Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tôn giáo Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.41 KB, 12 trang )

I. BẢN CHẤT TÔN GIÁO VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÔN GIÁO
l. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay
nhiều vị thần linh và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy. Chủ nghĩa
Mác- Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo chỉ là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội. Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph. Ăngghen đã
viết: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc
con người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những thế lực trần thế đã mang hình thức
những lực lượng siêu thần thế.
Về mặt hình thức biểu hiện, một tôn giáo bao gồm hệ thống các quan
niệm tín ngưỡng (giáo lý), các quy định về kiêng cữ, cấm kỵ (giáo luật), các
hình thức về thờ cúng, lễ bái (giáo lễ) và những cơ sở vật chất để thực hiện các
nghi lễ tôn giáo (giáo đường - cơ sở thờ tự).
2. Nguồn gốc tôn giáo và các hình thức tôn giáo trong lịch sử
a. Nguồn gốc tôn giáo
- Nguồn gốc kinh tế- xã hội
Trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn.
Vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa
những sức mạnh của tự nhiên. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những
sức mạnh tự phát của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc sự phân hóa giai
cấp và xã hội, của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người lại ảo tưởng vào
thế giới "bên kia".
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã
hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức
Tôn giáo ra đời từ sự lúng túng, do hạn chế trong trình độ nhận thức của


con người, đã dẫn tới sự thừa nhận một thế giới "bên kia". Khi không giải thích
được các hiện tượng của tự nhiên, như sấm, chớp, mây, mưa... một cách khoa
học, người ta thường gán những hiện tượng đó với các thánh thần. Cũng bằng


cách hoàn toàn giống như thế, sự nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên làm nảy
sinh ra các vị thần.
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên,
xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ khám phá những
điều chưa biết. Song khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn luôn tồn tại. Điều gì
mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới
khách quan, khái quát hóa thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng
khái quát hóa, trừu tượng hóa, thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức
càng có khả năng xa rời hiện thực và phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức
bị tuyệt đối hóa, cường điệu hóa của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách
quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ trở thành siêu nhiên, thần thánh.
- Nguồn gốc tâm lý.
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần
linh". V. I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của
tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong...,
dồn họ vào cảnh chết đói... chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội, những
tình cảm tích cực, như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa
con người với tự nhiên và con người với con người cũng được thể hiện thành tín
ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng
trong tâm hồn, an ủi vỗ về, xoa dịu lúc sa cơ, lỡ vận. Vì thế, tôn giáo dù chỉ là

hạnh phúc hư ảo nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào.
b. Các hình thức tôn giáo trong lịnh sử
- Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp
Trong xã hội chưa có giai cấp, hình thức nguyên thủy của tôn giáo phổ
biến là:
+ Tô-tem giáo: là hình thức tôn giáo cổ xưa nhất, thể hiện niềm tin và
mối liên hệ gần gũi, huyết thống giữa một nhóm người với một vật thể hoặc hiện
tượng nào đó.


+ Ma thuật giáo: là biểu hiện của việc người nguyên thủy tin vào khả
năng tác động đến tự nhiên bằng những hành động tượng trưng (cầu khấn, phù
phép, thần chú ...).
+ Bái vật giáo: là lòng tin vào những thuộc tính siêu nhiên của những
vật thể như hòn đá, gốc cây, bùa, tượng... Về sau, bái vật giáo trở thành đối
tượng thờ cúng của các tôn giáo.
+ Vật linh giáo: là lòng tin ở linh hồn. Vật linh giáo chỉ xuất hiện khi
con người có khả năng hình thành những khái niệm về thế giới siêu linh, thế giới
bên kia.
- Tôn giáo trong xã hội có giai cấp
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, xuất hiện nhà nước, các quốc gia
và vùng lãnh thổ riêng, giai cấp bóc lột thống trị thường lợi dụng tôn giáo để
duy trì sự thống trị của mình, áp bức, bóc lột quần chúng.
Đối với bên ngoài, chúng cũng lợi dụng tôn giáo, núp dưới danh nghĩa tôn
giáo, để thực hiện sự bành trướng, xâm lược. Vì vậy, tôn giáo trong xã hội có giai
cấp thường gắn với chính trị, xuất hiện tôn giáo thế giới và tôn giáo dân tộc.
+ Tôn giáo dân tộc
Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân tộc của nó. Các
vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và quyền lực giới hạn trong
phạm vi quốc gia dân tộc. Một số tôn giáo thế giới lớn cũng được dân tộc hóa ở

mỗi quốc gia, thành tôn giáo có tính chất quốc gia, như Anh giáo hoặc các dòng
khác nhau của Hồi giáo...
+ Tôn giáo thế giới
Một số tôn giáo đã phát triển từ phạm vi quốc gia dân tộc trở thành tôn
giáo thế giới, như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo... Khác với tôn giáo dân
tộc, tôn giáo thế giới có tính chất đa quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực
rộng lớn trên thế giới. Có tôn giáo (như Thiên chúa giáo) có tổ chức quốc tế với
những quy định chặt chẽ như một nhà nước siêu quốc gia trên thế giới.
Xã hội loài người phát triển thì tôn giáo cũng thay đổi hình thức và phát
triển theo. Trong Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, cũng xuất hiện nhiều
dòng, phái, hệ khác nhau, có phạm vi ảnh hưởng ở nhiều nước trên thế giới.
3. Tính chất chung của tôn giáo


a. Tính chất lịch sử
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài,
nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không xuất hiện ngay từ đầu
cùng với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy
trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn
giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó.
Đến một giai đoạn lịch sử khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị
loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức
được bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội, tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị
trí của nó trong đời sống xã hội và trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
b. Tính chất quần chúng
Tính chất quần chúng của tôn giáo thể hiện ở tín đồ các tôn giáo thuộc
tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới.
Nếu chỉ tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến một nửa dân số thế giới chịu
ảnh hưởng của tôn giáo. Tính chất quần chúng của tôn giáo xuất phát từ nhiều

nguyên nhân. Một mặt, cho đến nay sự phát triển của khoa học, sản xuất và xã
hội chưa loại bỏ được những nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Mặt khác, tôn giáo
cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần chúng, phản ánh khát
vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng... Vì vậy, còn
nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
c. Tính chất chính trị
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác
nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống trị lợi dụng tôn giáo phục vụ lợi ích
của mình.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa tôn giáo hoàn toàn tách rời với chính trị.
Nhà nước thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, bao gồm quyền tự do theo hoặc
không theo một tôn giáo nào; sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo thuần
túy, không gắn với chính trị. Chính sách tôn giáo của nhà nước xã hội chủ nghĩa
đã loại bỏ hoàn toàn tính chất chính trị của tôn giáo.
d. Tính chất đối lập với khoa học
Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới hiện thực vào đầu óc con người, giải
thích một cách duy tâm, thần bí những thực tại xã hội mà con người đang gặp


phải. Vì vậy tôn giáo mang tính chất duy tâm, đối lập với chủ nghĩa duy vật biện
chứng khoa học. Trong lịch sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của
mình để đàn áp những nhà khoa học, phủ nhận, những thành tựu khoa học
Trong lịch sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn
áp những nhà khoa học, phủ nhận những thành tựu khoa học
Trong thời đại cách mạng công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay,
tôn giáo có sử dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo, đồng
thời vẫn tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, gieo vào
đầu óc con người những định mệnh không thể cưỡng lại... Tính chất đối lập với
khoa học của tôn giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
l. Xu hướng phục hồi và phát triển của tôn giáo cuối thế kỷ XX đầu
thế kỷ XXI
a. Sự phục hồi của tôn giáo trong những năm gần đây.
Kể từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự thay đổi của
lịch sử hiện thực. Trong thế kỷ XX, tôn giáo cũng có những chuyển biến lớn.
Vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX, người ta thấy tôn giáo ở châu Âu
có xu hướng giảm dần. Trước hiện tượng ấy, một số người cho rằng tôn giáo sẽ
sớm suy tàn. Thậm chí có người còn khẳng định, thế kỷ XX là thế kỷ "cáo
chung" của tôn giáo. Căn cứ để nói sự suy giảm tôn giáo ở Tây Âu là sự suy
giảm trong lĩnh vực thực hành các nghi lễ tôn giáo, số lượng người tham gia
hành lễ và tuân thủ các nghi lễ truyền thống...
Nhưng thực tế lịch sử thế giới đã chứng tỏ, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội còn tồn tại lâu dài. Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và vào
đầu thế kỷ XXI, tôn giáo lại có biểu hiện phát triển ở nhiều khu vực trên thế
giới. Về hình thức, tôn giáo ở Tây Âu có thể có hiện tượng suy giảm, trong khi
tôn giáo ở Đông Âu và các khu vực khác lại đang có chiều hướng tăng lên.
Ở hầu hết các châu lục, tôn giáo đang hồi sinh và phát triển mạnh mẽ dù
cho nó có sự biến đổi sâu sắc về nhiều mặt. Người ta nói nhiều đến Hồi giáo (Ixlam) với trên 900 triệu tín đồ đang được củng cố ở Trung Đông, Bắc Phi, Tây Á,
được phục hưng ở Trung Á, Đông Nam Á..., Thiên chúa giáo chính thống được
khôi phục và phát triển mạnh ở Trung - Đông Âu...
b. Nguyên nhân của sự phục hồi tôn giáo


Thứ nhất, những mâu thuẫn kinh tế, chính trị gay gắt, đẩy người ta đến
với tôn giáo.
Sau khi cục diện đối đầu hai cực trên thế giới tan vỡ nhiều người tưởng
rằng nhân loại sẽ được sống trong môi trường hòa bình. Nhưng thực tế mâu
thuẫn kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, dân tộc... trên thế giới không dịu đi mà
có nơi, có lúc lại trở nên gay gắt hơn. Hàng chục cuộc chiến tranh nổ ra đã đẩy

biết bao con người vào cảnh cơ cực. Sự phát triển của cách mạng công nghệ đẩy
nhanh quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới, tạo ra số lượng
của cải khổng lồ, nhưng cũng làm cho phân hóa xã hội, khoảng cách giàu, nghèo
ngày càng mở rộng, không chỉ trong phạm vi một nước mà mang tính toàn cầu.
Bất lực trước những sức mạnh đó, người ta dễ tìm lời giải trong tôn giáo.
Thứ hai, trật tự thế giới đang có sự xáo trộn khó định trước.
Mâu thuẫn giữa các thế lực trên thế giới, các khu vực giữa các quốc gia,
dân tộc đang trở nên phức tạp đan xen, xáo trộn, thiếu ổn định, tạo nên tâm lý
bất an trong xã hội. Sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong
xã hội Mỹ cũng như một số nơi trên thế giới, dễ làm cho người ta tìm đến tôn
giáo. Hơn nữa, trên thế giới vẫn đang còn đầy rẫy những tệ nạn xã hội, như ma
túy, mại dâm, bạo lực, chiến tranh sắc tộc, dân tộc... làm người ta lo lắng, tìm
chỗ dựa trong tôn giáo.
Thứ ba, khủng hoảng niềm tin về mô hình xã hội tương lai.
Từ khi xã hội có giai cấp và kèm theo là ách áp bức giai cấp, thì ước mơ về
một xã hội bình đẳng, tự do... luôn ấp ủ trong lòng quần chúng nhân dân lao động.
Ngày nay, nhân dân các nước tư bản phát triển ở phương Tây ngày càng
thất vọng trước xã hội tư bản, nhận thấy xã hội tư bản không phải là mô hình xã
hội tương lai. Trong khi đó, sự tan rã của Liên Xô và thực tại xã hội hiện tại đã
làm thất vọng nhân dân nhiều nước ở khu vực này. Trước hiện tại nghiệt ngã và
tương lai bế tắc, người ta dễ đi tìm chỗ dựa tinh thần nơi tôn giáo. Tôn giáo đã
phần nào làm thỏa mãn được nguyện vọng ấy, dù tôn giáo chỉ vẽ ra cho người ta
hạnh phúc hư ảo.
Thứ tư, những hậu quả tiêu cực của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và
công nghệ mới.
Tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ mới đã tạo ra những thành tựu
kỳ diệu trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng đồng thời, những thành
tựu đó được sử dụng vì lợi nhuận của tư bản đã để lại những hậu quả nặng nề
mà nhân loại đang phải gánh chịu.



Lời kêu cứu về tình trạng môi trường bị suy thoái, rừng đang bị tàn phá,
tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, không khí và nguồn nước bị ô nhiễm, trái đất
nóng lên, tầng ô-zôn đang bị phá hủy... làm cho những luận điệu, đại loại như "lời
tiên tri" về nạn hồng thủy mới, ngày tận thế... lại có dịp phát triển, tạo cơ hội cho
các tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, các giáo phái tôn giáo mới xuất hiện.
Thứ năm, sự lợi dụng tôn giáo của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng
đen tối trên thế giới.
Các thế lực đế quốc, đứng đầu là Mỹ hiện nay đang triệt để lợi dụng các
vấn đề tôn giáo để thực hiện ý đồ chia rẽ, gây mất ổn định xã hội đối với các
nước và các khu vực, từ đó thực hiện sự can thiệp từ bên ngoài. Việc khuếch
trương của đạo Tin lành, âm mưu lập "Tin lành Đề ga", lập nhà nước "Đề ga độc
lập" ở Tây Nguyên nước ta trong thời gian gần đây là một ví dụ.
Bên cạnh đó, một số thế lực thù địch, đen tối trong mỗi nước và trên thế
giới không ngừng lợi dụng tôn giáo để đấu tranh giành quyền lực trong nước,
bành trướng lãnh thổ và ảnh hưởng chính trị ra bên ngoài.
Các cuộc chiến tranh giữa người Thiên chúa giáo và người Tin lành ở
Bắc-Ai-len, xung đột ở Ca-sơ-mia, An-giê-ri, các hành động khủng bố... nhiều
khi xuất phát từ các âm mưu, ý đồ, thủ đoạn của các lực lượng đen tối, mê hoặc,
lôi kéo quần chúng nhân dân dưới các khẩu hiệu tôn giáo...
2. Những xu hướng biến đổi của tôn giáo
a. Xu hướng đa dạng hóa tôn giáo, phong trào tôn giáo mới và sự liên
kết tôn giáo.
- Trong xã hội tư bản, khi cá nhân được khẳng định và đề cao đến mức
cường điệu hóa vai trò của cá thể, nên tôn giáo đang có xu hướng giảm dần tính
cộng đồng, cá thể hóa và đa dạng hóa. Vào nửa cuối của thế kỷ XX, sự phát
triển và biến đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử, khoa học - kỹ
thuật... làm xuất hiện phong trào tôn giáo mới, xuất hiện hàng loạt các tôn giáo
mới với màu sắc rất khác nhau. Hiện tượng phân lập, tách biệt của tôn giáo
truyền thống thành các giáo phái nhỏ hơn, thậm chí cá thể hóa tôn giáo, thể hiện

khá rõ ở các nước phát triển. Tại đây còn xuất hiện các giáo phái kỳ lạ, phi nhân
tính, phản văn hóa, gây nhiều tác hại cho xã hội. Mặc dù có số lượng tín đồ ít,
quy mô nhỏ, nhưng các tôn giáo mới lại có số lượng rất nhiều.
- Đi đôi với xu hướng trên, trong các tôn giáo lớn và giữa các tôn giáo
lại xuất hiện xu hướng "liên tôn", "đại kết", hòa hợp hay ít nhất cũng tôn trọng
lẫn nhau, kể cả những tôn giáo có thời kỳ đã từng xoay lưng, đối đầu với nhau.


Cộng đồng Va-ti-can II (1962 - l965) 1à một sự kiện tiêu biểu cho xu
hướng "đại kết" của tôn giáo, với sự có mặt của 2.500 liên minh thuộc nhiều dân
tộc sắc tộc khác nhau. Giáo hoàng đương nhiệm đang cố gắng thực hiện theo xu
hướng này.
Từ năm l950 và đến năm l957, Phật giáo cũng chủ trương "đại kết" bằng
việc thành lập một "Liên hữu Phật giáo thế giới". Mối quan hệ, thăm viếng lẫn
nhau của các tôn giáo quốc tế lớn, như Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Phật giáo
cũng trở nên thường xuyên hơn.
b. Xu hướng trần thế hóa của tôn giáo
Xu hướng trần thế hóa tôn giáo ngược lại với xu hướng thần thánh hóa
đời sống xã hội. Những năm gần đây, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật đã
góp phần nâng cao dân trí, chuyển tải thông tin đa chiều, đa dạng đến các tín
đồ... đã góp phần làm cho niềm tin tôn giáo truyền thống có phần bị phai nhạt
thêm. Tính siêu nhiên, đặc trưng của tôn giáo đang giảm dần, làm cho tôn giáo
sát với đời sống hiện thực hơn.
Trong các tôn giáo, người ta thờ ơ hơn với việc học giáo lý. Quan niệm
về các nghi lễ, phép tắc tôn giáo cũng mang tính chất đời thường hơn là ý nghĩa
thiêng liêng tôn giáo. Một bộ phận tín đồ tham gia sinh hoạt tôn giáo không phải
chỉ do đức tin, mà còn do thói quen theo truyền thống của cá nhân và gia đình.
Một số giáo sĩ cũng quan tâm hơn đến cuộc sống đời thường của người theo
đạo...
Vấn đề trần thế hóa tôn giáo, nhất là trong các tôn giáo mới đôi khi bị

cực đoan thành dung tục hóa, xuất hiện những hiện tượng kích thích những bản
năng nhục dục thấp hèn của con người, như kích thích tình dục, bạo lực, quần
hôn... có tính chất phản kháng xã hội hiện tại... đã gây ra những hậu quả rất tiêu
cực cho đời sống xã hội.
c. Xu hướng dân tộc hóa
Trước sự bành trướng về văn hóa của các nước phương Tây, các dân tộc
nhỏ, có trình độ phát triển thấp đã tăng cường cảnh giác, ra sức giữ gìn, bảo vệ
bản sắc văn hóa riêng của mình, trong đó, không hiếm trường hợp họ kích thích
những tôn giáo truyền thống, lấy đó làm sự gắn kết dân tộc. Trong tình trạng còn
lạc hậu, sự đứt đoạn với tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống thường tạo ra cơ hội
cho sự du nhập của văn hóa, tôn giáo từ bên ngoài. Vì vậy, ý thức dân tộc đã vô
tình hay hữu ý duy trì và phát triển tôn giáo truyền thống của một số dân tộc.


Ngay cả những tôn giáo được du nhập từ bên ngoài, nhiều nơi người ta cũng cố
tìm cách "dân tộc hóa" để trở thành đặc trưng riêng có của họ.
III. TÔN GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
l. Những tác động của tôn giáo trong đời sống xã hội
a. Những tác động của tôn giáo
- Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, tôn giáo
tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Mặc dù phản ánh hư ảo đời sống xã hội,
nhưng với tác động của đức tin, tôn giáo có vai trò trong việc liên kết, tập hợp
cộng đồng. Trong một chừng mực nhất định tôn giáo như là một trong những
nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại dựa trên các hệ thống giá
trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành.
Tôn giáo tạo nên những thăng hoa cho các sáng tạo nghệ thuật, dựa trên
các huyền thoại. Do tôn giáo là một sự kiện văn hóa, nên đã là đề tài sáng tạo
của nhiều bộ môn nghệ thuật. Tôn giáo đã đóng góp khá lớn đối với các di sản
văn hóa của nhân loại, như các công trình kiến trúc, các tác phẩm âm nhạc, điêu
khắc, hội họa... Đồng thời, tôn giáo còn góp phần chuyển tải các giá trị văn hóa,

văn minh trong quá trình giao lưu với nhau trên thế giới.
- Vào buổi bình minh của lịch sử, tôn giáo hình thành như là một nhu
cầu khách quan của con người, đáp ứng được những nhu cầu đó và bù đắp (hư
ảo) những bất lực hiện thực của họ. Theo Ph. Ăngghen, những quan niệm sai
lệch về thiên nhiên là cái bổ sung cho trình độ kinh tế thấp kém của thời tiền sử.
- Trong xã hội có giai cấp trước đây, các giai cấp bóc lột thống trị
thường tìm cách lợi dụng các tôn giáo để thực hiện lợi ích của mình. Ngay cả
đội quân làm tôn giáo chuyên nghiệp cũng bị phân hóa thành người chân tín và
kẻ ngụy tín. Trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ phong kiến triệt để lợi
dụng tôn giáo, kết hợp vương quyền và thần quyền để áp bức, nô dịch nhân dân
trong "đêm trường trung cổ". Để hoàn thành cuộc cách mạng tư sản chống giai
cấp phong kiến, thông thường giai cấp tư sản có sự thỏa hiệp với tôn giáo.
Mặc dù về hình thức, trong xã hội tư bản tôn giáo tách khỏi nhà trường,
nhà nước, nhưng trên thực tế nó vẫn can thiệp vào đời sống chính trị nhiều quốc
gia ở những mức độ khác nhau. Việc hoạt động của Va-ti-can và nhà thờ ở Ba
Lan trong thập kỷ 80 để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi dụng các dự án
kinh tế, tổ chức từ thiện để truyền đạo trái phép ở một số nơi... là một ví dụ.
b. Tác động hai mặt của tôn giáo


Tôn giáo có tác động hai mặt đối với xã hội.
- Một mặt tôn giáo phản ánh khát vọng của con người, sự trăn trở của họ
về một xã hội tốt đẹp hơn. Mặt khác, tôn giáo là sự kìm hãm quá trình hiện thực
hoá khát vọng đó bởi nó phản ánh hiện thực một cách hoang đường, hư ảo.
- Một mặt tôn giáo làm tăng sự liên kết xã hội. Mặt khác tôn giáo cũng là
nguyên nhân của sự rạn nứt các quan hệ xã hội do sự sùng tín hay tính cục bộ cố
hữu của nó.
- Một mặt tôn giáo hướng con người về những giá trị cao cả, đạo đức,
hướng thiện... Mặt khác tôn giáo lại làm tăng tính thụ động của họ theo những
giáo điều có sẵn và bất di bất dịch.

- Một mặt tôn giáo gợi lên những suy tư, tìm tòi, hướng tới xã hội cao
đẹp, dù là ở trên trời. Mặt khác tôn giáo lại ngăn cản sự phát triển của khoa học.
- Một mặt tôn giáo góp phần tạo dựng, tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa
của dân tộc. Mặt khác tôn giáo lại kìm hãm sự sáng tạo hiện thực của con người...
2. Tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.
- Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn tồn tại và sẽ còn tồn tại lâu dài.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình đó là:
+ Tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều có tính bảo
thủ. Khi những điều kiện kinh tế, xã hội sản sinh ra nó đã thay đổi nhưng bản
thân nó biến đổi chậm hơn. Vì vậy, tôn giáo tồn tại với tư cách là một sản phẩm
của lịch sử để lại.
+ Bản thân chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có khả năng khắc phục triệt để,
ngay một lúc các nguồn gốc làm phát sinh và duy trì sự tồn tại của tôn giáo.
+ Giáo lý và hoạt động tôn giáo có một số yếu tố phù hợp với xã hội. Đó
là mặt đạo đức, văn hóa của tôn giáo. Tôn giáo vẫn đang đáp ứng nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân.
+ Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích
nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống
phúc âm giữa lòng dân tộc"...
- Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo đã có những biến đổi cơ bản. Tín
ngưỡng, tôn giáo tách hẳn khỏi nhà nước và nhà trường, chỉ còn là công việc tôn
giáo thuần túy. Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo,
niềm tin tôn giáo. Các hoạt động tôn giáo chân chính được thừa nhận, tôn trọng


và tạo điều kiện. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng và người không có tín
ngưỡng.
Dưới chủ nghĩa xã hội, nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích

cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày
càng nhiều vào các hoạt động thực tiễn cách mạng. Trên cơ sở đó, nhà nước xã
hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính
không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội
đang hiện thực hóa lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi
người dân.




×