Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.45 KB, 19 trang )

Đề tài: Cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam


Chương I: Lý luận chung về sở hữu và thành phần kinh tế.
1.Vấn đề sở hữu:
1.1 Hiểu biết chung về sở hữu:
1.1.1. Khái niệm:
-

Chiếm hữu:

Trong quá trình sản xuất, con người phải quan hệ với tự nhiên, chiếm hữu những vật
dụng có sẵn trong tự nhiên, biến đổi những vật liệu đó thành những sản phẩm phù hợp
với nhu cầu của con người.
Chiếm hữu là một phạm trù khách quan là điều kiện trước tiên của hoạt động sản
xuất. Nó thể hiện việc giữ lấy những đối tượng vật chất cần thiết nhằm thoả mãn mục
đích con người. Sự chiếm hữu được thể hiện thông qua những hình thái giao tiếp vật
chất tương ứng với một sự phát triển của sản xuất, mà cụ thể là ở sự phân công lao
động.
Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng ( trước hết là giới tự nhiên) để
tiến hành sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, sự chiếm hữu mang
tính chất tự nhiên, vì không có sự chiếm hữu thì không có sản xuất. Sự chiếm hữu đe
m
lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Những quyền hạn này trên thực tế thường xuyên bị xâm
phạm và lạm dụng, là nguồn gốc gây ra sù tranh chấp trong xã hội. Sản xuất càng phát
triển, lĩnh vực chiếm hữu càng được mở rộng. Những quy định về quyền được thiết
chế tập trung vào một tổ chức để bảo vệ và tiếp tục sự chiếm hữu một cách có hiệu
quả. Tổ chức đó chính là nhà nước và quyền được thiết chế thành luật.
Quyền chiếm hữu là quyền giữ lấy đối tượng sở hữu về mình bao gồm quyền chiếm
hữu hợp pháp và chiếm hữu bất hợp pháp.


Sở hữu được bắt đầu từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất cộng đồng, hình
thái đầu tiên của quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đến hình thái chiếm hữu tự
nhiên mang tính cá nhân, đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách biệt về sở hữu. Đó
là một quá trình diễn ra trong sự tác động trực tiếp của phân công lao động xã hội. Sự


phân công đã làm cho một số thành viên trong cộng đồng được tách ra để tham gi
a
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mới được mở rộng, làm thúc đẩy nên sự hình thành
các hình thức trao đổi khác nhau. Nhưng cũng chính sự phân công với tư cách là sự
tách rời của một số tế bào ra khỏi cơ thể kinh tế đã được hình thành này đã dẫn đến sự
suy giảm về năng lực sản xuất của chính cơ thể Êy. Hệ quả là xuất hiện một " chế độ
sở hữu tách riêng" năng động bên cạnh chế độ sở hữu cộng đồng bảo thủ, đang mất
dần sức sống.
Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải
vật chất của xã hội. Để sinh sống và tồn tại, để sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng con người phải chiếm hữu chinh phục tự nhiên.
Do vậy chiếm hữu biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là hành vi gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các
giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại
Các hình thức chiếm hữu.
• Phân theo chủ thể: chiếm hữu cá nhân và chiếm hữu tập thể.
• Phân theo đối tượng: Chiếm hữu tự nhiên và chiếm hữu xã hội.
• Phân theo lịch sử: chiếm hữu tự nhiên, chiếm hữu nô lệ, chiếm hữu ru
ộng đất, chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
-

Sở hữu.

Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ thể của con người những đối

tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn với
vật dụng (vật chất hoặc tinh thần)-đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời, sở hữu không
chỉ đơn thuần là vật dụng nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì vậy, sở hữu
là hình thức xã hội lịch sử nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là một phạm trù
kinh tế, sở hữu biểu thị tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn với một chế độ
xã hội nhất định.


Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt với nhau. ở góc
độ thứ nhất, nó được coi là một phạm trù kinh tế khách quan-với góc độ này, sở hữu
được định nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu sản
xuất. ở góc độ thứ hai, sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý- hình thức phản ánh
quan hệ sở hữu khách quan vào pháp luật. Để không dừng lại sở hữu về mặt hình thức
và điều kiện sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện quyền
sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cách là kết quả
của
quyến sở hữu- cái mà các chủ sở hữu phải quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội, tức là các quan hệ
của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm những quan
hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong tổng
thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý. Quan hệ sở
hữu pháp lý là tổng hoà các mối quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những quan hệ
này tạo ra và ghi nhận các quan hệ kinh tế thông qua các nguyên tấc, chuẩn mực pháp
lý.
Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ
chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hoá các quan hệ sở
hữu thành các quyền: sở hữu, sử dụng, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng..., trong đó
quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất. Đó là hai mặt vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn với nhau trong phạm trù sở hữu.
 Phân biệt giữa chiếm hữu và sở hữu:

Sở hữu khác chiếm hữu. Sở hữu là quan hệ kinh tế giữa người với người còn chiếm
hữu là quan hệ kinh tế giữa con người với tự nhiên và thế giới xung quanh gắn liền
với sự tồn tại và phát triển của con người. Sở hữu là phạm trù lịch sử biến đổi theo sự
biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội, còn chiếm hữu là phạm trù vĩnh viễn của
nhân loại. Chiếm hữu là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của con người, còn sở
hữu quyết định hệ thống chính trị - xã hội.


Phân biệt chiếm hữu và sở hữu là cần thiết trong nhận thức khoa học về phạm trù sở
hữu tư liệu sản xuất.
1.1.2. Đối tượng sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình đó, đối
tượng sở hữu cũng biến đổi cho thích ứng. Lịch sử cho thấy, đối tượng sở hữu chủ yếu
đã chuyển dịch qua nhiều thứ. Từ sở hữu vật tự nhiên quý, hiếm, sở hữu nô lệ, đất đai,
tiến đến sở hữu tiền, tư liệu sản xuất hiện đại, máy móc. Trong đó, hiểu bao quát nhất
là sở hữu vốn.
Trong nền kinh tế tự nhiên, đối tượng chủ yếu thể hiện ở hình thái hiện vật trong nền
kinh tế hàng hóa, vận động theo cơ chế thị trường, tuy hình thái hiện vật không mất đi
sự chú ý, nhưng hình thái giá trị ngày càng trở thành đối tượng chủ yếu của quan hệ
sở hữu. Đối tượng sở hữu ngày càng được mở rộng, không chỉ sở hữu về tư liệu sản
xuất, vật phẩm tiêu dùng mà còn sở hữu vốn ( tài chính, khả năng sinh lợi,…). Việc
tiền tệ hóa đối tượng sở hữu là tất yếu và có một bước tiến bộ lớn.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ, đối tượng sở hưu của sở hữu cũng xuất hiện nhân tố
mới: “ Trí tuệ”. Đó là những thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình
sản xuất ra của cải vật chất, xã hội. Những thông tin đó đã được mã hóa thành đối
tượng sở hữu công nghiệp, được đăng ký và bảo hộ dưới dạng phát minh, sáng chế,
giải pháp công nghệ; hình dáng, mẫu nhãn công nghiệp. Những trí tuệ đó có chủ sở
hữu, chủ quản lý kinh doanh, được nhà nước bảo hộ về pháp lý.
Trong điều kiện của nước ta nhìn chung, đối tượng sở hữu chủ yếu còn là những tư

liệu sản xuất quan trọng như đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, tiền vốn, các
phương tiện kỹ thuật hiên đại…Vì thế, sự làm chủ những đối tượng sở hữu chủ yếu là
điều kiện tiên quyết cho việc làm chủ các quan hệ kinh tế.
Tìm kiếm các hình thức sở hưu cho từng đối tượng sẽ bảo đảm cho các tư liệu sản
xuất, mọi của cải vật chất xã hội đều có chủ đích thực. Nhờ đó mà tránh được hao tổn,
thất thoát các nguồn lưc kinh tế của đất nước.


1.1.3. Chế độ sở hữu, các loại hình sở hữu và các hình thức sở hữu:
-

Chế độ sở hữu:

Theo sự phân tích trên đây thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất nói lên mối quan hệ
bản chất bên trong của quan hệ giữa con người với con người, về việc chiếm hữu của
cải vật chất của xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có quan hệ sở hữu đặc trưng
và tên gọi của nó cũng theo quan hệ sở hữu đặc trưng đó. Chẳng hạn như: Sở hữu
phong kiến, sở hữu tư bản chủ ngĩa, sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ sở hữu được thể hiện bằng hệ thống pháp luật ( kể cả quy định dưới luật) tạo
nên chế độ sở hữu, hay quan hệ sở hữu được thể hiện dưới hình thức pháp lý nhất định
gọi là chế độ sở hữu.
Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như: Quyền sở hữu, quyền quản lý kinh
doanh( quyền sử dụng), quyền thực hiện lợi ích kinh tế, quyền chi phối, quyền quản
lý,…Trong tập hợp các quyền đó, có hai nhóm quyền quan trọng, đó là quyền sở hữu
và quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng).
Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ơ một chủ thể, cụng có thể phân chia, tách biệt
tương đối ở những chủ thể khác nhau. Sự phát triển kinh tế- xã hội càng phức tạp thì
sự tách biệt, tác động qua lại giữa hai nhóm quyền này càng phong phú, đa dạng.
Nhận thức được sự tách biệt tương đối giữa hai nhóm quyền này sẽ mở ra hướng mới
để tìm giải pháp cải cách cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.

-

Loại hình và hình thức sở hữu:

Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trưng, giữ vai trò
chủ đạo; đồng thời, còn có các loại hình sở hữu cùng tồn tại. Thực tiễn lịch sử thế giới
cho thấy, đã có các loại hình sở hữu: Công xã nguyên thủy, sở hữu tư hữu nô lệ, sở
hữu tư hữu phong kiến, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu công hữu xã hội chủ
nghĩa. Các loại hình này có thể quy lại thành 3 loại hình sở hữu lớn: Công hữu, tư hữu
và sở hữu hỗn hợp.


Mỗi phương thức sản xuất đều có một loại hình sở hữu đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo,
xác định bản chất của chế độ kinh tế- xã hội của nước có phương thức sản xuất đó.
Mỗi loại hình sở hữu có nhiều hình thức sở hữu với những mức độ thể hiện khác
nhau. Trên cơ sở cùng bản chất của mọi loại hình sở hữu nào đó, tùy theo trình độ
phát triển của sức sản xuất và quản lý mà hình thành nhiều hình thức sở hữu, nhiều
hình thức tổ chức sản xuất đặc trưng để thực hiện sở hữu về mặt kinh tế. Mỗi thành
phần kinh tế vừa tồn tại dưới hình thức tổ chức kinh tế nhất định có một loại hình sở
hữu đặc trưng trong đó, vừa là sự đan xen giữa các loại hình và hình thức sở hữu khác
nhau.
1.2. Quan điểm lý luận về sở hữu:
1.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lenin về sở hữu:
Khi nhấn mạnh mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ chế độ tư liệu về
tư liệu sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- lenin đã chỉ rõ: Bất cứ một sự
thay đổi của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều
là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp
với các quan hệ sở hữu cũ nữa.
Cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nên chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển đã
tạo tiền đề vật chất khách quan tự phủ định chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa

Mác đã đặt vấn đề xóa bỏ tư hữu trên cơ sở hiện thực. Chủ nghĩa cộng sản không tước
bỏ của ai quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội mà chỉ tước bỏ quyền dùng những
sự chiếm hữu đấy để nô dịch lao động của người khác. Quan hệ sở hữu vừa là kết quả,
vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác
dụng thúc đầy hay kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức
sở hữu chưa mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và cũng không thể tùy tiện dựng lên hoặc thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất
chưa đòi hỏi. Bởi vậy, trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất không đều giữa các ngành, các vùng thì việc xây dựng quan hệ sản
xuất mới phải làm từng bước, từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu và


có bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
1.2.2. Sự nhận thức và quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu của nước ta trong
thời kỳ quá độ lên CNXH:
Từ lâu ở các nước XHCN, trong đó có Việt Nam đã từng quan niệm: Đồng nhất sở
hữu với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ sản xuất với sở hữu là một quan hệ
kinh tế hiện thực; đã có lúc chúng ta nhấn mạnh quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước sẽ
mở đường “Vô hạn” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất; không phân biệt rõ hai
nhóm quyền: quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh…
Từ sau ĐH VI của Đảng, đặc biệt là từ ĐH VIII đến nay, nền kinh tế nước ta tưng
bước chuyển sang nên kinh tế thị trường, có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức
sở hữu, các chủ thể kinh doanh bao gồm cả quốc doanh, tập thể, tư nhân xuất hiện và
cạnh tranh với nhau trên thị trường….
Như vậy, trên thực tế nước ta đang diễn ra quá trình khắc phục chế độ công hữu hình
thức, áp đặt trước đây, đang xuất hiện nhiều loại hình sở hữu, nhiều hình thức sở hữu
phong phú, đa dạng. Qua các ĐH Đảng, nhận thức của Đảng về việc phát triển đa
dạng các hình thức sở hữu ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH ngày càng được
thể hiện rõ nét.

2. Một số vấn đề chung về cơ cấu thành phần kinh tế:
2.1 Khái quát về các thành phần kinh tế:
2.1.1 Khái niệm:
Thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất hay kiểu
quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất do tính
chất và trình độ phát triển của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
2.1.2 Các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay:


Theo ĐH XI của Đảng (1/2011), nước ta có 5 thành phần kinh tế, gồm: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
2.1. Sự cần thiết của việc phát triển nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lê CNXH của nước ta hiện nay:
2.1.1 Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta:
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta được xác định là một thời kỳ lâu dài, trong đó,
chúng ta phải thực hiện những nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện những cơ sở vật chất
kỹ thuật của CNXH. Đảng đã xác định trong thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta phải
thực hiện những nhiệm vụ then chốt: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối,…
Hơn nữa, thời kỳ quá độ này có sự đan xen cùng tồn tại của những quan hệ sở hữu
khác nhau, có cái tiến bộ nhưng cũng có cái lạc hậu, trong đó cái tiến bộ phải từng
bước khẳng định vai trò của nó trong nền sản xuất. Do vậy, phát triển đa dạng các
hình thức sở hữu là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
2.1.2. Sự tồn tại các thành phần kinh tế là tất yếu khách quan:
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tê ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tất
yếu, bởi vì:
Một là, lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và
trong nội bộ từng vùng, từng ngành, nên tương với những trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất ấy, tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và thành

phần kinh tế.
Hai là, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH, không qua chế độ TBCN,
nước ta kế thừa từ xã hội cũ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hàng hóa nhỏ của nông
dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ, cá thể và kinh tế tự nhiên.
Chúng ta không thể “xóa bỏ” hay “chuyển đổi” các thành phần kinh tế trên một cách
chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính


chất của từng ngành, nghề mà từng bước cải biến quan hệ sản xuất thành quan hệ sản
xuất mới từ thấp đến cao.
Việc cải biến các thành phần kinh tế dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất phải
xuất phát từ yêu cầu và trình độ xã hội hóa sản xuất, tùy thuộc vào kế hoạch, khả năng
tổ chức và quản lý của nhà nước XHCN.
Ba là, trong quá trình cách mạng XHCN sẽ dần dần xuất hiện những thành phần kinh
tế mới, như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước.
Từ khi tiến hành đổi mới, nước ta không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều
thành phần kinh tế mà còn thực hiện nhất quán lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần.
2.3. Nhận thức của Đảng về phát triển nhiều thành phần kinh tế ở nước ta trong
thời kỳ quá độ lên CNXH:
Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ truwong thực hiện nhất quán chính sách nền kinh tế
nhiều thành phần. các thành phần kinh tế “cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh”. Đảng nhận định sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần có vai trò to
lớn, vì:
Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản
xuất, sẽ phù hợp với thức trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở
nước ta hiện nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó, lại thúc đẩy tăng năng suất lao động,
tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hieuj quả kinh tế trong các tành phần kinh
tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy kinh tế nhiều hàng hóa, góp phần thức đẩy nền

kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và năng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt
của đời sông

Chương II. Cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam


1. Cơ cấu các hình thức sở hữu trong thời ký quá độ lên CNXH ở nước ta
Ở nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự định hướng đó không chỉ thể hiện ở thiết chế chính trị, mà cơ bản hơn còn
là ở chế độ kinh tế, trước hết là ở chế độ sở hữu. Do đó, trong nền kinh tế tồn tại 3
hình thức sở hữu cơ bản đó là: Sở hữu toàn dân và nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân
1.1. Sở hữu toàn dân và nhà nước
Trong quan hệ sở hữu cần phân biệt rõ sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, do đó vai
trò của nhà nước đối với hai loại sở hữu đó cũng khác nhau:
 Sở hữu toàn dân
Về bản chất sở hữu toàn dân là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, bao gồm đất đai,
rừng, biển, vùng trời, tài nguyên trong lòng đất, các công trình công cộng...Nhà nước
với tư cách là cơ quan quyền lực, đại biểu cho lợi ích của nhân dân, đóng vai trò đại
diện người chủ sở hữu cho toàn dân, có quyền và có trách nhiệm tổ chức, quản lý, chi
phối toàn bộ tài sản đó nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo tồn và phát triển các
nguồn tài sản đó.
Trên lý thuyết thì sở hữu toàn dân, nhà nước nắm cả ba quyền: sở hữu, chiếm hữu và
sử dụng tài sản này. Quản lý sử dụng nguồn tài sản này tạo nguồn thu cho nhà nước.
Nhưng trên thực tế, để khắc phục tình trạng vô chủ đối với khối tài sản thuộc sở hữu
toàn dân, nhà nước giao quyền sử dụng cho các cá nhân và tập thể người lao động
kèm theo chính sách và pháp luật. Đối với những tài sản không thể giao quyền sở hữu
được thì nhà nước quản lý bằng pháp luật.

 Sở hữu nhà nước
Về bản chất sở hữu nhà nước bao gồm những tư liệu sản xuất, vốn... trong các doanh
nghiệp nhà nước, ngân sách, dự trữ quốc gia do nhà nước nắm giữ. Để tồn tại và phát
triển tài sản nhà nước, nhà nước giao quyền sử dụng và quản lý cho các cá nhân, đơn


vị tiến hành sản xuất kinh doanh theo chế độ tự chủ, nhưng vẫn nắm quyền chi phối
và điều tiết hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở (doanh nghiệp nhà nước)
Sở hữu nhà nước được ra đời trên co sở: quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa những tư liệu
sản xuất của bọn tư bản mại bản và tay sai đế quốc; cải tạo xã hội chủ nghĩa thành
phần kinh tế tư bản tư nhân; nhà nước đầu tư các doanh nghiệp nhà nước trong các
nghành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xậy dựng, thương mại... bằng
vốn ngân sách nhà nước.
Trong giai đoạn hiên nay cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của nhà
nước và quyền quản lý kinh doanh của các chủ thể doanh nghiệp nhà nước nhắm thực
hiện hạch toán kinh tế như các daonh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Những daonh nghiệp nhà nước kinh doanh thu lợi nhuận cũng phải cạnh tranh để phát
triển, bảo tồn và tăng thêm vốn, làm ăn có lãi, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính
đối với nhà nước, lấy lãi sinh lời trên vốn làm căn cứ chủ yếu để đánh giá hiệu quả
làm việc của doanh nghiệp
1.2. Sở hữu tập thể
Sở hữu tập thể là khối tài sản thuộc quyền sở hữu của một tập thể người lao động. Đối
tượng của nó là phần tài sản do tích lũy chung tạo nên, hoặc do phần tài sản được cho,
biếu, tặng. Những tài sản này có thể tồn tại dưới hình thức hiện vật hoặc hình thức giá
trị.
Báo cáo đại hội IX của Đảng chỉ rõ “ kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa
dạng, trong đó kinh tế hợp tác xã là nòng cốt, các HTX dựa trên sở hữu của các thành
viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh
doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, kĩnh vực, địa bàn”
Trong thành phần kinh tế tập thể, phần vốn mà các thành viên đóng góp trong tập thể

không thuộc sở hữu tập thể. Đó là sở hữu cá nhân – thành viên trong tập thể đó trao
quyền sử dụng cho tập thể. Do đó, cần có cách giải quyết hợp lý về lợi ích giữa cá
nhân và tập thể, nhằm khuyến khích mọi nguồn vốn đều được huy động để sản xuất
kinh doanh.


1.3. Sở hữu tư nhân
Đó là hình thức sở hữu của các nhà sản xuất tư nhân đối với tư liệu sản xuất, tiền,
vốn..., bỏ vào sản xuất – kinh doanh.Trong hình thức sở hữu này, các quyền sở hữu,
quyền sử dụng, quyền chi phối, ...về cơ bản thuộc về một chủ thể.
Đối với những ngành nghề sản xuất và dịch vụ mà tư liệu sản xuất nhỏ, phân tá thích
hợp với lao động cá thế thì quan hệ sở hữu tư nhân vẫn có thể tồn tại lâu dài. Song
nhìn chung, sở hữu tư nhân vẫn là cơ sở nảy sinh hiện tượng người bóc lột người. Vì
vậy, khi thừa nhận sở hữu tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần, nhà nước pahir
có các chính sách, biện pháp tích cực để hạn chế mặt tiêu cực, tự phát của nó để định
hướng đi lên XHCN
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ở nước ta còn tồn tại sự đa dạng các hình
thức sở hữu, trong đó sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể ngày càng
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản này, sẽ
hình thành lên nhiều loại hình sở hữu đan xen, hình thành nên nhiều thành phần kinh
tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng thể hiện sự hỗn hợp, đan xen lẫn
nhau giữa các hình thức sở hữu nói trên.

2. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
2.1. Kinh tế nhà nước
 Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công
hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà
nước bao gồm: hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ bảo hiểm
quốc gia, các quỹ dự trữ quốc gia, và các phần tài sản khác thuộc sở hữu nhà

nước được đưa vào vòng chu chuyển kinh tế
 Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, bởi vì:


Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà xã hội cộng sản chủ
nghĩa đang vươn tới
Nắm giữ vị trí yết hầu, then chốt, xương sống của nền kinh tế quốc dân: cơ sở
vật chất kỹ thuật, hạ tầng cơ sở...
Là lượng vật chất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản
lý vĩ mô
Giữ vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển
Các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học
công nghệ
Là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, các khu đô thị
 Phương hướng phát triển đối với thành phần kinh tế nhà nước
Về mặt lý luận cần tăng cường nghiên cứu để nhận thức đúng đắn về kinh tế
nhà nước và định hướng XHCN. Thực hiện đại doàn kết dân tộc, không phân
chia một cách máy móc thành các khu vự hay thành phần kinh tế XHCN và phi
XHCN.Đánh giá đúng vai trò, vị trí, quy mô của kinh tế nhà nước. Tránh ôm
đồm quá nhiều, chạy theo số lượng xem nhẹ hiệu quả và vai trò thực sự của
kinh tế nhà nước.
Về mặt thực tiễn, cần cải cách, sắp xếp lại kinh tế nhà nước: xây dựng một số
tập đoàn kinh tế mạnh của nhà nước; cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu đối với
các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm 100% sở hữu; giao bán, khoán, cho
thuê, sát nhập, giải thể cho phá sản một số daonh nghiệp làm ăn kém hiệu quả,
làm gánh nặng cho nền kinh tế và khu vực kinh tế nhà nước.
Về mặt quản lý, cần phân biệt quyền sở hữu với quyền quản lý sử dụng kinh
doanh, hình thành nên chủ sở hữu thực tế và chủ sở hữu danh nghĩa
2.2. Kinh tế tâp thể



 Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất.
Đây là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động, các hộ sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với kinh tế nhà nước và các thành
phần kinh tế khác không giới hạn về quy mô, lĩnh vực, địa bàn, nhằm kết hợp
sức mạnh của các thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết có hiệu
quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
 Nguyên tắc hoạt động của kinh tế tập thể ngày nay là tự nguyện, bình đẳng
cùng có lợi và quản lý dân chủ. Khác với các giai đoạn trước đây, cơ chế quản
lý tập trung chỉ huy. Hoạt động của kinh tế tập thể được điều hành thống nhất
từ một trung tâm là ban quản lý hợp tác xã ở tất cả các khâu, các quá trình sản
xuất với chế độ phân phối sản phẩm bình quân thông qua công điểm. kinh tế
tập thể kiểu cũ thự hiện nhiều chức năng phi kinh tế với chế độ cấp phát, giao
nộp hiện vật... là gánh nặng đè lên tài chính của tập thể. Chế độ phân phối này
vi phạm nghiêm trọng đến lợi ích kinh tế của các thành viên trong tập thể và
không khuyến khích được họ tích cực trong sản xuất, kinh doanh. Hậu quả của
cách tổ chức kinh tế tập thể kiểu cũ là các hợp tác xã rơi vào tình trạng thiểu
năng, không còn năng lực hoạt động, xã viên không tha thiết với hợp tác xã,
với sản xuất. Các hợp tác xã tan rã hàng loạt.
Kinh tế tập thể ngày nay được thành lập trên cơ sở tự nguyện tham gia, các
thành viên trong tập thể bình đẳng, phân phối theo hiệu quả kinh tế, quản lý tập
trung, dân chủ đã làm cho kinh tế tập thể đâng dần lấy lại được vị trí của nó
trong cơ cấu thành phần kinh tế.
 Kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước có vai trò ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
 Giải pháp phát triển kinh tế tập thể: cần tăng cường nghiên cứu lý luận làm rõ
vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế tập thể trong điều kiện mới có nhiều
đổi thay; tăng cường vai trò lãnh đạo và hỗ trợ của Đảng và nhà nước đối với
kinht tế tập thể và xây dựng môi trường thể chế cho kinh tế tập thể hoạt động,

đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực cho kinh tế tập thể, hỗ trợ khoa học kĩ thuật


cho kinh tế tập thể, hỗ trợ vốn, tiếp thị, mở rộng thị trường, phát triển kết cấu
hạ tầng...
2.3. Kinh tế tư bản nhà nước
 Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu hỗn hợp về vốn giữa
kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài,
thông qua các hình thức hợp tác, liên doanh.
 kinh tế nhà nước là cầu nối sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, hoặc “nhịp cầu trung
gian” đi lên chủ nhĩa xã hội, phát triển kinh tế tư bản nhà nước còn là giải pháp
nâng cao hiệu quả các daonh nghiệp nhà nước. Đảng ta khẳng định: kinh tế tư
bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về
vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản
thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đát nước
2.4. Kinh tế tư nhân
• kinh tế cá thể, tiểu chủ:
 kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân và gia đình người sơ hữu,
tồn tại chủ yếu dưới hình thức hộ sản xuất kinh doanh.
 Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành, nghề ở
nông thôn và thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả, tiềm năng
về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó,
việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ không bị hạn
chế.
 Tuy nhiên kinh tế cá thể, tiểu chủ có những hạn chế như: tự phát, manh mún,
hạn chế về kỹ thuật. vì vậy, nhà nước cần tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển
thành phần kinh tế này, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện,
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
• Kinh tế tư bản tư nhân



 Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa vầ tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê; hình thức tồn
tại chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn.
 Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, thành phần kinh tế này có vai trò
quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, giải quyết
việc lầm, tăng thu nhập. Đây là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với
kinh tế thị trường, có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng nền
kinh tế.
Theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, đến 30/6/1995, đã có 22445
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này, trong đó có 16064 doanh nghiệp tư
nhân, 6226 công ty trách nhiệm hữu hạn, 148 công ty cổ phần, với tổng ssoos
vốn điều lệ: 8257 tỷ đồng (bằng 14% tổng số vốn cảu các doanh nghiệp nhà
nước). Thành phần kinh tế này tạo ra một khối lượng sản phẩm khoảng 9%
GDP của nước ta.
 Những mặt tiêu cực của kinh tế tư bản tư nhân là: trốn thuế, lậu thuế còn khá
phổ biến: chua chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh về kế toán; một số doanh
nghiệp có mánh lới bòn rút tài khoản từ doanh nghiệp và cơ quan nhà nước
chuyển thành sở hữu tư nhân
 Trong những năm tới, cần phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các laoij
hình doanh nghiệp của tư nhân. Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển,
không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.
2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu vốn
của người và tổ chức nước ngoài được phép hoạt động taaij Việt Nam, tồn tại



dưới hình thức công ty 100% vỗn nước ngoài, công ty liên doanh, hợp tác kinh
doanh chuyển giao, hợp đồng hợp tác kinh doanh.
 Thành phần kinh tế này có vai trò thu hút kỹ thuật, công nghệ hiện đại, góp
phần rút ngắn khoảng cách tụt hậu của nền kinh tế; phát triển kết cấu hạ tầng,
tạo việc làm, tăng thu nhập, năm 2005 đóng góp 15,9% trong GDP
 Đảng và nhà nước ta đang tạo điều kiện thuận lợi, cải thiện môi trường pháp lý
và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của
các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng
 Sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là khách quan và cần thiết; chúng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với nhau, hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. các thành phần kinh
tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen vào nhau
trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân thống nhất. Vai trò, tỷ lệ của mỗi thành
phần kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu
quả sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của chúng vào sự phát triển chung
của nền kinh tế
3. Xu hướng vận động của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế có nhiều thành phần dựa trên
những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế đó, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể được mở
rộng sản xuất – kinh doanh cho các ngành nghề có lợi cho quốc dân sinh. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa ra sức củng cố, phát triển và tăng cường sức mạnh của kinh tế nhà nước
và hợp tác; đồng thời hướng dẫn giúp đỡ kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản nhà nước phát triển đúng hướng, nhằm xác lập sự thống trị phổ
biến của kinh tế xã hội chủ nghĩa



Xu hứơng vận động các thành phần kinh tế trong quá trình đi lên XHCN diễn ra dưới
nhiều hình thức, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
có tác dụng thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển có hiệu quả.
3.1. Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò
chủ đạo
3.2. Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác
3.3. Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước
3.4. Giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ phát triển
3.5. Kinh tế tư bản tư nhân dược khuyến khích phát triển trong ngành, nghề, lĩnh
vực mà pháp luật không cấm
3.6. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.



×