LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài niên luận này, em xin chân thành cảm ơn Thầy, Cô
trong Đại học Luật – Đại học Huế trong suốt thời gian qua đã truyền đạt cho
em những kiến thức bổ ích, giúp em có được nền tảng kiến thức để thực hiện
bài niên luận này.
Đặc biệt, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến TS Đặng Công Cường đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và đưa ra những lời nhận xét, đánh giá cần thiết
để em có thể thực hiện và hoàn thành đề tài niên luận này.
Mặc dù đã cố gắng trong việc tìm kiếm, nghiên cứu và tham khảo các
tài liệu nhưng do hạn chế về thời gian và điều kiện thực tiễn cũng như học
thức chưa được sâu sắc nên bài làm vẫn còn nhiều thiếu sót. Do đó, em rất
chân thành tiếp thu các ý kiến đánh giá của thầy cô và bạn bè để bài niên luận
của mình được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp xử lý hành chính có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
đấu tranh phòng, chống các hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, văn hóa,
pháp luật. Đồng thời, góp phần to lớn trong việc giáo dục người có hành vi vi
phạm trở thành những công dân tốt cho xã hội. Vấn đề vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực hành chính là mối quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là Việt Nam. Công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan, tổ chức và toàn thể nhân dân. Việc
đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính đối với các đối tượng vi phạm có ý nghĩa quan trọng trong xã hội
nước ta, chúng liên quan đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, lợi ích xã hội và nhân dân. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
không chỉ là một hoạt động xử lý vi phạm hành chính thông thường mà ít
nhiều có liên quan đến sự hạn chế quyền tự do cá nhân trong một giai đoạn
nhất định. Nên trong thời gian vừa qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy
định về các biện pháp xử lý hành chính để việc áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính được dễ dàng, thuận tiện và có hiệu quả. Theo Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012 thì có 4 biện pháp xử lý hành chính: biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc; biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bên
cạnh đó còn có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về các biện
pháp xử lý hành chính như: Nghị định 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của
Chính Phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
xã, phường, thị trấn; Nghị định 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014 của Chính
Phủ quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc… Nhìn chung, hệ thống văn
bản bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến việc áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính. Các văn bản quy định tương đối chi tiết về trình tự, thủ tục
từ việc quyết định áp dụng đến việc tổ chức thực hiện các biện pháp xử lý
3
hành chính. Do vậy việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về các biện pháp
xử lý hành chính là rất cần thiết. Nếu mọi người nhận thức được đúng và đầy
đủ vấn đề này thì vừa đóng góp tích cực, hạn chế các hành vi vi phạm pháp
luật, vừa góp phần vào việc giáo dục, cảm hóa và phòng chống những vi
phạm pháp luật trong cuộc sống.
Trên thực tế, hiện nay tình hình vi phạm pháp luật hành chính ở nước ta
diễn ra nhiều, diễn biến khá phức tạp và thành phố Huế cũng không phải
ngoại lệ. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên việc áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính ở thành phố Huế còn gặp nhiều khó khăn, các cơ quan khi áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính thường kéo dài, tốn kém cả thời gian và
công sức nhưng hiệu quả không cao nên cần có những giải pháp phù hợp
nhằm giảm thiểu tình trạng vi phạm. Việc áp dụng những biện pháp xử lý
hành chính như thế nào không chỉ thể hiện phương pháp quyền uy - phục tùng
của luật hành chính mà còn góp phần trong giáo dục ý thức pháp luật, ngăn
ngừa những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng.
Với một sinh viên đang được học tập tại thành phố Huế, nên tôi chọn đề tài
“Áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành hành chính – thực tiễn tại thành
phố Huế (giai đoạn 2014 - 2015)” làm đề tài niên luận của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành hành chính – thực
tiễn tại thành phố Huế (giai đoạn 2014 - 2015)” có mục đích nghiên cứu
những quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý
vi phạm hành chính tại thành phố Huế, trên cơ sở đó tìm ra những bất cập,
vướng mắc ngay trong các quy định và thực tiễn áp dụng, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại
thành phố Huế.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, niên luận có những nhiệm vụ sau:
4
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý
hành chính.
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại thành phố Huế; đề ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại thành phố Huế.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính đối với cá nhân là người Việt Nam, có hành vi vi phạm pháp luật về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự.
Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính trên địa bàn thành phố Huế từ năm 2014 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin tôn trọng quyền con người và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
trong việc nhìn nhận các vấn đề của quá trình nghiên cứu. Các quy định của
pháp luật đã đề ra buộc các chủ thể phải thực hiện đúng nhằm đảm bảo an
ninh trật tự và an toàn xã hội. Nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì chủ thể đó
sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể ở đề tài này là phương pháp so sánh.
Phương pháp này được sử dụng để so sánh giữa các quy định của pháp luật
Việt Nam về các biện pháp xử lý hành chính tại thời điểm áp dụng. Phương
pháp này cũng được sử dụng để so sánh các ưu điểm và hạn chế giữa các quy
định đó để có phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý hành
chính.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong đề tài này nhằm làm sáng tỏ
những quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính cũng như
thực tiễn áp dụng các biện pháp này.
Ngoài ra, đề tài này còn tổng hợp phương pháp thống kê, phương pháp
diễn giải để làm rõ thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
5
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành hành chính – thực
tiễn tại thành phố Huế (giai đoạn 2014 - 2015)” gồm ba phần: phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Những quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý hành
chính.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại thành phố Huế.
6
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH
1.1. Đối tượng áp dụng
- Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Đối tượng áp dụng của biện pháp này được quy định tại điều 90 của
Luật xử lý vi phạm hành chính gồm các đối tượng như sau:
+ Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng có
hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định.
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của
cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc
người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Những người quy định tại các điều trên mà không có nơi cư trú ổn
định thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản
lý, giáo dục trong thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn.
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Đối tượng áp dụng của biện pháp này được quy định tại điều 90 của
Luật xử lý vi phạm hành chính gồm các đối tượng như sau:
+ Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
7
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu
của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng có
hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định.
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của
cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc
người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Những người quy định tại các điều trên mà không có nơi cư trú ổn
định thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản
lý, giáo dục trong thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn.
- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc theo
Điều 94 Luật xử lý vi phạm hành chính bao gồm các đối tượng sau:
+ Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là
người thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước
ngoài; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước
ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có
nơi cư trú ổn định.
+ Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với
các trường hợp sau đây:
•
•
•
•
Người không có năng lực trách nhiệm hành chính.
Người chưa đủ 18 tuổi.
Nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi.
Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện.
8
•
Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
- Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
quy định tại điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính gồm một số đối tượng
như sau:
+ Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này
nhưng không có nơi cư trú ổn định.
+ Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với
các trường hợp sau đây:
•
•
•
Người không có năng lực trách nhiệm hành chính.
Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện.
Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
1.2. Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính
Điều 105 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định:
Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn là của chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú và
chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ
em đã tiếp nhận người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định đóng trụ
sở.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
là của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đây là nội dung thay đổi rất lớn so với
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: thẩm quyền quyết định áp dụng các
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chuyển từ chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
9
huyện qua cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Việc giao cho Toà án quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nêu trên sẽ tạo điều kiện cho đương
sự, luật sư, người bào chữa được tham dự để bảo vệ quyền lợi của đương sự,
bảo đảm dân chủ, khách quan; phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.
1.3. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính
* Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định tại
điều 98 của Luật xử lý vi phạm hành chính:
Theo đó, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp này, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao cho công chức
tư pháp – hộ tịch kiểm tra hồ sơ và tổ chức cuộc họp tư vấn. Trong cuộc
họp, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã làm chủ trì với sự tham gia của
Trưởng Công an cấp xã, công chức tư pháp – hộ tịch, đại diện của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan,
đại diện dân cư ở cơ sở. Người bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn và cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải được
mời tham gia cuộc họp và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện
pháp. Việc tổ chức, nội dung, kết quả cuộc họp tư vấn về việc áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên là
không được công khai.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc họp tư vấn, chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn. Tùy từng đối tượng mà chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã quyết định giao người được giáo dục cho cơ quan, tổ chức hay cho gia
đình quản lý, giáo dục. Trong trường hợp đối tượng được giáo dục không có
nơi cư trú ổn định thì người đó được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ
giúp trẻ em để quản lý, giáo dục.
Chương II, Nghị định 111/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện
pháp xử lý hành chính tại xã, phường, thị trấn quy định: Trong thời hạn 03
10
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của trưởng công an cấp xã, chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp quản lý
tại gia đình. Trường hợp chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không đồng ý với
đề nghị của trưởng công an cùng cấp trong giai đoạn lập hồ sơ, thì chuyển
lại để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Trường hợp không đồng ý với việc đề nghị sau khi kết thúc cuộc họp tư vấn
thì chủ tịch Ủy ban nhân dân ra quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc họp tư vấn , chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã xem xét ra một trong 3 quyết định sau: quyết định giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; quyết định không áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; quyết định quản lý tại gia đình đối với người chưa
thành niên.
Những quyết định trên có hiệu lực kể từ ngày ký. Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày quyết định có hiệu lực, quyết định được gửi cho
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Như vậy, điều 98 Luật xử lý vi phạm hành chính có quy định cụ thể
đại diện tư pháp là công chức tư pháp – hộ tịch; quy định cụ thể thành phần
được mời tham dự cuộc họp tư vấn về phía người được giáo dục là người bị
đề nghị áp dụng biện pháp này, cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của
người đó, đồng thời đảm bảo cho họ có quyền phát biểu ý kiến của mình về
việc áp dụng biện pháp.
* Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại điều
100 của Luật xử lý vi phạm hành chính:
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng Công an
cấp huyện xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân
cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; trường hợp hồ sơ
chưa đầy đủ thì chuyển lại cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu
bổ sung hồ sơ.
11
Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm:
- Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;
- Văn bản của Trưởng công an cấp huyện về việc đề nghị xem xét áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
* Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính là biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc được quy định tại
điều 102 của Luật xư lý vi phạm hành chính:
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ quy định tại Điều
101 và Điều 118 của Luật xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Công an cấp
huyện quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy
đủ thì chuyển lại cơ quan đã lập hồ sơ tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ
sơ.
Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc bao gồm:
- Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
quy định tại Điều 101 và Điều 118 của Luật xử lý vi phạm hành chính;
- Văn bản của Trưởng Công an cấp huyện về việc đề nghị xem xét áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
* Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính là biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc được quy định tại
điều 104 của Luật xử lý vi phạm hành chính:
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện quyết định việc chuyển hồ sơ
đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì giao cơ quan đã lập hồ sơ
để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ.
Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bao gồm:
12
- Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Văn bản của Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp
huyện về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
1.4. Quy định về thi hành, hoãn, miễn chấp hành, tạm đình chỉ, và
miễn chấp hành phần còn lại của quyết định, hết hạn chấp hành quyết
định biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thẩm quyền quyết định hoãn, miễn chấp hành, tạm đình chỉ và miễn
chấp hành phần còn lại của quyết định được giao cho Tòa án nhân dân. Luật
quy định đối tượng ốm nặng, mắc bệnh hiểm nghèo mà không xác định
được nơi cư trú thuộc trường hợp được tạm đình chỉ chấp hành quyết định
hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại quy định là tại khoản 2
Điều 112 Luật xử lý vi phạm hành chính thì được đưa về cơ sở y tế tại địa
phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc đóng trụ sở để điều trị (khoản 4 Điều 112 Luật xử lý vi phạm hành
chính). Quy định về quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp
hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc nhằm giải quyết vướng mắc trong thực tiễn là không có
cơ quan, tổ chức nào quản lý người được hoãn, miễn chấp hành những quyết
định này (Điều 113 Luật xử lý vi phạm hành chính).
Khi hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính thì:
- Khi người vi phạm đã chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã,
phường, thị trấn thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy chứng nhận
cho người đã chấp hành xong và gửi bản sao cho gia đình người đó.
- Khi người vi phạm đã chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám
đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc cấp giấy chứng nhận cho người đã chấp hành
13
xong và gửi bản sao cho gia đình người đó, Tòa án nhân dân cấp huyện nơi đã
ra quyết định, cơ quan quản lý trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
- Đối tượng không xác định được nơi cư trú là người chưa thành niên
hoặc người ốm yếu không còn khả năng lao động thì sau khi hết hạn chấp
hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc được đưa về cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở.
1.5. Các quy định khác liên quan đến việc áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính
- Tạm thời đưa người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
ra khỏi nơi chấp hành biện pháp xử lý hành chính theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự (Điều 115 Luật xử lý vi phạm hành chính):
Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền,
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc
cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định tạm thời đưa người đang chấp hành biện
pháp xử lý hành chính ra khỏi nơi chấp hành biện pháp đó để tham gia tố tụng
trong các vụ án có liên quan đến người đó.
Thời gian tạm thời đưa ra khỏi nơi chấp hành biện pháp xử lý hành
chính được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp đó.
- Chuyển hồ sơ của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 116 Luật xử lý vi
phạm hành chính):
+ Khi xem xét hồ sơ của đối tượng để quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm của người đó có dấu hiệu tội
phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự có thẩm quyền.
+ Đối với trường hợp đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm của người bị áp dụng biện pháp
14
này có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc Tòa án nhân dân đã ra quyết định áp dụng
biện pháp xử lý hành chính phải huỷ quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày,
kể từ ngày huỷ quyết định phải chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Trường hợp bị Toà án xử phạt tù thì thời hạn đối tượng đã chấp hành
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù;
1,5 ngày chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tính bằng 01 ngày chấp
hành hình phạt tù.
- Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện
trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính (Điều 117
Luật xử lý vi phạm hành chính):
Trường hợp phát hiện người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã
thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định,
thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang thi hành biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo
dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải ra quyết định tạm đình
chỉ thi hành quyết định đối với người đó và chuyển hồ sơ của đối tượng cho
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp bị Toà án xử phạt tù thì người
đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù
thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính.
- Xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều
118 Luật xử lý vi phạm hành chính)
15
+ Trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối
tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Trường hợp người nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc
thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này.
+ Trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi, đối tượng đang chấp hành quyết
định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc nếu có hành vi vi phạm các quy định tại
Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành chính thì bị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc.
Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc tiến hành lập hồ sơ đề nghị đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc đối với đối tượng có hành vi quy định tại Điều 94
Luật xử lý vi phạm hành chính trên cơ sở hồ sơ hiện có và biên bản về hành vi
vi phạm mới gửi Trưởng Công an cấp huyện nơi có cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm lấy ý kiến của Trưởng phòng Tư
pháp về tính pháp lý của hồ sơ trước khi xem xét, gửi hồ sơ đề nghị Tòa án
nhân dân nơi có cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thủ tục xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối
với các đối tượng này thực hiện theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ
HUẾ
2.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại thành
phố Huế giai đoạn năm 2014 đến năm 2015
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội
Huế là thành phố trực thuộc của tỉnh Thừa Thiên - Huế; nằm ở toạ độ
địa lý 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh Đông. Phía Bắc và phía Tây giáp
thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã
16
Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, về
phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 101 km, cách biển Thuận An 14 km,
cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu Chân
Mây 50 km. Thành phố Huế có tổng diện tích là 71,7 km2; Dân số: 352.046
người; Mật độ dân số: 4857,4 người/km2 (số liệu năm 2015) và có 27 đơn vị
hành chính gồm 27 phường.
Thành phố Huế là trung tâm về nhiều mặt của miền Trung như văn hoá,
chính trị, y tế, giáo dục, du lịch, khoa học... Nền kinh tế của thành phố tăng
trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Các lĩnh vực y tế giáo
dục, văn hóa xã hội, môi trường đều có kết quả tốt. Công tác an ninh xã hội
được chăm lo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Bên cạnh đó, tình hình vi phạm pháp luật hành chính trên địa bàn thành
phố Huế diễn biến khá phức tạp, đối tượng chủ yếu là người chưa thành niên.
Các cơ quan chức năng cần có kế hoạch nhằm giúp đỡ các em, phòng ngừa và
đấu tranh các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn thành phố.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại thành
phố Huế giai đoạn năm 2014 đến năm 2015
Bảng áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên địa bàn thành phố
Huế từ năm 2014 đến năm 20151
Nă
m
Biện pháp áp dụng
Tổng 2 năm
2014
2015
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
02
03
05
Đưa vào trường giáo dưỡng
01
01
02
Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
0
0
0
1 Số liệu lấy từ báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân thành phố Huế và Ủy ban nhân dân thành phố Huế
năm 2014, 2015.
17
Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
0
0
0
Qua bảng trên cho thấy: Từ đầu năm 2014 đến cuối năm 2015, trên địa
bàn thành phố Huế đã áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với tổng số
07 đối tượng. Trong đó, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có số
lượng cao nhất, thứ hai là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, và cuối cùng
là biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
Năm 2014, trên địa bàn thành phố Huế đã có 2 đối tượng bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; cả 2 đối tượng đều được giáo dục
có tiến bộ. Còn năm 2015 thì số đối tượng bị vi phạm pháp luật bị đưa vào áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là 3 đối tượng - tăng so với
năm 2014. Trong đó, 2 đối tượng được giáo dục có tiến bộ, còn 1 đối tượng
giáo dục không có tiến bộ. Việc quản lý, giáo dục đối tượng được giao cho
Công an.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng qua 2 năm
2014 và 2015 trên địa bàn thành phố Huế là 2 đối tượng. Trường hợp ở năm
2014 đã được giải quyết, còn năm 2015 thì chưa được giải quyết vì mới thụ lý
hồ sơ. Cả 2 đối tượng này đều không có nghề nghiệp, có độ tuổi từ 16 đến 18
tuổi. Đặc điểm nổi bật của đối tượng là nhận thức hạn chế, sống buông thả, tự
do, vô kỷ luật, lười lao động, lười học tập.
Không có đối tượng nào bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Nhìn chung thời gian qua, việc xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tòa án nhân dân là nhiệm vụ mà Tòa án mới được giao, nhưng
thực tế cho thấy các đối tượng cần được áp dụng biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân có số lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, số hồ sơ mà các
Tòa án nhân dân đã thụ lý để xem xét, giải quyết còn ít, chưa phản ánh đúng
yêu cầu thực tế của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
18
nhân dân. Thực tế này có nhiều nguyên nhân, về nguyên nhân khách quan còn
có những lúng túng, vướng mắc nhất định trong việc lập hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính; và đây là công việc mới nên có Tòa án còn
chậm trễ trong việc thụ lý hồ sơ đề nghị. Và đây cũng chỉ là các vụ vi phạm bị
phát hiện và thực trạng các vụ vi phạm chưa phát hiện có thể nhiều hơn nữa.
Trong điều kiện hiện nay, tình hình pháp luật có diễn biễn phức tạp, việc thực
hiện vẫn còn nhiều khó khăn.
2.2. Nguyên nhân của thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính kém hiệu quả
* Về các quy định của pháp luật
- Các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế và thiếu sự
chặt chẽ:
+ Việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đạt hiệu
quả không cao, mặc dù mục đích là giáo dục, cảm hoá đối tượng ngay tại
cộng đồng; đối tượng bị áp dụng biện pháp này không tiến bộ còn xuất phát
từ nguyên nhân là pháp luật quy định thời gian áp dụng biện pháp này ngắn
(tối đa là 6 tháng) nên chưa thể hiện được tính răn đe, giáo dục cao.
+ Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ
sở giáo dưỡng, cơ sở giáo dục chưa đạt hiệu quả cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu giáo dục, quản lý đối tượng vi phạm pháp luật tại địa phương. Nguyên
nhân chính là việc xây dựng, ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành các
Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế
độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và
Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014 của Chính phủ quy định chế
độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở
giáo dục bắt buộc và Thông tư ban hành các biểu mẫu sử dụng khi áp dụng
biện pháp xử lý hành chính chưa được kịp thời.
+ Nghị định 111/2013/NĐ-CP quy định thiếu rõ ràng về đối tượng áp
dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
19
trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng hoặc là người từ đủ 18
tuổi trở lên, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của công dân hoặc người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã
hội mới bị áp dụng biện pháp xử phạt này. Vậy đối tượng vi phạm lần thứ hai
đã bị xử phạt hay phải tới lần thứ ba mới có đủ điều kiện để áp dụng biện
pháp xử lý hành chính? Trong trường hợp phạm hai tội khác nhau, lần đầu là
trộm cắp nhưng lần sau là gây rối trật tự công cộng thì có được xem là căn cứ
xác định đối tượng đó đã bị xử phạt tới hai lần hay không?
Hơn nữa, Nghị định cũng không nêu cụ thể số lần bị xử phạt như trên là
chỉ trong phạm vi địa phương đối tượng đang cư trú hay bao gồm cả vi phạm
tại nơi khác. Thực tế cho thấy, nhiều đối tượng bị phát hiện xử phạt vi phạm
hành chính lần đầu ở địa bàn này nhưng đã vi phạm và bị xử phạt trước đó ở
địa bàn khác. Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn nên
được áp dụng cho tất cả các đối tượng vi phạm đã bị xử phạt hành chính mà
không giới hạn phạm vi chỉ ở nơi cư trú. Song, để thực hiện có hiệu quả, cần
có điều khoản bắt buộc cơ quan, cá nhân đã xử phạt vi phạm hành chính phải
có trách nhiệm gửi hồ sơ xử phạt về địa phương nơi người vi phạm cư trú để
tiện theo dõi, quản lý. Nếu không có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các địa
phương sẽ gây ra nhiều khó khăn cho địa phương trong xác minh và xử lý.
+ Thời hiệu, thủ tục quy định ở Nghị định 111/2013/NĐ-CP còn bất
cập. Có đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính và đã được giáo dục tại xã
nhưng thời hiệu quy định cho việc giáo dục tại xã chỉ 6 tháng là quá ít. Sau
khi hết hiệu lực giáo dục, đối tượng tiếp tục vi phạm hành chính thì không thể
đưa đi cơ sở giáo dục được vì đã hết thời gian quy định, gây khó cho quản lý.
Việc xác định thời hiệu như trên không thống nhất với quy định tại Luật
Xử lý vi phạm hành chính và dễ dẫn tới trường hợp thời gian xử lý vi phạm
hành chính lần hai vẫn còn nhưng thời hiệu áp dụng các biện pháp giáo dục
tại xã, phường đã hết. Có trường hợp, đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp,
lừa đảo từ tháng 1 nhưng để điều tra, phát hiện hành vi vi phạm, lực lượng
20
chức năng phải mất một khoảng thời gian dài. Nhìn chung, việc xác định thời
hiệu từ khi đối tượng đó vi phạm lần cuối đã rút ngắn thời gian chấp hành
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Điều đó đòi hỏi phải sửa đổi quy
định về thời hiệu áp dụng là 6 tháng kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính lần hai; đối với trường hợp đối tượng thực hiện hành vi có dấu
hiệu tội phạm cũng cần kéo dài thời hiệu 6 tháng hoặc 1 năm kể từ ngày phát
hiện hành vi vi phạm thay vì thực hiện hành vi vi phạm.
Nhiều địa phương còn lúng túng khi áp dụng biện pháp xử lý hành
chính này do vướng hồ sơ, thủ tục. Đơn cử như đối với đối tượng nghiện ma
túy, để lập được hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn thì phải có văn bản xác nhận tình trạng nghiện của cơ sở y tế có thẩm
quyền. Song, đội ngũ y tế ở Ủy ban nhân dân xã, phường ít được tập huấn,
trình độ chuyên môn còn hạn chế nên chưa đủ khả năng xác định tình trạng
nghiện của đối tượng.2
Quy định đối tượng vi phạm phải có mặt tại Hội đồng xét duyệt để xét
duyệt và công bố biện pháp giáo dục tại xã, phường cũng rất khó thực hiện.
Bởi vì, một số đối tượng vi phạm bị triệu tập nhưng cố tình trốn tránh không
chịu hợp tác, trong khi đó Nghị định còn thiếu chế tài xử lý đối với những
hành vi này.
+ Việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc còn rất nhiều khó khăn. Nghị định số 221/2013/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc chưa được các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn cụ thể,
nhất là đối với các thủ tục khó áp dụng trong thực tiễn như: việc giao cho tổ
chức xã hội quản lý người không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ
tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (hiện chưa có tổ
chức xã hội đáp ứng được yêu cầu theo quy định); việc xác định tình trạng
nghiện ma túy chưa đồng bộ; quy trình thực hiện còn qua nhiều khâu phức
tạp.
2 Vướng mắc khi thực hiện Nghị định 111/2013 - Đỗ Quyên.
21
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc triển khai công
tác thi hành pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý vi hành chính đôi lúc
chưa chặt chẽ.
- Trong hoạt động quản lý, giáo dục đối tượng đã có sự phân công cá
nhân, tổ chức, đoàn thể trực tiếp quản lý giáo dục đối tượng còn mang tính hình
thức, hiệu quả chưa cao.
* Về năng lực cán bộ, ý thức của người dân
Thực tế, một bộ phận cán bộ có năng lực còn hạn chế, vẫn còn chế độ
kiêm nhiệm dẫn tới việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính chưa đạt hiệu
quả cao. Bên cạnh đó, sự hiểu biết pháp luật của đại đa số nhân dân trên địa
bàn thành phố còn thấp. Sự tiếp nhận thông tin pháp luật mới cập nhật còn hạn
chế; một số bộ phận có thái độ chống đối.3
Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật chất của Trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục còn nhiều khó khăn, đầu tư kinh phí cho ăn, ở, sinh hoạt, giáo dục, học tập,
dạy nghề, y tế… nhìn chung còn thấp so với mức sống chung của xã hội. Đây
là vấn đề cần được xem xét, giải quyết để có cơ chế pháp luật và những điều
kiện bảo đảm phù hợp với mục tiêu, nội dung, yêu cầu của các biện pháp hành
chính.4
2.3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính
- Thứ nhất, sửa đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cần được
tăng cường; cần quy định thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn sao cho phù hợp với đối tượng bị áp dụng để đạt hiệu quả cao nhất.
Đề nghị quy định kéo dài thời gian áp dụng đối với trường hợp đã ít
nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời quy định trách nhiệm
phối hợp giữa các địa phương trong việc trao đổi, cung cấp thông tin vi phạm.
3 Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hiện nay
4 Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hiện nay
22
Về thời hiệu, đề nghị quy định theo hướng thời hiệu áp dụng biện pháp
giáo dục là 06 tháng kể từ ngày ra quyết đinh xử phạt vi phạm hành chính lần
2 thay vì kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành
chính bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số
111/2013/NĐ-CP để thống nhất với thời hiệu tại Luật Xử lý vi phạm hành
chính và tránh trường hợp thời gian xử lý hành vi vi phạm hành chính lần 02
còn nhưng thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thì đã hết.
Riêng đối với trường hợp đối tượng thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm,
đề nghị quy định thời hiệu 06 tháng hoặc 01 năm kể từ ngày phát hiện hành vi
vi phạm thay vì thực hiện hành vi vi phạm.
Đề nghị bổ sung chế tài áp dụng đối với trường hợp người vi phạm cố
tình trốn tránh, không chịu hợp tác với cơ quan chức năng khi triệu tập và
thực hiện các biện pháp giáo dục bắt buộc.
Sửa đổi, bổ sung những quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người nghiện ma túy tại Nghị
định số 111/2013/NĐ-CP theo hướng người nghiện phải tự nguyện cai nghiện
và tự quyết định hình thức cai của mình.
Sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính về “áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy” theo hướng “áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy” với các lý do như sau: Sử dụng ma túy là hành vi có chủ định; có hại cho
bản thân người sử dụng, cho gia đình và xã hội; xử lý sớm hành vi sử dụng
ma túy trái phép với các biện pháp thích hợp giúp họ từ bỏ hành vi sử dụng
trước khi họ bị lệ thuộc vào chất ma túy (nghiện ma túy) mang lại hiệu quả
cao hơn so với biện pháp xử lý khi họ đã bị nghiện.
Đẩy mạnh việc chuyển đổi các cơ sở cai nghiện bắt buộc sang cơ sở cai
nghiện tự nguyện đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ và có chính sách hỗ
trợ để thu hút người nghiện vào cai nghiện tự nguyện.
Đẩy mạnh công tác cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng
làm cơ sở cho việc lập hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
23
Thứ hai, tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa các cơ quan có
trách nhiệm tổ chức, thực thi các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính trong việc lập hồ sơ đề nghị, chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính sang Tòa án nhân dân và tố chức thi hành các quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính sau khi quyết định của Tòa án có
hiệu lực.
- Thứ ba, thường xuyên tổ chức phổ biến, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp
vụ cho cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị, địa phương mình về
Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng
07 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản có liên quan, đặc biệt là
các văn bản quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhằm nâng
cao hơn nữa kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm thực hiện chất lượng,
hiệu quả công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; áp dụng
các quy định mới được ban hành đầy đủ, kịp thời, chính xác.
- Thứ tư, nâng cao tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân trên
địa bàn thành phố để người dân hiểu rõ các quy định của pháp luật tránh tình
trạng vi phạm pháp luật, khuyến khích người dân tích cực phát hiện tố giác tội
phạm, góp phần đấu tranh phòng, chống những hành vi vi phạm pháp luật.
- Thứ năm, tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính cần được củng cố, kiện toàn cả về cơ sở vật chất, kinh
phí hoạt động, biên chế Thẩm phán và Thư ký. Tăng cường đầu tư các trang,
thiết bị phục vụ cho công tác thi hành pháp luật về áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính.
24
C. KẾT LUẬN
Thông qua việc đánh giá tổng hợp thực trạng áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại thành phố Huế, chúng ta thấy rằng việc áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể là Ủy ban
nhân dân và Tòa án nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định; nhưng
bên cạnh đó vẫn còn những bất cập hạn chế trong việc quản lý và thực hiện
pháp luật. Vì tình trạng vi phạm pháp luật ngày một phức tạp nên đòi hỏi các
cơ quan chức năng của thành phố Huế cũng như cả nước phải khắc phục
những bất cập còn tồn tại. Đối với mỗi cá nhân, chúng ta phải tự giác chấp
hành pháp luật hơn nữa.
Tôi hy vọng, với những nghiên cứu, giải pháp của mình sẽ góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của bản thân nói riêng và cộng đồng nói chung;
góp phần xây dựng một thành phố Huế văn minh, ổn định.
25