lãnh đạo bộ máy chính quyền Xô Viết thực hiện công cuộc
phát triển kinh tế, xây dựng chế độ xã hội mới. Lênin cho rằng, chừng nào mà
Ban chấp hành Trung ương Đảng và toàn Đảng cịn tiếp tục làm cơng tác
quản lý hành chính, nghĩa là quản lý Nhà nước thì Đảng khơng thể gọi là
người lãnh đạo được. Tại Đại hội lần thứ XI Đảng cộng sản Nga (4-1922), khi
đánh giá về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước lúc đó, Lênin viết rằng:
“Giữa Đảng và các cơ quan Xôviết hiện đã có những quan hệ khơng đúng…
Phải chấm dứt tình trạng là bất kỳ vấn đề vụn vặt nào cũng đưa ra trước Ban



20

chấp hành Trung ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng Bộ trưởng
dân uỷ…” (5,t.45,tr.136-137). Từ đó, Lênin khẳng định nếu cứ lãnh đạo Đảng
bằng cách đó thì sớm muộn cũng đi tới chỗ diệt vong. Vì vậy, để khắc phục
sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước
cần phải phân định rõ ràng nhiệm vụ của Đảng với nhiệm vụ của chính quyền
Xơviết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ Xôviết và các
cơ quan Xôviết, cịn về Đảng thì nắm quyền lãnh đạo chung.
Cùng với việc phân định rõ chức năng, quyền hạn bộ máy của Đảng và
bộ máy của Nhà nước, Lênin cũng chỉ ra rằng, Đảng cộng sản Nga cầm quyền
tức là Đảng khơng chỉ lãnh đạo Nhà nước mà cịn lãnh đạo cả xã hội và việc
nhất thể hoá một số bộ phận hoặc cán bộ lãnh đạo của Đảng và chính quyền
sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của cả Đảng và chính quyền.
Theo Lênin, điều quan trọng là phải nhận thức sâu sắc rằng, Đảng có chức
năng lãnh đạo cịn nhà nước có chức năng quản lý hành chính. Như vậy,
Lênin đã khẳng định rất rõ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Lãnh
đạo là cơng việc có những cách thức khác với quản lý. Quản lý của nhà nước
mang tính chất hành chính, có lúc cần thiết phải sử dụng cả sự cưỡng bức, cịn
lãnh đạo khơng thể có cưỡng bức. Lãnh đạo của Đảng cần đến uy tín và có
sức thuyết phục cao, từ đó mới giữ vững được vai trị cầm quyền của mình.
Theo Lênin, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện chủ yếu
và trước hết ở việc Đảng xác định mục tiêu mang tính chất định hướng trong
các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình. Đồng thời Đảng
cũng phải xác định cả nhiệm vụ cho Đảng và Nhà nước. Trong các nhiệm vụ
ấy, cần phải xác định rõ đâu là nhiệm vụ cấp thiết, đâu là nhiệm vụ mấu chốt.
Và Đảng. đảng chỉ cần định ra các phương hướng, nhiệm vụ chung về các
mặt và nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước không
nên đề ra các nhiệm vụ quá chi tiết, nội dung giải quyết công việc quá cụ thể.



21

Để chuyển tải các nội dung lãnh đạo thành các chính sách của Nhà
nước, tạo ra sức ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng đối với tồn xã hội thì Đảng
cần có phương thức lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt. Và Lênin đã chỉ ra phương
thức lãnh đạo của đảng gồm có:
Một là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng việc đề ra chủ trương, đường lối,
cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Ở vị trí cầm quyền, Đảng có trọng trách là lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội. Những nội dung lãnh đạo được xác định trong các chỉ thị, nghị quyết,
cương lĩnh của Đảng là những vấn đề về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
trong các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội mà Nhà nước là
người có trách nhiệm phải giải quyết thực hiện chúng. Điều đó có nghĩa, với
tư cách Đảng cầm quyền, những nội dung được đề ra bao hàm các vấn đề về
đường lối, quan điểm chính trị và nguyên tắc tổ chức liên quan tới chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, phát triển văn hố giáo dục, quốc phịng- an ninh,
đối ngoại, truyền bá hệ tư tưởng cũng như đào tạo cán bộ, xây dựng bộ máy
nhà nước là thuộc về trách nhiệm của Đảng, còn giải quyết và thực hiện cụ
thể như thế nào là trách nhiệm của Nhà nước. Điều này cũng tức là phải có sự
phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý, giải quyết
các công việc cụ thể của Nhà nước. Đảng không lãnh đạo Nhà nước theo cách
ra mệnh lệnh từ trên xuống, buộc nhà nước phải thực hiện mà lãnh đạo bằng
việc đề ra các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết.
Hai là, Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua tổ chức Đảng, đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng trong bộ máy Nhà nước.
Theo Lênin đây là phương thức lãnh đạo mang tính phổ biến với mọi
Đảng cầm quyền. Tuy nhiên ở mỗi nước tuỳ theo điều kiện cụ thể mà có
những đặc điểm riêng. Ơng cho rằng chỉ có thơng qua đội ngũ đảng viên của

Đảng cầm quyền trong bộ máy nhà nước, mọi hoạt động của Nhà nước mới


×