Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Cửa Lò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.24 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT I
DANH MỤC BẢNG BIỂU II
DANH MỤC SƠ ĐỒ II
Quá trình hình thành và phát triển 33
Mục tiêu của ngân hàng 35


i

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

KÝ HIỆU
CBTD


CBCNVC
HSKT
HĐTD
KSNB
KTV
NH
NHNN
NHNN&PTNT
NHTM
NVHĐ
PGD
QTD
RRTD
TCTD
VHĐ

NGHĨA ĐẦY ĐU
Cán bộ tín dụng
Cán bộ công nhân viên chức
Hồ sơ kiểm toán
Hoạt động tín dụng
Kiểm soát nội bộ
Kiểm toán viên
Ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn huy động
Phòng giao dịch
Quỹ tín dụng

Rủi ro tín dụng
Tổ chức tín dụng
Vốn huy động


ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
1
2
3

Tên bảng
Trang
Bảng 3.1: Kết quả hoạt động kinh doanh 2012 – 2014
43
Bảng 3.2: Báo cáo kinh doanh năm 2012 – năm 2014
44
Bảng 3.3: Công tác tín dụng của Ngân hàng NN&PT NTVN46
Chi nhánh Cửa Lò năm 2012- 2014

DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT
1
2
3

Tên sơ đồ, đồ thị
Trang

Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức
37
Sơ đồ 3.2: Cơ cấu phòng kế toán ngân quỹ
39
Sơ đồ 3.3: Quy trình xét duyệt cho vay đối với khoản vay nằm
trong quyền phán quyết của giám đốc NH NN&PT NTVN- Chi
53
nhánh Cửa Lò

4

Sơ đồ 3.4: Quy trình giải ngân của NH NN&PT NTVN- Chi

56

5

nhánh Cửa Lò
Sơ đồ 3.5: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của

58

6

NHNN&PTNTVN- Chi nhánh Cửa Lò
Sơ đồ 3.6: Sơ đồ quy trình KSNB hoạt động tín dụng tại Ngân

60

7


hàng NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò
Sơ đồ 3.7: Sơ đồ quy trình kiểm soát xét duyệt cho vay tại NH

61

8

NN&PTNTVN- Chi nhánh Cửa Lò
Sơ đồ 3.8: Sơ đồ quy trình kiểm soát giải ngân

62


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những kết
quả nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận của các tác giả khác đã được
tôi xin ý kiến sử dụng và được chấp nhận. Các số liệu trong khóa luận là kết
quả khảo sát thực tế từ đơn vị thực tập. Tôi xin cam kết về tính trung thực
của những luận điểm trong khóa luận này.
Sinh viên

Lê Thị Như Ý


1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, nước ta đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường,

trong điều kiện nhiều vấn đề chưa giải quyết đồng bộ, như các yếu tố về pháp
luật, luật định, quy chế... Do đó việc điều hành có những biểu hiện không đồng
bộ, không thống nhất các vụ việc vi phạm quy chế nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại,
chưa được giải quyết triệt để. Còn tồn tại nhiều rủi ro, sai sót trong hoạt động tín
dụng tại các ngân hàng thương mại. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời
nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng đòi hỏi phải có bộ phận kiểm
soát nội bộ (KSNB) đối với hoạt động tín dụng hoạt động một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhiều chi nhánh hiện nay có bộ phận KSNB nhưng hoạt
động còn yếu kém, lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức nên tác dụng giám định và
kiểm tra yếu. Một phần do bản thân kiểm soát viên (KSV) chưa được đào tạo
đầy đủ về chuyên môn nên KSV thiếu kinh nghiệm trong kiểm toán. Mặt khác,
KSV cũng chưa được giao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm. Vì vậy, công tác
kiểm soát đôi khi mất tính khách quan, chỉ kiểm soát và đưa ra những kết luận
tốt, những mặt yếu điểm còn sai sót thì bỏ qua. Quy mô, nội dung, tính chất hoạt
động của chi nhánh nhỏ có đơn giản hơn, khác với chi nhánh lớn của ngân hàng
thương mại nhưng có nhiều điểm yếu còn tồn tại về khả năng kiểm soát, giám
sát nên hoạt động tín dụng của các chi nhánh có nhiều hạn chế lớn. Chính vì lẽ
đó cần phải xây dựng một hệ thống KSNB đối với hoạt động tín dụng tại ngân
hàng thương mại.
Qua thực trạng công tác KSNB tại NH NN&PTNTVN- Chi nhánh Cửa
Lò, đặc biệt ở bộ phận tín dụng còn tồn tại khá nhiều hạn chế và khó khăn. Việc
xây dựng hệ thống KSNB và hoàn thiện nó trong các tổ chức tín dụng là một
điều rất cần thiết. Vì vậy tôi đã nghiên cứu và làm khoá luận về đề tài: “Hoàn
thiện công tác kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Cửa Lò”


2
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
nghiên cứu

Cho đến nay, việc nghiên cứu các lĩnh vực liên quan đến công tác KSNB
của ngân hàng thương mại (NHTM) của các học giả Việt Nam và nước ngoài
liên quan đến luận văn dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể phân thành 2 vấn đề
được nghiên cứu chủ yếu là:
a, Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến kiểm soát nội bộ
b, Nghiên cứu việc nhận diện và phòng ngừa rủi ro tín dụng
Trong nhóm công trình thứ nhất đề cập đến hệ thống KSNB của các ngân
hàng thương mại Việt Nam nhưng cũng chỉ ở mức độ giới thiệu chứ không đi
sâu vào phân tích, nghiên cứu.
Trong nhóm công trình thứ hai tập trung vào phân tích rủi ro các hoạt
động của các ngân hàng thương mại nói chung và rủi ro tín dụng của các Ngân
hàng thương mại nói riêng.
Các luận văn có liên quan đến công tác kiểm soát nội bộ đối với hoạt động
tín dụng:
- Luận văn thạc sĩ về kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng như: “Hoàn thiện
công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội” của tác giả Đoàn Văn Phú. Trong
bài luận văn, tác giả đã nêu ra được những mặt ưu điểm và tồn tại trong
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội để đưa ra được những giải
pháp hoàn thiện hợp lý và thiết thực để ngân hàng có thể áp dụng thực tế.
- Luận văn “Kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại NHNN& PTNT thành
phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc. Trong luận văn của
mình, tác giả nghiên cứu đề tài công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam mới
chỉ giới hạn trong nội dung cụ thể là hoàn thiện những mặt còn hạn chế
của công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại NH NN&PTNTVN.


3
- Luận văn "Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ tín

dụng trong các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Dương"
(Phan Thuỵ Thanh Thảo). Trong bài luận văn đã nêu lên các rủi ro và
thiếu sót trong hoạt động tín dụng. Các biện pháp làm giảm và hạn chế
những rủi ro trong tín dụng tại các Ngân hàng thương mại trên địa bàn
tỉnh Bình Dương.
- Luận văn "Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh" (Nguyễn Minh Châu). Trong bài luận văn đề cập đến
vấn đề kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại là cần thiết. Và đặc
biệt là trong bộ phận tín dụng vì đây là bộ phận gặp nhiều rủi ro nhất của
ngân hàng, cần phải được kiểm tra, kiểm soát thường xuyên để nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Khóa luận "Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp Ước mới về vốn của
ủy ban Basel" (Nguyễn Thị Mai Phương). Trong bài luận văn đề cập đến
những rủi ro thường xuyên gặp phải và kiến nghị sự cần thiết trong công
tác quản trị rủi ro tín dụng.
- Luận văn "Hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại
ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn Việt Nam" (Võ Duy
Khương). Trong bài luận văn đề cập đến những rủi ro tín dụng và chính
sách và biện pháp mà ngân hàng đã có những biện pháp để khắc phục.
Bên cạnh đó, luận văn đã nêu lên nguyên nhân của các rủi ro trong tín
dụng và các quy trình kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng cần thực hiện
để loại bỏ rủi ro cho ngân hàng.
- Chuyên đề "Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội" (Trần
Thanh Hà). Trong bài luận văn đã nêu ra được các khái niệm về rủi ro tín
dụng và các nguyên nhân chính trong rủi ro tín dụng rất cụ thể. Từ đó rút
ra những giải pháp hợp lý để nâng cao lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tại



4
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội. Chỉ ra
những ưu điểm và hạn chế để ngân hàng tiếp tục phát huy và hoàn thiện
công tác quản trị rủi ro tín dụng.
Như vậy, tình hình nghiên cứu từ trước đến nay tập trung vào công tác
kiểm toán nội bộ hoặc rủi ro tín dụng tại các NHTM. Tại ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NH NN&PT NTVN)- Chi nhánh Cửa
Lò từ trước đến giờ vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về hệ thống KSNB đối
với hoạt động tín dụng. Vì vậy việc hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt
động tín dụng của NH NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò là đối tượng nghiên
cứu chính và khoá luận sẽ là một công trình nghiên cứu hệ thống toàn diện về
vấn đề này.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống KSNB hoạt động tín dụng của
NH NN&PT NTVN từ trước khi hiện đại hóa đến khi đã thực hiện hiện đại hóa
đối với rủi ro tín dụng. Đề tài sẽ xem xét nghiên cứu một cách có hệ thống
những luận cứ, cơ sở khoa học về hệ thống KSNB ngân hàng thương mại nói
chung và NH NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò nói riêng trong hoạt động
ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Những đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả và khắc phục những khuyết điểm trong hoạt động kiểm soát nội bộ hoạt
động tín dụng của NH NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò sẽ được trình bày
trong khoá luận để có thể áp dụng vào thực tế hoạt động kinh doanh của đơn vị.
- Với mục đích nghiên cứu trên, khoá luận sẽ tập trung vào việc thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể sau:
 Phân tích lý thuyết, quy định và chuẩn mực liên quan đến hệ thống kiểm
toán nội bộ của ngân hàng thương mại.
 Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống KSNB tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trước và sau khi thực
hiện hiện đại hóa cũng như kinh nghiệm xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ của

một số ngân hàng thương mại các nước trên thế giới đối với phòng ngừa rủi ro


5
tín dụng.
 Qua nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác KSNB đối với hoạt động tín dụng của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là về tổ chức và hoạt động của hệ
thống KSNB của các NHTM đối việc phòng ngừa rủi ro tín dụng, trong đó đi
sâu vào nghiên cứu mô hình và tổ chức hoạt động của hệ thống KSNB của NH
NN&PT NTVN.
Về không gian luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những cơ sở pháp lý để
hình thành hệ thống KSNB của các NHTM nói chung cũng như của NH
NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò nói riêng và nghiên cứu các chuẩn mực,
thông lệ quốc tế áp dụng cho hệ thống KSNB của các NHTM.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khoá luận, ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên
cứu khoa học xã hội cũng như kinh tế học, các tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
•Phương pháp chung là phương pháp phân tích, so sánh nhằm tìm ra căn
cứ, số liệu minh họa cho luận điểm được nêu ra.
•Phương pháp bổ trợ như phương pháp phân kỳ, thống kê, tổng hợp và
toán học nhằm nêu rõ đặc thù từng giai đoạn khác nhau của hệ thống KSNB
hoạt động tín dụng tại NH NN&PT NTVN. Đồng thời, các bảng, biểu thị,... có
thể được sử dụng trong khoá luận để minh họa cho vấn đề nghiên cứu.
•Phương pháp phân tích và so sánh báo cáo KSNB qua các kì, các năm và
đánh giá tính hiệu quả và thành tựu đạt được của hệ thống KSNB.
1.6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Tôi mong rằng khoá luận sẽ có những đóng góp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tổng hợp các cơ sở pháp lý, các chuẩn mực và thông lệ liên
quan đến hệ thống KSNB và vai trò của hệ thống KSNB đối với hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thương mại.


6
Thứ hai, hệ thống hóa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu của
các học giả Việt Nam và nước ngoài về hệ thống KSNB ngân hàng thương mại
trên thế giới và của Việt Nam đối với phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Thứ ba, phân tích tác động và sự thay đổi của hệ thống KSNB đối với
hoạt động tín dụng sau khi thực hiện hiện đại hóa ngân hàng để đánh giá những
vấn đề còn tồn tại cần khắc phục đối với NH NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa
Lò.
Thứ tư, cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quát về hệ thống KSNB
của ngân hàng thương mại hiện đại và danh mục tài liệu tham khảo phong phú
liên quan đến đề tài.
1.7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn gồm có 4 chương:
Chương I: Tổng quan về đề tài nghiên cứu.
Chương II: Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng
tại ngân hàng thương mại.
Chương III: Thực trạng kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò.
Chương IV: Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ đối với hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng NN&PT NTVN- Chi nhánh Cửa Lò.


7


CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Khái quát chung về kiểm soát nội bộ
2.1.1. Bản chất và vai trò của kiểm soát nội bộ
Viện nghiên cứu và áp dụng hệ thống KSNB đã đi đến việc nhận thức và
định nghĩa hệ thống KSNB theo nhiều mức độ khác nhau. Theo định nghĩa do
COSO (Committe of Sponsoring Organization) là một Ủy ban thuộc hội đồng
quốc gia Hoa Kỳ về chống gian lận báo cáo tài chính (National Commission on
Fraudulent Financial Reporting) đưa ra đã được thừa nhận rộng rãi thì hệ thống
KSNB được xác định như sau:
Kiểm soát nội bộ là một quá trình do Hội đồng quản trị, người điều hành
và các nhân viên chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý
nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:
(a) Báo cáo tài chính đáng tin cậy
(b) Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả
(c) Các luật lệ và các quy định được tuân thủ
Viện kế toán quốc tế đưa ra định nghĩa “ Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập
hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ, cơ cấu tổ
chức được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu của
tổ chức và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro xảy ra”
Trong báo cáo đặc biệt về kiểm soát nội bộ do Ủy ban AICPA phát hành
năm 1949 về các thủ tục làm việc đã đưa ra khái niệm về kiểm soát nội bộ: “
Kiểm soát nội bộ bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các phương pháp phối
hợp và đo lường được thừa nhận trong doanh nghiệp để đảm bảo an toàn tài sản
của họ, kiểm tra sự phù hợp và đáng tin cậy của dữ kiệu kế toán, tăng cường tính
hiệu quả của hoạt động, và thực hiện các chính sách quản lý lâu dài ”
Theo Balse: “ Kiểm soát nội bộ là quá trình được thực hiện bởi Hội đồng
quản trị, Ban điều hành và toàn thể nhân viên. Đó không chỉ là một thủ tục hoặc
một chính sách được thực hiện tại một thời điểm nào đó, mà còn tiếp diễn ở tất



8
cả các cấp trong ngân hàng. Hội đồng quản trị và Ban điều hành thiết lập môi
trường văn hoá tạo lợi nhuận cho quá trình kiểm soát nội bộ được hiệu quả và
việc theo dõi sự hiệu quả đó được diễn ra liên tục. Mỗi cá nhân trong tổ chức
phải tham gia vào quá trình đó. Những mục tiêu chủ yếu của quá trình kiểm soát
nội bộ có thể được phân loại như sau:
• Những hoạt động có hữu hiệu và hiệu quả (mục tiêu hoạt động)
• Sự đáng tin cậy, đầy đủ và kịp thời của các thông tin quản trị và tài chính
(mục tiêu thông tin)
• Tuân thủ các quy định và luật hiện hành (mục tiêu tuân thủ)
Mục tiêu hoạt động của kiểm soát nội bộ đi đôi với sự hữu hiệu và hiệu quả
của ngân hàng trong việc sử dụng tài sản và nguồn lực khác để ngân hàng
không bị lỗ. Tiến hành kiểm soát nội bộ cũng tìm kiếm sự chắc chắn rằng nhân
sự trong tổ chức làm việc để đạt được sự hiệu quả và toàn vẹn, hạn chế chi phí.
Mục tiêu thông tin là kịp thời, đáng tin cậy, những báo cáo có liên quan cần
thiết cho việc đưa ra quyết định trong tổ chức ngân hàng. Chúng cũng chỉ ra sự
cần thiết của những tài khoản định kỳ đáng tin, những báo cáo tài chính và các
báo cáo cho cổ đông, cho những nhà giám sát và các đối tác bên ngoài. Thông
tin cung cấp cho các nhà quản lý, hội đồng quản trị, cổ đông và những nhà giám
sát phải hiệu quả, đúng đắn mà những người nhận có thể dựa vào thông tin đó
để ra quyết định.
Mục tiêu tuân thủ đảm bảo chắc chắn rằng tất cả hoạt động kinh doanh của
ngân hàng phải theo đúng các quy định của pháp luật, yêu cầu của ngân hàng
nhà nước, và các chính sách, thủ tục của tổ chức. Mục tiêu này nhằm để bảo vệ
quyền lợi và danh tiếng của ngân hàng.
Từ các định nghĩa trên, hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu như sau:
 Kiểm soát nội bộ là một chuỗi hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ
phận, mọi hoạt động của tổ chức. Nó được thiết kế bằng sự kết hợp nhiều khâu

trong quá trình quản trị và vận dụng tổ chức nhưng các khâu được kết hợp với
nhau thành một thể thống nhất tạo nên hệ thống kiểm soát nội bộ.
 Hệ thống KSNB là một quá trình giám sát thường xuyên, liên tục là


9
phương tiện để các cấp quản lý trong tổ chức kiểm soát hoạt động của tổ chức
mình đồng thời nó đảm bảo hiệu quả an toàn cho hoạt động, tuân thủ các quy
định của pháp luật và đảm bảo sự tin cậy của những thông tin tài chính.
 Hệ thống KSNB được thiết kế và vận hành bởi con người. Hệ thống
KSNB không chỉ đơn thuần chỉ là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu các quy
định mà phải bao gồm cả những con người trong tổ chức như Hội đồng quản trị,
Ban giám đốc, các thành viên trong tổ chức. Chính con người định ra mục tiêu,
thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và vận hành chúng.
 KSNB đảm bảo một sự hợp lý, chứ không phải là tuyệt đối là các mục
tiêu sẽ được thực hiện. Vì khi vận hành hệ thống kiểm soát những yếu kém có
thể xảy ra do các sai lầm của con người hoặc sự khiếm khuyết trong bản thân hệ
thống KSNB nên dẫn đến không thực hiện được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, hệ
thống KSNB chỉ có thể ngăn chặn và phát hiện những rủi ro sai phạm nhưng
không thể đảm bảo rằng nó không bao giờ xảy ra. Hơn nữa nguyên tắc cơ bản
trong việc đưa ra quyết định quản lý là chi phí cho quá trình kiểm soát không thể
vượt quá lợi ích được đem lại bởi quá trình kiểm soát đó. Do đó, tùy người quản
lý có thể nhận thức được rủi ro nhưng chi phí kiểm soát quá cao thì họ vẫn
không áp dụng các biện pháp rủi ro tương ứng.
 Có một khái niệm dễ nhầm lẫn với kiểm soát nội bộ là kiểm toán nội bộ.
Theo hiệp hội kiểm toán viên nội bộ 2A thì “ Kiểm toán nội bộ là hoạt động đảm
bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiếp lập nhằm tăng thêm giá
trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ
chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống
và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm

soát và giám sát ”. Như vậy, kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ đánh giá hệ thống
kiểm soát nội bộ. Trên cơ đó đó có các kiến nghị với các cấp quản trị của tổ
chức để hoàn thiện hệ thống KSNB. Hệ thống KSNB và kiểm toán nội bộ được
thiết lập và vận hành nhằm mục đích cuối cùng là kiểm soát và phòng ngừa rủi
ro trong hoạt động là việc quản trị rủi ro của các tổ chức. Trong khi kiểm toán
nội bộ chỉ tập trung vào việc đánh giá quản trị rủi ro sau khi các hoạt động đã


10
diễn ra thì KSNB lại thực hiện cả việc kiểm soát rủi ro trước và sau các hoạt
động. Nói cách khác, kiểm toán nội bộ chỉ là một phần của quá trình KSNB.
Ngoài ra, trong quá trình quản trị và điều hành tổ chức thì hệ thống KSNB
không độc lập khỏi quy trình nghiệp vụ mà nó được bố trí, xây dựng trong mọi
quy trình tác nghiệp của tổ chức còn kiểm toán nội bộ độc lập khỏi quy trình tác
nghiệp của tổ chức để đảm đảm tính khách quan hiệu quả.
2.1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức hệ thống KSNB giữa các đơn vị
vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt động mục tiêu của tổ
chức nhưng hệ thống KSNB muốn vận hành hiệu quả phải có những bộ phận
cấu thành cơ bản. Theo mô hình do tổ chức COSO đưa ra và cũng được coi là
quan điểm cơ bản, phổ biến nhất hiện nay thì hệ thống KSNB phải gồm những
bộ phận chủ yếu sau:






Môi trường kiểm soát
Hệ thống thông tin và truyền thông

Các hoạt động kiểm soát
Đánh giá rủi ro
Giám sát

2.1.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm những phương châm quản lý và phong cách
kinh doanh (hoạt động) của Ban lãnh đạo, sự tham gia của những người chịu
trách nhiệm quản trị doanh nghiệp hoặc điều hành tổ chức, hiệu quả của cơ cấu
tổ chức, tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tịn cậy của các ước tính của ban
lãnh đạo
Môi trường kiểm soát là nền móng cho toàn bộ các yếu tố còn lại của hệ
thống KSNB, quy định nguyên tắc và cơ cấu.
Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi phối
ý thức kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng đối với các bộ
phận khác của KSNB. Các nhân tố chính thuộc về môi trường kiểm soát là:
• Tính trung thực và giá trị đạo đức


11
• Đảm bảo về năng lực
• Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán (hay kiểm soát)
• Triết lý quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý
• Cơ cấu tổ chức
• Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm
• Chính sách nhâm sự
2.1.2.2. Hệ thống thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông chính là điều kiện không thể thiếu cho việc
thiết lập, duy trì và nâng cao năng lực kiểm soát trong đơn vị thông qua việc
hình thành các báo cáo cung cấp thông tin về hoạt động, tài chính và sự tuân thủ,
bao gồm cả nội bộ và bên ngoài.

Thông tin và truyền thông là hai bộ phận gắn kết với nhau. Đó là hệ thống
thu nhận, xử lý, ghi chép thông tin và hệ thống báo cáo thông tin trong nội bộ và
bên ngoài.
 Thông tin:
Thông tin cần thiết cho mọi cấp trong doanh nghiệp để sản xuất kinh
doanh và thoả mãn các mục tiêu về hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính và
tính tuân thủ. Mọi thông tin được sử dụng trong doanh nghiệp có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau.
• Hệ thống thông tin:
Thông tin được thu thập, xử lý bởi hệ thống thông tin. Thông tin có thể
chính thức hoặc không chính thức. Hệ thống thông tin không chỉ nhận dạng,
nắm bắt các thông tin cần thiết về tài chính, phi tài chính mà nó còn đánh giá và
báo cáo về những thông tin đó theo một trình tự để việc quản lý các hoạt động
của doanh nghiệp có hiệu quả.
• Chất lượng thông tin:
Chất lượng thông tin ảnh hưởng đến khả năng của nhà quản lý để ra quyết
định và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Chất lượng thông tin chỉ ra sự


12
đầy đủ các dữ liệu thích hợp trong báo cáo. Chất lượng thông tin gồm:
- Thông tin thích hợp.
- Thông tin được cung cấp ngay khi cần.
- Thông tin được cập nhật kịp thời.
- Thông tin chính xác.
- Thông tin có thể tiếp cận dễ dàng bởi người có thầm quyền.
• Chiến lược thông tin:
Doanh nghiệp cần thực hiện thu thập thông tin bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp, sau đó cung cấp cho người quản lý những báo cáo cần thiết và kết
quả hoạt động liên quan đến các mục tiêu được đề ra của doanh nghiệp.

Việc cải tiến và phát triển hệ thống thông tin phải dựa vào kế hoạch chiến
lược liên quan đến toàn bộ chiến lược của doanh nghiệp và đáp ứng các mục tiêu
ngày càng phát triển.
Hệ thống thông tin sẽ phát triển nếu có sự hỗ trợ cụ thể của nhà quản lý
bằng các nguồn lực thích hợp bao gồm nhân lực và tài chính.
 Truyền thông:
Truyền thông là thuộc tính vốn có của hệ thống thông tin. Truyền thông là
việc cung cấp thông tin trong đơn vị (từ cấp trên xuống cấp dưới, từ cấp dưới lên
cấp trên, hoặc giữa các bộ phận có quan hệ hàng ngang) và với bên ngoài.
KSNB là hữu hiệu khi các thông tin trung thực, đánh tin cậy và quá trình truyền
thông được thực hiện chính xác, kịp thời.
Các phương tiện dùng trong truyền thông rất đa dạng như: Bản chỉ dẫn
thực hiện, thư báo, thông báo, băng hình, truyền miệng qua các kỳ họp, các buổi
hội thảo…Một phương tiện truyền thông khác có tác động mạnh là hành động
của những nhà quản lý.
• Truyền thông bên trong doanh nghiệp:
Nhiệm vụ quản lý tài chính và các hoạt động quan trọng đòi hỏi thông tin
được cung cấp một cách rõ ràng và chính xác từ các nhà quản lý cấp cao để các
nhân viên cấp dưới thực hiện nghiêm túc.


13
Song song với phương tiện truyền thông từ trên xuống, các nhà quản lý
cũng cần phải lắng nghe các thông tin phản hồi từ dưới lên để hoạt động của
doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
• Truyền thông bên ngoài doanh nghiệp:
Việc truyền thông không chỉ cần thiết bên trong doanh nghiệp mà còn cả
bên ngoài doanh nghiệp. Cổ đông, người phân tích tài chính, người lập pháp
cung cấp những yêu cầu của họ và họ có thể hiểu được những khó khăn mà
doanh nghiệp phải đối phó. Khách hàng và người cung cấp có thể cung cấp

những thông tin quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cho doanh
nghiệp có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường.
2.1.2.3. Các hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các chi
phí, các yêu cầu của ban lãnh đạo được thực hiện đúng và đầy đủ. Các chính
sách và thủ tục này giúp thực thi những hành động với mục đích chính là giúp
kiểm soát các rủi ro mà đơn vị đang hoặc có thể gặp phải. Có nhiều loại hoạt
động kiểm soát khác nhau có thể thực hiện, dưới đây là một số hoạt động kiểm
soát chủ yếu của đơn vị:
•Phân chia trách nhiệm đầy đủ: Phân chia trách nhiệm là không cho phép
một thành viên nào được giải quyết mọi mặt nghiệp vụ từ khi hình thành cho
đến khi kết thúc.
•Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ: để thông tin đáng tin
cậy cần phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát nhằm kiểm tra tính xác thực,
đầy đủ và việc phê chuẩn các nghiệp vụ.
•Cần đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê
chuẩn bởi một nhân viên quản lý trong phạm vi quyền hạn cho phép. Sự phê
chuẩn được chia làm 2 loại là phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
•Các cá nhân hoặc bộ phận được Ủy quyền để thực hiện phê chuẩn phải có
chức vụ tương xứng với tính chất và tầm quan trọng của nghiệp vụ. Trong môi
trường xử lý dữ liệu bằng phương pháp điện tử, việc kiểm soát xử lý thông tin
cũng như được chia thành kiểm soát chung và kiểm soát ứng dụng với những


14
đặc thù riêng.
•Kiểm soát vật chất: Hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ sách và
tài sản, cũng như các chương trình phần mềm tin học và những hồ sơ dữ liệu
nhằm đảm bảo rằng tài sản không bị mất mát, đánh cắp hoặc sử dụng trái với
thẩm quyền.

•Kiểm soát độc lập việc thực hiện là kiểm tra được tiến hành bởi cá nhân
(hoặc bộ phận) đang thực hiện nghiệp vụ, thực chất đây là yêu cầu kiểm tra chéo
giữa các bộ phận, cá nhân trong tổ chức.
•Yêu cầu quan trọng nhất đối với những thành viên thực hiện kiểm tra là
họ phải độc lập với đối tượng bị kiểm tra. Sự hữu hiệu của hoạt động này sẽ mất
đi nếu người thực hiện kiểm tra lại là nhân viên cấp dưới hoặc là có quyền lợi
liên quan đến người bị kiểm tra.
2.1.2.4. Đánh giá rủi ro
Để giới hạn rủi ro ở mức thấp nhất chấp nhận được, người quản lý phải xác
định được mục tiêu của đơn vị, nhận dạng và phân tích rủi ro từ đó mới có thể
kiểm soát được rủi ro.
Xác định mục tiêu của đơn vị: mục tiêu tuy không phải là bộ phận của
kiểm soát nội bộ nhưng việc xác định nó là điều kiện tiên quyết để xác định rủi ro.
•Nhận dạng rủi ro: để nhận dạng rủi ro, người quản lý có thể sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau, từ việc sử dụng phương tiện dự báo, phân tích dữ liệu
quá khứ, cho đến việc rà soát thường xuyên các hoạt động.
•Phân tích và đánh giá rủi ro: một quy trình phân tích và đánh giá rủi ro
thường bao gồm các bước sau đây: Ước lượng tầm cỡ của rủi ro qua ảnh hưởng
có thể có của nó đến mục tiêu của đơn vị xem xét khả năng xảy ra rủi ro và
những biện pháp có thể sử dụng để đối phó với rủi ro.
2.1.2.5. Giám sát
Đây là bộ phận cuối cùng của KSNB. Giám sát là một quá trình mà người
quản lý đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát. Điều quan trọng trong giám
sát là phải xác định được hệ thống KSNB có vận hành đúng như thiết kế hay
không và có cần thiết phải sửa đổi chúng cho phù hợp với từng giai đoạn phát


15
triển của tổ chức hay không. Thông thường các nhà quản lý thực hiện giám sát
thường xuyên hay định kỳ.

•Giám sát thường xuyên đạt được thông qua hệ thống báo cáo hoạt động
nội bộ; các ý kiến, thông tin bên ngoài như ý kiến khách hàng, đánh giá của các
cơ quan quản lý là nước... để đánh gia hoạt động của tổ chức và phát hiện những
bất thường.
•Giám sát định kỳ được thực hiện thông qua các cuộc kiểm toán định kỳ do
kiểm toán viên nội bộ hoặc kiểm toán độc lập thực hiện.
2.1.3. Hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ
Qua thực tiễn về rủi ro, tổn thất mà các ngân hàng thương mại gặp phải
trong những năm gần đây chúng ta nhận thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của các
ngân hàng nhìn chung còn bộc lộ nhiều yếu kém, hoạt động chưa thật hiệu quả.
 Về phía Ngân hàng thương mại của Nhà nước
Một là, môi trường kiểm soát còn nhiều yếu tố không thuận lợi cho công
tác KSNB. Mặc dù được tổ chức theo mô hình tổng công ty nhưng mức độ độc
lập của các chi nhánh và công ty trực thuộc của các Ngân hàng còn tương đối
hạn chế. Sự phân cấp, phân quyền giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc, giữa
các giám đốc Ban ở Hội sở chính với giám đốc các đơn vị thành viên chưa rõ
ràng và chưa gắn với các trách nhiệm cụ thể. Sự chồng chéo trong điều hành và
tác nghiệp giữa các bộ phận diễn ra thường xuyên, cơ chế tập thể quyết định vẫn
tồn tại phổ biến. Vì thế, trong nhiều trường hợp quyền hạn đã phân cấp không
được sử dụng hết hoặc bị lạm dụng.
•Hội đồng quản trị là đại diện sở hữu của Nhà nước tại các Ngân hàng
nhưng xét về thực chất chưa được trao quyền tương ứng. Đa số các vấn đề phát
sinh của Ngân hàng đều phải báo cáo và xin phép Chính Phủ, Ngân hàng nhà
nước, Bộ tài chính. Điều này gây khó khăn cho công tác KSNB, đặc biệt là kiểm
soát quản lý bởi trách nhiệm quyết định không phụ thuộc phạm vi nội bộ của
Ngân hàng.
•Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị được giao trách nhiệm thực


16

hiện toàn diện hoạt động KSNB. Tuy nhiên, ban kiểm soát về thực chất vẫn
chưa có được sự độc lập tương đối với bộ phận kiểm tra, đặc biệt là hội đồng
quản trị và tổng giám đốc.
•Ban kiểm tra nội bộ thuộc Tổng giám đốc được tổ chức thống nhất từ Hội
sở chính đến các đơn vị thành viên. Tuy vậy, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán
hoạt động cũng chưa được triển khai thực hiện, tính độc lập của các cuộc kiểm
tra không cao, chưa đạt được mục tiêu đảm bảo an toàn trong hoạt động của
Ngân hàng. Điều này có nguy cơ dẫn đến rủi ro kiểm soát- tức là báo cáo kiểm
toán hoặc không đủ, không đúng, không kịp thời hoặc không đưa ra được biện
pháp ngăn chặn và giải quyết phù hợp.
Hai là, hệ thống kiểm soát- bộ phận cấu thành quan trọng của cơ chế
KSNB của Ngân hàng vẫn đang ở trong quá trình chuyển đổi. Hoạt động kinh
doanh trong một lĩnh vực đặc thù, các Ngân hàng áp dụng một hệ thống kế toán
tương đối khác biệt so với các doanh nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống
chuẩn mực kế toán Việt Nam đã ban hành chưa tính đến những yếu tố đặc thù
này và vẫn khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế. Mặc dù tổ chức hoạt
động theo mô hình tổng công ty nhưng hệ thống kế toán chưa lập được các báo
cáo bộ phận và báo cáo tổng thể bằng cách sử dụng phương pháp kế toán hợp
nhất. Vì vậy, vai trò KSNB của hệ thống kế toán còn rất hạn chế.
Ba là, cơ chế KSNB tại các NHTM của nhà nước mới chỉ chú trọng đến
công tác kiểm soát bảo vệ tài sản mà chưa chú ý đến công tác kiểm soát quản lý
cũng như kiểm soát tổng quát. Nói cách khác, KSNB chưa làm tốt chức năng
ngăn chặn và giám sát mà mới chỉ thực hiện chức năng kiểm tra phát hiện và xử
lý các vấn đề phát sinh. Cơ chế kiếm soát quá tập trung vào các cuộc kiểm tra,
kiểm toán đột xuất, trong khi đáng ra cơ chế kiểm soát thường xuyên cần được
xây dựng và thực hiện.
 Về phía ngân hàng thương mại
Với những NHTM mại nói chung, ngoài những bất cập nêu trên còn một
số các hạn chế khác:



17
Một là, những vi phạm (vi phạm đạo đức hành nghề- thoái hóa biến chất,
trình độ nghiệp vụ yếu kém- bị khách hàng lừa đảo, sự câu kết thông đồng...)
của một số cán bộ, nhân viên ngân hàng không được hệ thống KSNB phát hiện
kịp thời hoặc đã phát hiện nhưng không được Ban lãnh đạo ngân hàng xử lý kịp
thời có những trường hợp vi phạm được phát hiện sau khi kiểm toán (do các cơ
quan kiểm toán bên ngoài thực hiện) đã khuyến cáo cho ban lãnh đạo ngân hàng
biết nhưng cũng không được xử lý kịp thời dẫn đến thất thoát hàng nghìn tỷ đồng
gây thiệt hại không nhỏ cho ngành ngân hàng thậm chí làm phá sản ngân hàng.
•Nguyên nhân của tồn tại này do: Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo các
NHTM chưa làm hết trách nhiệm chưa nhận biết được rủi ro và mức độ tác động
của những rủi ro đó, nên không có biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp; công tác
tổ chức cán bộ làm chưa tốt trong phân công lao động chưa quán triệt các
nguyên tắc kiểm soát như phân tích chức năng, bất kiêm nhiệm, phê chuẩn và ủy
quyền, đặc biệt thiếu vắng hoặc không có chất lượng trong công tác kiểm tra,
KSNB nằm ngoài quy trình nghiệp vụ (hoặc gắn với quá trình hoạt động của
một đơn vị, bộ phận nào đó )
•Một thực tế hết sức nguy hại cho các NHTM hiện nay là các nhân viên
thuộc bộ phận này nhiều trường hợp là các nhân viên không đủ năng lực, trình
độ chuyên môn đạo đức của các bộ phận khác chuyển sang (có thể có các nhân
viên bị kỷ luật, thành phần tiêu cực...)
Hai là, cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn với quy trình nghiệp vụ của NHTM
chưa mạnh còn sơ hở nhiều, chưa đủ đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn, có
hiệu quả. Lấy ví dụ điển hình về quy chế nghiệp vụ cho vay hiện nay ở các ngân
hàng còn có những yếu điểm sau:
•Chưa thực hiện phân tách chức năng hoàn toàn: cán bộ tín dụng tiếp nhận
hồ sơ xin vay vốn của khách hành là cán bộ ngân hàng đầu tiên thảm định hồ sơ
xin vay vốn và cũng chính là cán bộ kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của
khách hàng sau khi giải ngân; là cán bộ tiếp nhận, quản lý mọi thông tin về

khách hàng. Với quy trình nghiệp vụ này, trường hợp một khoản cho vay sai do


18
trình độ nghiệp vụ yếu kém, do thông đồng giữa cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh
đạo ngân hàng duyệt khoản vay sẽ không được ngăn ngừa, không sớm được
phát hiện và không sửa sai kịp thời. Điều này đã làm giảm tính độc lập, khách
quan của kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Do đó, kiểm toán nội bộ không thể thực
hiện chức năng kiểm toán tổng thể hoạt động, trong đó bao gồm cả việc xem xét
hiệu quả hoạt động của Ban điều hành hay Ban giám đốc đối với chi nhánh một
cách khách quan và hiệu quả.
•Để khắc phục điểm yếu trong quy trình nghiệp vụ cho vay, NHTM cần tổ
chức riêng một bộ phận thu nhận, quản lý thông tin khách hàng, theo dõi và
đánh giá quan hệ kinh tế giữa đơn vị ngân hàng với khách hàng. Bộ phận này
cũng có quyền nhận báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay sau khi giải ngân của
CBTD. Bộ phận thu nhận quản lý thông tin khách hàng cần có một giám đốc
phụ trách, không phải là phó giám đốc phụ trách lao động tín dụng để thực hiện
phân tách chức năng trong hoạt động từ cấp cơ sở đến cấp lãnh đạo cao nhất.
•Hiện nay, còn nhiều quy trình nghiệp vụ quan trọng vẫn chưa được ban
hành hoặc đã có nhưng chưa đầy đủ và bao quát hết được các bước thực hiện
của từng nghiệp vụ cụ thể. Điều này đã gây khó khăn cho Ban kiểm soát và các
phòng ban kiểm toán nội bộ, các bộ phận này không có cơ sở chính thức để đánh
giá hiệu quả của nhiều hoạt động, nghiệp vụ trong Ngân hàng thương mại nhà
nước. Hơn nữa, công tác kiểm toán là chủ yếu sử dụng phương pháp kiểm toán
tuân thủ và kiểm toán chi tiết, với các công cụ và phương tiện thủ công lại chỉ
chú trọng vào các sự việc, các kết quả đã xảy ra, chứ không tiếp cận một cách có
hệ thống và tổng thể trên cơ sở định hướng rủi ro nhằm phát hiện các rủi ro tiềm
ẩn hay những điểm yếu trong quy trình để có những đề xuất kiến nghị sửa đổi
khắc phục. Đồng thời, nếu chỉ đi vào chi tiết thì khi khối lượng công việc tăng
nhanh, bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ bị quá tải không thể đảm đương được nhiệm

vụ của mình.
•Như trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, có
những nhóm khách hàng mà giữa họ có những mối quan hệ rất đặc biệt chi phối
về quan hệ gia đình thân thiết của các thành viên ban lãnh đạo, chi phối về thị


19
trường... Do những mối quan hệ đặc biệt như vậy, rủi ro trong quá trình hoạt
động có thể xảy ra hàng loạt, hoặc dây chuyền ở tất cả các khách hàng trong
nhóm. Vì vậy, trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại cần nghiên cứu
và quy định những trường hợp cụ thể điển hình mà ở đó có một nhóm khách
hàng cần phải quy về một đối tượng khách hàng, đồng thời quy định hạn mức tín
dụng tối đa cho đối tương khách hàng này nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có thể
xảy ra. Hiện nay, trong quy chế nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại
mới chỉ đưa ra giới hạn tối đa cho vay của một khách hàng là 15% vốn tự có.
Nếu giả thiết có một nhóm 5 doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn có quan hệ về vốn điều lệ (trên 50%) chi phối lẫn nhau. Rủi ro trong hoạt
động có thể xảy ra dây chuyền ở tất cả 5 doanh nghiệp trong nhóm, trong khi đó
tổng dư nợ tín dụng mà một NHTM có thể quan hệ với nhóm khách hàng này là
75% vốn tự có của Ngân hàng. Như vậy, tiềm ẩn rủi ro tín dụng đối với ngân
hàng là rất cao.
Ba là, chưa có sự cộng tác tốt giữa các cơ quan giám sát ngân hàng, thanh
tra ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi kiểm toán từ bên ngoài và kiểm toán nội bộ
ngân hàng thương mại, dẫn đến công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây
nhiều phiền nhiễu cho các ngân hàng thương mại, lãng phí thời gian, công sức
tiền của. Trong khi đó, nhiều kĩnh vực hoạt động bộ phận của ngân hàng thương
mại vẫn bị bỏ trống không được kiểm tra, đánh giá một cách độc lập khách
quan. Trong những năm vừa qua, có thể thấy hiện tượng sau: tại một thời điểm,
tại một ngân hàng thương mại quốc doanh, thậm chí một chi nhánh ngân hàng
thương mại quốc doanh vừa có sự thanh tra của ngân hàng nhà nước, vừa có

kiểm toán của kiểm toán nhà nước và theo Luật các tài chính tín dụng, hàng năm
báo cáo quyết toán của đơn vị ngân hàng thương mại còn phải được kiểm toán
bởi một công ty kiểm toán độc lập. Mỗi đơn vị này có chương trình và nội dung
kiểm tra riêng đòi hỏi ngân hàng thương mại phải tiếp ứng.
- Có thể kết luận rằng hoạt động công tác kiểm tra nội bộ và kiểm toán nội
bộ tại các NHTM tuy đã đạt được kết quả ban đầu, nhưng vẫn còn nhiều điểm


20
bất hợp lý, thiếu khoa học dẫn đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động còn thấp,
chưa đáp ứng được nhu cầu giám sát và tư vấn quản lý ngân hàng trong điều
kiện các ngân hàng thương mại đang đứng trước thử thách khắc nghiệt của quá
trình hội nhập với khu vực và thế giới.
2.2. Kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
2.2.1. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ảnh
hưởng đến hệ thống kiểm soát nội bộ
2.2.1.1. Sơ lược về Ngân hàng thương mại
a. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm
khác nhau về NHTM:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ
đầu tư.
Theo Pháp lệnh ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: “NHTM là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Theo Luật các tổ chức Tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng 10/1998:

“ NHTM là lại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm: NHTM, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại ngân hàng khác”.
Trong các ngân hàng trung gian, NHTM là loại hình kinh doanh điển
hình. Hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mô tài sản và về
thành phần các nghiệp vụ. Hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp vụ
nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới


21
trung gian (dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn thông tin giữ hộ chứng từ có giá...).
Ba loại nghiệp vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát
triển, tạo nên uy tín cho ngân hàng.
b. Chức năng của Ngân hàng thương mại:
NHTM có các chức năng chủ yếu sau:
• NHTM là một định chế tài chính trung gian:
NHTM thực hiện chức năng trung gian tài chính khi ngân hàng đứng giữa
thu nhận tiền gửi của người gửi để cho vay người cần tiền vay hoặc làm môi giới
cho người đầu tư. Ở đây, NHTM vừa là người cho vay vừa là người đi vay,
NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho 3 bên trong quan hệ: Người gửi tiền,
ngân hàng, và người vay. Thông qua chức năng này, NHTM thực sự huy động
được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa, thực hiện các dịch vụ tiện ích cho xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
• NHTM vừa là thủ quỹ vừa là trung gian thanh toán của khách hàng
Trong quan hệ kinh doanh thương mại, nếu khối lượng giao dịch lớn thì
việc thanh toán sẽ gặp khó khăn và cần có một tổ chức đứng ra đảm nhiệm công
việc này. NHTM đã đứng ra thực hiện công việc đó nên nó có ý nghĩa rất lớn
trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, an toàn và tiết kiệm chi phí.

Nó tạo ra mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, quan
hệ này đã tạo ra những mối quan hệ tích cực đối với tiến trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Qua việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán hộ thì ngân hàng đã
trở thành thủ quỹ cho khách hàng thông qua việc mở tài khoản tiền gửi thanh
toán cho khách hàng tại ngân hàng. Việc thanh toán giữa các khách hàng được
thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người này sang tài khoản
của người khác thông qua nghiệp vụ kế toán ngân hàng.
• Chức năng tạo tiền:
NHTM ngoài việc thu hút tiền gửi và cho vay trên số tiền gửi đó còn tạo
tiền khi phát tín dụng. Bút tệ hay tiền ghi sổ chỉ tạo ra khi phát tín dụng và thông


×