Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Luận văn “Thông tin đối ngoại về văn hóa trên báo chí” (qua nghiên cứu, khảo sát báo Vietnam news, Báo ảnh Việt Nam và báo Thế giới&Việt Nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi thực hiện chính sách “Đổi mới” về đường lối phát triển đất nước
trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), nước ta với những cố gắng không
ngừng trên tất cả các mặt trận từ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh
quốc phòng đã ngày càng khẳng định tiếng nói và vị thế của mình trên trường
quốc tế.
Bước sang những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, Việt Nam đang chứng
tỏ rõ ràng hơn cho cộng đồng thế giới thấy một Việt Nam mạnh mẽ vững
bước hội nhập vào cộng đồng thế giới với tinh thần “là bạn, là đối tác tin
cậy” của tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2006, là
Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 20082009, là thành viên tích cực của các tổ chức khu vực như ASEAN, ASEM,
APEC… và nhiều tổ chức quốc tế khác. Đời sống nhân dân trong nước không
ngừng được nâng cao, mức sống của người dân tăng lên đáng kể cùng với nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong nhiều năm liên tiếp. Tất cả những
thành tựu đó đã khiến đất nước ta vững vàng hơn trong xu thế toàn cầu hóa
mạnh mẽ của thế kỷ XXI.
Tuy vậy, điều này đã đặt ra nhiều thách thức cho Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là trong đường lối đối ngoại; khi quan hệ Việt Nam và bạn bè quốc tế
mở rộng cũng đồng nghĩa với việc ta phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp.
Làm sao để đạt được hiệu quả đối ngoại cao nhất, đó là câu hỏi của các cấp,
các ngành trong công cuộc đổi mới. Trong hoàn cảnh mới, Đảng ta xác định,
“thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị”, “mở rộng quan hệ
với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình” [24], “Việt Nam là


bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [25].
Để thực hiện được điều này cùng với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng


được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực, nhu cầu cung cấp thông tin từ Việt
Nam ra thế giới và đưa thế giới đến gần hơn với Việt Nam ngày càng trở nên
cấp thiết. Thông tin đối ngoại là hoạt động thông tin định hướng cho những
đối tượng ở trong và ngoài nước, nhằm tạo sự hiểu biết về Việt Nam, xây
dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, định hướng dư luận trong nước về
tình hình thế giới. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan
tâm và có nhiều biện pháp chỉ đạo nhằm tăng cường công tác thông tin đối
ngoại. Với sự đi lên của đất nước, công tác thông tin đối ngoại đã có bước
phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, đối tượng và địa bàn hoạt
động, góp phần quan trọng chuyển tải đến thế giới thông tin và hình ảnh một
đất nước Việt Nam đổi mới, hội nhập thành công và giàu tiềm năng hợp tác.
Trong thông tin giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, lịch
sử, văn hóa, tiềm năng hợp tác phát triển của Việt Nam thì yếu tố văn hóa
đóng vai trò rất đậm nét. Chẳng hạn, ngày nay khi nói đến chùa Một Cột, Văn
Miếu – Quốc Tử Giám, Hồ Gươm… thì mọi người sẽ nhớ ngay đến Thủ đô
Hà Nội hay nói đến Vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh… thì không chỉ người trong
nước mà cả người nước ngoài cũng đều biết tới Việt Nam. Xét kỹ ra đó chính
là yếu tố văn hóa. Và còn rất nhiều biểu tượng văn hóa khác mà thông qua đó
hình ảnh của đất nước được bạn bè quốc tế biết đến nhiều hơn. Mọi người có
điều kiện hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam trong suốt dặm
dài công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, hiện nay, khi
các phương tiện thông tin, truyền thông phát triển mạnh mẽ thì sự quảng bá,


giới thiệu càng có tính lan tỏa sâu rộng hơn. Văn hóa càng tỏ rõ ưu thế trong
công tác thông tin đối ngoại.
Tại Hội nghị triển khai công tác thông tin đối ngoại 6 tháng cuối năm
2008 của Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, các đại biểu đã thảo luận và đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp

tục hoàn thiện Dự thảo Đề án chiến lược công tác thông tin đối ngoại đến năm
2020. Một trong 8 đề án chuyên sâu tập trung của Đề án này đó là tăng cường
và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa đối ngoại. Như vậy, để tăng
cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, việc nâng cao vai trò
và chất lượng của những sản phẩm văn hóa đối ngoại là thực sự cần thiết. Tại
Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, ngày 14/3/2008, Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm cũng đã nói rằng để
nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, phải tập
trung xây dựng các chương trình, chiến dịch thông tin lớn cả trong và ngoài
nước cùng với việc đa dạng hóa các hình thức, phương tiện thông tin, nâng
cao chất lượng, nội dung các sản phẩm thông tin đối ngoại. Điều đó thể hiện
rằng, việc nâng cao chất lượng nội dung các sản phẩm thông tin đối ngoại,
đặc biệt là sản phẩm về văn hóa, cũng là một trong những mục tiêu trọng
điểm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhằm tăng cường công tác đối
ngoại nói chung và công tác thông tin đối ngoại nói riêng trong tình hình mới.
Từ việc xác định được vai trò to lớn của văn hóa trong tiến trình phát
triển đất nước nói chung cũng như các mối liên hệ quốc tế nói riêng, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định người làm công tác thông tin đối ngoại phải biết làm
văn hóa, phải nâng hàm lượng văn hóa lên. “Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát
triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát


triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các
giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài.
Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn
ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế
độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để
đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều
tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật” [12]. Đẩy mạnh các hoạt

động thông tin đối ngoại về văn hóa đang trở thành nhu cầu tất yếu đối với
Việt Nam. Với thế mạnh là truyền thống nghìn năm văn hiến, sử dụng văn
hóa để thực hiện công tác này sẽ góp phần bảo vệ an ninh, phục vụ phát triển
và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong thời kỳ hội nhập và
phát triển, thông tin đối ngoại về văn hóa đã và đang góp phần tạo dựng và
quảng bá hình ảnh một nước Việt Nam tươi đẹp, phát triển năng động, con
người mến khách và một nền văn hóa độc đáo hấp dẫn.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm và có
nhiều biện pháp chỉ đạo nhằm tăng cường công tác thông tin đối ngoại về văn
hóa. Một trong những biện pháp để đạt được hiệu quả đó là hoạt động thông
tin đối ngoại và ngoại giao văn hóa trên kênh báo chí.
Trong Quyết định số 208/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược ngoại
giao văn hóa đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ đã nêu rõ “Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao thực hiện các hoạt
động văn hóa có yếu tố nước ngoài, các chương trình đón các đoàn văn hóa,
nghệ thuật của nước ngoài vào Việt Nam và giới thiệu các di sản, danh lam
thắng cảnh, truyền thống văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế” [52].


“Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng
chủ trương cung cấp thông tin cho báo chí nước ngoài, cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ
trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành liên quan xây dựng quy
hoạch mạng lưới các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài; xây
dựng cơ chế, chính sách để phát triển và quản lý việc xuất bản, phổ biến ra
nước ngoài những ấn phẩm quảng bá hình ảnh Việt Nam, phối hợp các hoạt
động thông tin đối ngoại với ngoại giao văn hóa” [52].
Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác thông tin đối ngoại về văn hóa
trên báo chí vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra
phải giải quyết để đáp ứng kịp thời những yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng

cao, ngày càng khó khăn của quá trình hội nhập quốc tế, của sự nghiệp đổi
mới đất nước. Để thực hiện điều này được kịp thời và có hiệu quả cao, rất cần
có sự chủ động, kịp thời vào cuộc của các phương tiện truyền thông đại
chúng.
Báo Vietnam news là một tờ báo trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam,
được phát hành bằng ngôn ngữ tiếng Anh hàng ngày; Báo Ảnh Việt Nam (với
8 ngôn ngữ: Việt, Trung, Nga, Anh, Pháp, Nhật, Tây Ban Nha, Lào; trong
giới hạn luận văn này, tác giả khảo sát ngôn ngữ tiếng Việt) và báo Thế
giới&Việt Nam (ấn phẩm thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam) là ba trong số
những ấn phẩm tiêu biểu trực tiếp làm công tác thông tin đối ngoại của nước
ta. Vì vậy nên qua việc nghiên cứu đề tài“Thông tin đối ngoại về văn hóa
trên báo chí” (qua nghiên cứu, khảo sát báo Vietnam news, Báo ảnh Việt
Nam và báo Thế giới&Việt Nam), tác giả muốn có cái nhìn rõ nét hơn về thực
trạng công tác thông tin đối ngoại về văn hóa trên báo chí ở Việt Nam hiện


nay đồng thời một lần nữa khẳng định hiệu quả truyền thông báo chí trong
công tác thông tin đối ngoại về văn hóa của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, hoạt động thông tin đối ngoại ngày càng được chú trọng,
cùng với đó việc nghiên cứu, phân tích về những hoạt động này cũng được
quan tâm triển khai. Tầm quan trọng của thông tin đối ngoại và thông tin đối
ngoại về văn hóa được nhắc đến rất nhiều trên các tạp chí chuyên ngành, các
ấn phẩm báo chí, các trang báo, các website…
Thông tin đối ngoại chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ của những
người quản lý, qua các bài phát biểu, báo cáo tổng hợp của các cơ quan, tổ
chức đang trực tiếp phụ trách các mảng công tác thông tin đối ngoại khác
nhau. Trong số đó, đáng chú ý là các bài phát biểu của đồng chí Vũ Khoan–
nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Trưởng ban chỉ đạo công tác thông
tin đối ngoại- “Một số trọng tâm công tác thông tin đối ngoại”, của đồng chí

Đỗ Quý Doãn “Hoạt động văn hóa thông tin phục vụ thông tin đối ngoại”,
của đồng chí Vũ Văn Hiến “Đài Truyền hình Việt Nam với công tác thông tin
đối ngoại”. Các bài phát biểu đó đã nêu bật tầm quan trọng của hoạt động
thông tin đối ngoại, đồng thời chỉ ra những thành tựu và yếu kém trong các
đơn vị đang phụ trách công tác này. Tuy nhiên, chúng được phổ biến chủ yếu
trong nhóm những người trực tiếp đang tham gia công tác thông tin đối ngoại,
chưa được xã hội hóa cho đông đảo các nhà nghiên cứu và công chúng.
Những năm gần đây, chúng ta bắt đầu có một số nghiên cứu chuyên sâu
về thông tin đối ngoại, thông tin đối ngoại về văn hóa và vai trò của báo chí
đối với công tác này. Trong số đó tiêu biểu là cuống: “Truyền thông đại
chúng trong công tác thông tin đối ngoại Việt Nam” do Phạm Minh Sơn và
Nguyễn Thị Quế đồng chủ biên; Các bài viết “Phương châm “chính xác, sinh


động, kịp thời, hợp đối tượng” trong hoạt động thông tin đối ngoại”, “Những
yêu cầu cơ bản đối với cán bộ truyền thông đại chúng trong công tác thông
tin đối ngoại Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Minh Sơn. Đây là những
cơ sở tài liệu quý báu cho việc thực hiện đề tài.
Đề tài Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí khóa 1996-2000 hệ chính
quy của Nguyễn Minh Chi với đề tài “Báo chí với việc phát triển tiềm năng
du lịch văn hóa Việt Nam” nghiên cứu vai trò của thông tin báo chí đối với sự
phát triển du lịch. Hay đề tài “Báo chí với vấn đề quảng bá du lịch Hạ Long”
tác giả đã tiếp cận, tìm hiểu vấn đề ở những giá trị thực tiễn mà báo chí đã,
đang làm được đối với vấn đề quảng bá du lịch, hình ảnh Hạ Long.
Trước đây, trong đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Thông tin
đối ngoại hệ chính quy của mình, tác giả đã từng tiếp cận với một khía cạnh
vấn đề này với đề tài “Quảng bá hình ảnh Việt Nam qua triển lãm văn hóa
nghệ thuật ở thành phố Hà Nội”. Nội dung đề tài nghiên cứu vai trò của triển
lãm văn hóa nghệ thuật trong công tác quảng bá hình ảnh Việt Nam và thông
tin đối ngoại về văn hóa.

Những đề tài, bài viết nghiên cứu chuyên sâu đề cập đến những vấn đề
cụ thể khác nhưng chưa có một đề tài cụ thể nào nghiên cứu chuyên sâu và
khoa học đề cập đến vai trò của hoạt động thông tin đối ngoại về văn hóa trên
báo chí. Kế thừa những thành quả nghiên cứu của các tác giả trước, tác giả đề
tài đi sâu nghiên cứu về “Thông tin đối ngoại về văn hóa trên báo chí” (qua
nghiên cứu, khảo sát báo Vietnam news, báo ảnh Việt Nam và báo Thế
giới&Việt Nam).
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1.

Mục đích nghiên cứu


Trên cơ sở trình bày về thực trạng hoạt động thông tin đối ngoại về văn
hóa trên báo chí ở Việt Nam hiện nay cũng như bài học kinh nghiệm ở một số
nước, đề tài đề xuất một số phương hướng và giải pháp cho hoạt động này
thời gian tới.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những khái niệm, vấn đề lý luận chung về thông tin, thông
tin đối ngoại, báo chí, văn hóa, hiệu quả thông tin đối ngoại, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về thông tin đối ngoại.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về hiệu quả hoạt động thông tin
đối ngoại về văn hóa trên báo Vietnam news, báo ảnh Việt Nam và báo Thế
giới&Việt Nam.
- Nêu phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả trạng hoạt động này trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

- Các khía cạnh của văn hóa, nội dung thông tin đối ngoại, hiệu quả của
văn hóa trong công tác thông tin đối ngoại được thể hiện trong các bài viết
đăng trên báo Vietnam news, báo Ảnh Việt Nam và báo Thế giới&Việt Nam.
- Báo Vietnam news, phiên bản báo in, số ra hàng ngày (từ tháng
1/2012- tháng 6/2012)
- Báo Thế giới & Việt Nam, phiên bản báo in, bằng ngôn ngữ tiếng
Việt, số ra hàng tuần (từ tháng 1/2012- tháng 6/2012)


- Báo Ảnh Việt Nam, phiên bản báo in, bằng ngôn ngữ tiếng Việt, số ra
hàng tháng (từ tháng 1/2012- tháng 6/2012)
4.2.

Phạm vi vấn đề nghiên cứu

- Trong phạm vi đề tài, tác giả nghiên cứu những khía cạnh sau của văn
hóa:
+ Điện ảnh
+ Nghệ thuật biểu diễn
+ Truyền thống văn hóa
+ Mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm
- Các bài viết trên báo Vietnam news, Thế giới&Việt Nam và báo Ảnh
Việt Nam về văn hóa qua 4 nội dung thông tin đối ngoại là:
+ Tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
+ Quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam

+ Phê phán những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù
địch
+ Tuyên truyền những vấn đề quốc tế
4.3.

Phạm vi thời gian

• Phạm vi không gian: Thực hiện tại Hà Nội
• Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2012 đến tháng 6/2012
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận


- Nền tảng xuyên suốt luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; nhất là khi phân tích cần phải tuân theo các quy luật
khách quan của cuộc sống, thực tiễn, cụ thể là các yêu cầu mới của cách
mạng, báo chí, công chúng.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của báo chí đối với cách mạng, vai trò của công tác tổng kết thực tiễn,
kinh nghiệm; quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
- Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thông tin đối
ngoại, văn hóa, ngoại giao văn hóa, vai trò của báo chí với thông tin tuyên
truyền văn hóa; về chức năng, nhiệm vụ của báo Vietnam news, báo Ảnh Việt
Nam và báo Thế giới&Việt Nam.
- Cơ sở lý luận báo chí, truyền thông hiện đại đối với loại bài viết thông
tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; bài viết
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn nhằm đặt vấn đề mới cho lý luận.
5.2Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu (theo cả định tính và định lượng). Sử
dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích tác phẩm, thống kê, so

sánh, quan sát, tổng hợp các luận điểm. Các tài liệu gồm: các tác phẩm đã
đăng trên Vietnam news, Thế giới&Việt Nam và báo Ảnh Việt Nam.
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi dành cho nhóm đối tượng như:
bạn đọc báo Vietnam news, Thế giới&Việt Nam và báo Ảnh Việt Nam; sinh
viên chuyên ngành văn hóa, thông tin đối ngoại, quan hệ quốc tế, báo chí,
truyền thông, quan hệ công chúng, kinh tế, khối ngành lý luận…, các nhà lãnh
đạo, quản lý, các nhà khoa học. Luận văn đã phát ra 390 phiếu, thực hiện
trong khoảng thời gian từ tháng 7-9/2012.


- Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chung như: Phân
tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, mô hình hóa - khái quát hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại về văn hóa nhằm làm cho thế
giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, tăng cường
xây dựng lòng tin với các quốc gia trên thế giới, đưa quan hệ giữa Việt Nam
với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế
đất nước trên trường quốc tế, tạo điều kiện hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội.
Vì thế bước đầu kết quả của luận văn đóng góp về mặt khoa học, lý luận:
- Hệ thống hóa các quan niệm, khái niệm về thông tin đối ngoại, thông
tin đối ngoại về văn hóa, văn hóa, báo chí, ngoại giao văn hóa, các văn bản,
tài liệu của Đảng và Nhà nước liên quan đến những nội dung trên.
- Làm phong phú thêm lý luận về nội dung, đối tượng, phương pháp
hoạt động thông tin đối ngoại.
- Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của thông tin đối ngoại về văn
hóa trên báo chí, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin đối
ngoại về văn hóa hiện nay.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Làm tài liệu để các cơ quan báo chí, các cơ quan có liên quan tham

khảo phục vụ chuyên môn.
- Phục vụ các cơ quan, đơn vị có nhu cầu tìm hiểu về thông tin tuyên
truyền đối ngoại, vai trò của văn hóa đối với công tác thông tin đối ngoại.


- “Đưa nội dung ngoại giao văn hóa vào giảng dạy một cách phù hợp
tại một số trường Đại học chuyên ngành như Học viện Ngoại giao, Đại học
Văn hóa, Học viện Báo chí và tuyên truyền và các trường có chuyên ngành
liên quan nhằm nâng cao kiến thức của sinh viên, thanh niên đối với công tác
ngoại giao văn hóa [53] là một trong những mục tiêu quan trọng của Đề án về
chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ.
Là giảng viên khoa Quan hệ quốc tế - Học viện Báo chí & Tuyên
truyền nên quá trình nghiên cứu luận văn cũng giúp người thực hiện đề tài
nâng cao hơn năng lực nhận thức và khả năng hoạt động trong chuyên môn
của mình. Cần nhấn mạnh hơn nữa là nội dung ngoại giao văn hóa là một
trong những khía cạnh quan trọng của Thông tin đối ngoại về văn hóa (sẽ
phân biệt cụ thể trong chương 1)
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phụ lục, đề tài gồm có 3 chương và 10tiết


CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI VỀ VĂN HÓA
TRÊN BÁO CHÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

1.1Thông tin đối ngoại
1.1.1 Khái niệm Thông tin
Thông tin là một khái niệm tưởng như rất quen thuộc trong cuộc sống,
tuy nhiên, xung quanh vấn đề định nghĩa thông tin đã nảy sinh nhiều cuộc
thảo luận, tranh cãi bởi cách tiếp cận vấn đề ở những góc độ, quan điểm khác

nhau. Những khác biệt này thể hiện trong nhiều vấn đề: về thực thể thông tin,
những dấu hiệu, hình thức biểu hiện, quan hệ của thông tin với các quy luật
và phạm trù triết học, vai trò của thông tin trong quản lý, đời sống và trong sự
phát triển xã hội. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau, cụ thể:
- Trong tiếng La-tinh, “thông tin”-Informatio- nghĩa là thông báo, giải
thích, tóm tắt. Thông tin là bất kỳ một chi tiết hoặc một thông báo mà ai đó
quan tâm. Thông tin cũng có thể là những thông báo về đối tượng và những
hiện tượng xảy ra xung quanh chúng ta, về những thông số, bản chất và tình
trạng của chúng, những điều mà hệ thống thông tin (máy móc, con người) đã
truyền tải lại trong quá trình công việc và cuộc sống.
- “Đại từ điển tiếng Việt [17] định nghĩa, “thông tin”: 1. Động từ:
Truyền tin, đưa tin báo cho nhau biết, ví dụ, “thông tin bằng điện thoại. Có gì
thông tin cho nhau biết với”. 2. Danh từ: 1. Tin tức được truyền đi cho biết, ví
dụ “theo thông tin mới nhận được”. 2. Tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế


giới xung quanh, ví dụ “bài viết có nhiều thông tin mới. Khắc phục tình trạng
thiếu thông tin”.
- “Thông tin” còn được coi là đặc tính của mọi sự phản ánh thế giới từ
giới vô cơ đến giới hữu cơ, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là đặc tính phản ánh
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc loài người. Thông tin là sản
phẩm ý thức của con người phản ánh thực tại khách quan, mang tính chất
chọn lọc được diễn đạt trong thông báo và được sử dụng trong đời sống xã
hội.
Thông tin còn là công cụ điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia,
là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các nước, dân tộc,
là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển
kinh tế - xã hội.
Từ các khái niệm khác nhau về thông tin nêu trên, có thể rút ra và
thống nhất sử dụng khái niệm mang tính phổ biến và phù hợp nhất đối với

công tác thông tin đối ngoại, đó là: Thông tin là tin tức, thông báo, tri thức về
một sự vật hay một hiện tượng được chứa đựng trong các hình thức nhất định,
được tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng qua các phương thức thích hợp.
1.1.2 Khái niệm “Thông tin đối ngoại”
Cho đến nay, cũng chưa có định nghĩa thống nhất về thông tin đối
ngoại. Có thể hiểu thông tin đối ngoại theo các cách tiếp cận sau:
- Thông tin đối ngoại là một dạng thông tin, được hiểu là tin tức, là
thông báo, là tri thức về một sự vật hay một hiện tượng được chứa đựng trong
các hình thức nhất định, được tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng trong công tác
đối ngoại. Thông tin đối ngoại bao gồm những thông tin trong nước và quốc
tế được dùng trong quá trình hoạt động đối ngoại.
- Theo Wikipedia, “Thông tin đối ngoại là những hoạt động chủ động
cung cấp thông tin có định hướng để giới thiệu, phổ biến, quảng bá… về một


đối tượng cụ thể (một đất nước, một tổ chức, nhóm người, cá nhân..) nhằm
mục đích gây thiện cảm, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nhân tố bên
ngoài hoặc để đối phó, phản bác đối với những thông tin sai lệch, gây bất lợi.
Hoặc theo một cách hiểu khác, Thông tin đối ngoại là những tin tức, sự
kiện… được cung cấp mang tính ngoại giao và ứng đối với bên ngoài” [56].
- Thông tin đối ngoại là một lĩnh vực hoạt động: “Thông tin đối ngoại
là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta,
mục đích làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài
đang sinh sống, công tác tại Việt Nam, người Việt Nam đang sinh sống và
làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ
trương chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng
hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [54].
Như vậy, thông tin đối ngoại không chỉ là sự truyền thông tin đối ngoại,
mà còn là hoạt động mang tính tổng hợp, có tính tác động hai chiều. Phạm vi

hoạt động thông tin đối ngoại rất rộng, bao gồm những hoạt động tuyên
truyền, nghiên cứu lý luận, phân tích, bình luận những sự kiện quốc tế, những
vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế,… nhằm bảo đảm tính khoa học và
tính thuyết phục của các thông tin.
1.1.3 Vai trò của thông tin đối ngoại
Trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam trước đây, thông tin đối
ngoại luôn có vị trí quan trọng trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của
cuộc đấu tranh chính nghĩa, tối đa hóa nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ của cộng
đồng quốc tế để giành thắng lợi. Lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng
đất nước đã chứng minh rằng, nhờ làm tốt công tác thông tin đối ngoại, thế
giới hiểu về lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, nhờ đó đã


đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ Việt Nam góp phần quan trọng vào những
thành quả của cách mạng Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại
và phát triển mà không mở cửa, giao lưu với các nước khác trên thế giới. Trên
con đường mở cửa, hội nhập, Viêt Nam một mặt tìm hiểu toàn diện về thế
giới, mặt khác cũng rất cần để thế giới hiểu hơn về Việt Nam, qua đó tìm
kiếm và tăng cường các cơ hội hợp tác cùng phát triển. Do vậy, nhu cầu cung
cấp thông tin từ Việt Nam ra thế giới và đưa thế giới đến với Việt Nam ngày
càng lớn mạnh và cấp thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra, thông tin đối ngoại
cũng giúp nhân dân Việt Nam đón nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật,
kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh cùng những tinh hoa văn
hóa của các dân tộc trên thế giới.
Bên cạnh đó thông tin đối ngoại còn đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc
gia, làm rõ quan điểm của Việt Nam về các vấn đề toàn cầu, như môi trường,
dân số, bệnh tật và các vấn đề khác, như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo.
Thông tin đối ngoại đấu tranh dư luận, phê phán, bác bỏ những thông tin sai
lệch, những luận điệu bôi xấu, xuyên tạc của các thế lực thù địch, giúp nhân

dân hiểu đúng tình hình trong nước cũng như quốc tế.
1.1.4 Nhiệm vụ, đối tượng, phương châm, lực lượng hoạt động thông tin
đối ngoại
• Nhiệm vụ
Nhiệm vụ chủ yếu của thông tin đối ngoại là làm cho bạn bè thế giới
(bao gồm cả người nước ngoài đang sinh sống ở Việt Nam và người Việt
Nam đang sinh sống ở nước ngoài) hiểu rõ hơn về đường lối đối ngoại của ta,
những thành tựu đổi mới đất nước, nét đặc sắc của văn hóa và con người Việt
Nam, từ đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ


quốc… Vì thế, cùng với yêu cầu phát triển chung của đất nước, lực lượng và
địa bàn thông tin đối ngoại tiếp tục được mở rộng.
Nhiệm vụ thông tin cũng ngày càng được bổ sung, được luật hóa trong
nhiều công cụ thông tin. Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí năm 1999 đề cập đến 6 nhiệm vụ của báo chí, trong đó 3 nhiệm vụ
được quy định ở đây liên quan đến nội dung thông tin đối ngoại, đó là:
“- Thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với
lợi ích của đất nước và của nhân dân;
- Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước
và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí;
- Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia
vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”.
Nội dung bảo vệ lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân mang tính
đặc thù quan trọng hàng đầu trong các hoạt động đối ngoại nói chung và
tuyên truyền đối ngoại qua báo chí nói riêng. Các loại hình báo chí nói chun
hoạt động theo ton chỉ mục đích của mình đều có trách nhiệm đối với các

nhiệm vụ nêu trên, đặc biệt, đối với báo chí chuyên trách về thông tin đối
ngoại thì các nội dung tuyên truyền đối ngoại nêu trên còn là chức năng chủ
yếu và giữ vai trò mũi nhọn trong công tác tuyên truyền đối ngoại.
• Đối tượng của thông tin đối ngoại
Đối tượng thông tin đối ngoại khác cơ bản với thông tin đối nội. Đối
tượng của thông tin đối nội là cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân
trong nước. Tuyệt đại đa số đối tượng này tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, nhất trí với đường lối, chính sách của Nhà nước. Người làm công tác
thông tin và đối tượng thông tin cùng chung chí hướng, các tư duy và suy
nghĩ. Ngược lại, trong thông tin đối ngoại, giữa người làm thông tin và đối


tượng cần thông tin có sự khác biệt thậm chí đôi khi là đối lập về cách tư duy,
cách suy nghĩ, văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán…
Ngoài ra, đối tượng khác của thông tin đối ngoại là các tầng lớp, giai
cấp, thành phần xã hội nước ngoài với trình độ nhận thức, hiểu biết và có mối
quan tâm khác nhau đến Việt Nam. Cụ thể, là nhân dân tất cả các nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước
lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội lớn và các bạn bè truyền thống…
Về cơ bản, có thể chia đối tượng của hoạt động thông tin đối ngoại thành 4
nhóm đối tượng chính:
- Nhân dân, chính phủ các nước trên thế giới
Đây là nhóm đối tượng lớn nhất của công tác thông tin đối ngoại. Hiện
nay, công tác thông tin đối ngoại chủ yếu tập trung cung cấp thông tin cho các
nước láng giềng, các nước trong khu vực, một số nước lớn, những trung tâm
kinh tế - chính trị - xã hội lớn, các nước bạn bè truyền thống và các nước có
đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Trong mỗi nước, thông tin đối
ngoại tập trung vào chính giới, các nhà kinh doanh, trí thức, đội ngũ người
làm báo chí, xuất bản, các nhà Việt Nam học, những bạn bè có thiện chí với
Việt Nam – những người là cầu nối Việt Nam với thế giới.

- Người nước ngoài sinh sống, làm việc, học tập, du lịch ở Việt Nam
Đó là những người nước ngoài đang làm việc trong các đoàn ngoại
giao, đại diện các tổ chức chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức
phi chính phủ quốc tế, giới đầu tư kinh doanh, chuyên gia nước ngoài trong
các lĩnh vực, phóng viên thường trú các cơ quan thông tấn, báo chí, các đoàn
khách viếng thăm, du lịch, lưu học sinh nước ngoài… Những ấn tượng tốt đẹp
của họ về đất nước và con người Việt Nam là một lời quảng cáo quý giá về
hình ảnh của Việt Nam.


Ngoài ra, những phóng viên nước ngoài thường trú tại Việt Nam, đội
ngũ doanh nhân đang làm ăn, sinh sống tại Việt Nam, cán bộ các đại sứ quán,
các cơ quan đại diện nước ngoài và quốc tế tại Việt Nam,… cũng là đối tượng
quan trọng, vì những thông tin do họ “phát lại” ở nước ngoài thường có độ tin
cậy cao. Do vậy, nhiệm vụ của thông tin đối ngoại là cung cấp cho họ thông
tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam, về các sự kiện quan
trọng, tình hình toàn diện của Việt Nam càng đầy đủ, càng chính xác, càng
kịp thời càng tốt.
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Đây là nhóm đối tượng rất đông đảo, đa dạng và phong phú vói khoảng
4,5 triệu người, đang sinh sống và làm việc ở 104 nước và vùng lãnh thổ. Họ
ra nước ngoài vì nhiều lý do và bằng nhiều con đường khác nhau, nơi họ có tổ
tiên, quê hương, gia đình, người thân, bạn bè… Khi những người này hiểu
đúng tình hình đất nước họ sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong quan hệ với
nước sở tại và trở thành lực lượng làm thông tin đối ngoại ngay tại nơi họ cư
trú.
- Nhân dân trong nước
Đây là lực lượng vừa thực hiện, vừa là đối tượng hướng tới của công
tác thông tin đối ngoại. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, như cầu thông tin
quốc tế của nhân dân trong nước ngày càng tăng. Thông tin đối ngoại có

nhiệm vụ cung cấp thông tin quốc tế kịp thời, chính xác, giúp nhân dân trong
nước có hiểu biết đúng đắn các sự kiện, diễn biến phức tạp trong quan hệ
quốc tế. Trên cơ sở đó, người dân hiểu rõ các chủ trương, đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời có những phản ứng kịp thời,
phù hợp với các sự kiện, diễn biến đó. Công tác thông tin đối ngoại cũng đấu
tranh dư luận nhằm vạch trần các hành động, luận điệu kích động, chống phá,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; giúp nhân dân ta hiểu rõ hơn


âm mưu, mục đích, thủ đoạn của những hành động, luận điệu của chúng và
hiểu rõ hơn về lập trường, quan điểm, thái độ của Việt Nam trước các vấn đề
đó.
• Phương châm
Chỉ thị 10/2000 tháng 4/2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, yêu cầu quán triệt Chỉ thị
số 11//CT-TW ngày 13 tháng 6 năm 1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(Khóa VII) và Thông báo số 188/TB-TW ngày 29 tháng 12 năm 1998 của
Thường vụ Bộ Chính trị nêu rõ các phương châm triển khai công tác thông tin
đối ngoại là:
- Tất cả các bộ, ngành, các địa phương, các cấp đều có trách nhiệm chỉ
đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại trong phạm vi quản
lý của mình.
- Công tác thông tin đối ngoại triển khai toàn diện, rộng khắp, song
phải có trọng tâm, trọng điểm, trước hết là đối với các nước láng giềng và
trong khu vực, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, ưu tiên cung cấp
thông tin đúng định hướng cho người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống,
làm việc, du lịch, học tập và các nhà Việt Nam học trên thế giới.
Ở địa bàn nước ngoài, cần coi trọng các nước láng giềng, các nước
trong khu vực, bạn bè truyền thông, lâu đời và các trung tâm chính trị, kinh tế
lớn, các nước lớn. Với các địa bàn này, đòi hỏi phải có các nguồn lực lớn để

nắm bắt nhu cầu thông tin cũng như tổ chức phương tiện truyền tải thông tin.
Địa bàn trong nước là nơi sinh sống, làm việc, kinh doanh và học tập,
du lịch của rất nhiều người nước ngoài. Thông tin đối ngoại tại chỗ có rất
nhiều thuận lợi về phương tiện truyền tải, nhưng rất khó khăn về định hướng
thông tin. Ranh giới giữa thông tin đối ngoại và thông tin đối nội ngày càng
giảm bớt ý nghĩa. Các báo chí, ấn phẩm đối ngoại (bằng tiếng nước ngoài) chỉ
có ý nghĩa tăng thêm một số đối tượng, trong khi báo chí đối nội (bằng tiếng
Việt) mới thực sự là nguồn thông tin chủ yếu và quan trọng để các đối tượng


nước ngoài khai thác, sử dụng và đưa tin về Việt Nam. Ở địa bàn trong nước,
thông tin đối ngoại cần phối hợp với thông tin đối nội để đàm bảo hiểu quả
của cả hai tuyến thông tin này.
- Tổ chức, phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp lực lượng làm công
tác thông tin đối ngoại.
Do đối tượng của thông tin đối ngoại hoàn toàn khác với thông tin đối
nội nên phương pháp thông tin cũng khác, tùy theo đối tượng, nội dung và
thời điểm. Công tác thông tin đối ngoại cần hướng tới:
- Cung cấp thông tin: Vấn đề mấu chốt của công tác thông tin đối ngoại
là thông tin. Cung cấp thông tin đầy đủ sẽ tạo ra nhiều lợi thế cho việc vận
động dư luận. Cụ thể, cần cung cấp thông tin đầy đủ, tránh được những thông
tin sai lệch về đất nước, về chính sách của Việt Nam; cung cấp quan điểm
cũng như cách nhìn nhận sự việc của Việt Nam; chủ động mới xác định được
số lượng thông tin cần cung cấp, phân loại thông tin và thời điểm cung cấp
thông tin thích hợp.
- Tính thuyết phục: Thực tế cho thấy, thông tin đối ngoại cần phải có
sức thuyết phục. Thuyết phục là một quy trình, trong đó người nói hoặc người
viết sử dụng lý lẽ và lập luận khiến người nghe hoặc người đọc chấp nhận
quan điểm của mình về một vấn đề nào đó, hay đồng tình với cách xử lý của
mình. Để thuyết phục thành công, người làm công tác thông tin đối ngoại cần

tìm cách tiếp cận đối tượng, tìm và xác định được điểm tương đồng giữa mình
và đối tượng, đưa ra các lý lẽ xác đáng và tác động vào tâm lý và tình cảm của
đối tượng.
- Sự cảm hóa: Cảm hóa thiên về góc độ tình cảm và đạo lý. Tuy nhiên,
muốn cảm hóa được đối tượng thì lý vẫn phải thuộc về mình. Nói cách khác,
người thông tin phải có chân lý, lẽ phải và chính nghĩa.
Thực tế thuyết phục và cảm hóa thường được kết hợp trong hung biện
nói chung và trong quá trình vận động dư luận nói riêng. Thuyết phục mà
không có cảm hóa sẽ không thành công, vì chỉ có lý mà không có tình. Hơn


nữa, trong quan niệm về hung biện, thuyết phục là dùng lý lẽ để tác động vào
tâm lý, tình cảm của đối tượng, từ đó thuyết phục đối tượng của mình.
- Tính hiệu quả: Khác với thông tin đối nội, thông tin đối ngoại nhằm
mục đích và hiệu quả khác nhau, tùy thuộc đối tượng, vấn đề cần thông tin và
thời điểm thông tin. Thông tin đối nội nhằm khơi dậy lý trí, tình cảm của mọi
tầng lớp nhân dân để dấy lên một phong trào thi đua vì mục đích chính trị.
Ngược lại, tác dụng của thông tin đối ngoại không đồng nhất và ở nhiều mức
độ khác nhau.
- Tối thiểu: Nói đến hiệu quả tối thiểu có nghĩa là thông tin đối ngoại
cố gắng đạt được những mục đích như: cô lập các đối tượng chống đối vì lý
do chính trị: hạn chế tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực từ mọi phía; thuyết
phục và cảm hóa những đối tượng bị lợi dụng.
- Tối đa: thông tin đối ngoại luôn cố gắng đạt hiệu quả tối đa trong thực
hiện nhiệm vụ bác bỏ những luận điệu xuyên tạc và những thái độ chống đối
Việt Nam; thuyết phục, cảm hóa nhiều đối tượng để họ ủng hộ chúng ta bằng
lời nói, thậm chí bằng cả hành động; vận động dư luận và các đối tượng ủng
hộ ta gây sức ép để chính phủ nước họ bình thường hóa hoặc phát triển, mở
rộng quan hệ mọi mặt với nước ta.
1.2Văn hóa, thông tin đối ngoại về văn hóa và ngoại giao văn hóa

1.2.1 Tổng quan về “Văn hóa”
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của
xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ
từ rất sớm. Tuy nhiên, vào thế kỷ XIX thuật ngữ “văn hóa” mới được những
nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Theo ông
E.B.Taylo, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà
con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.


Ở thế kỷ XX, theo A.L.Kroibo và C.L.Klúchôn, quan niệm văn hóa là
hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, nó là
thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao
gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được
con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [28].
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí
Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa” [29]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ
những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa
của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn
thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng
cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng
lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến
con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên

lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo
đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ
bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề
kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [43]. Theo
định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con
người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng
của mỗi người, mỗi dân tộc.


Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức
hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng,
miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống, tín ngưỡng…” [26]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn
hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và
giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”[26].
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định
nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn
hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập
hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát
triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật…
Còn các định nghĩa khác thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con
người trong cuộc sống là văn hóa.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn
học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn
hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường

khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử
và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...
Trong khuôn khổ luận văn này, văn hóa được tác giả đề cập đến ở các
khía cạnh sau: Điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; truyền thống văn hóa và mỹ
thuật, nhiếp ảnh, triển lãm.
1.2.2 Thông tin đối ngoại về văn hóa


Thông tin đối ngoại về văn hóa là thông qua việc sử dụng các “sản
phẩm văn hóa” như tác phẩm điện ảnh; chương trình nghệ thuật biểu diễn; ẩm
thực, truyền thống văn hóa và mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, tuần lễ văn hóa
Việt Nam ở nước ngoài… để tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, phê phán
những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch và thông tin
những vấn đề văn hóa thế giới đến nhân dân, chính phủ các nước trên thế
giới, những người nước ngoài sinh sống, làm việc, học tập, du lịch ở Việt
Nam, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân trong nước, qua
đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của các đối tượng này.
Tuy nhiên cần phân biệt rõ khái niệm thông tin đối ngoại về văn hóa và
khái niệm Ngoại giao văn hóa.
1.23 Ngoại giao văn hóa
Nhà nghiên cứu Zhulite Antonius Sarborosi đại học Georgetown Mỹ
cho rằng “Ngoại giao văn hóa là sự đầu tư mang tính lâu dài được tiến hành
nhằm thúc đẩy quan hệ giữa nhân dân ta với nhân dân các nước khác nhằm
thúc đẩy hiểu biết hai bên, để nhân dân các nước khác hiểu hơn về lợi ích và
chính sách quốc gia của chúng ta” [44].
Cựu ngoại trưởng Mỹ George P. Shultz quan niệm “chúng ta nhổ cỏ từ
khi mới nhú, chúng ta xây dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau để tạo nền
tảng vững vàng cho việc giải quyết mọi khủng hoảng phát sinh”. Theo cách ví
von này ngoại giao văn hóa là việc gieo mầm, thông qua việc trao đổi ý tưởng

và hình mẫu, mỹ học và nhận thức tâm linh, văn hóa và nghệ thuật để tạo điều
kiện cho mảnh đất ngoại giao đơm hoa kết trái.
Bộ Ngoại giao Mỹ định nghĩa “Ngoại giao văn hóa là nội dung cốt lõi
của ngoại giao công chúng, vì các hoạt động văn hóa thể hiện rõ nét nhất hình
ảnh của một đất nước. Ngoại giao văn hóa có thể góp phần tăng cường an


×