ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------
NIÊN LUẬN
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI – THỰC
TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA
THIÊN HUẾ (GIAI ĐOẠN 2013-2015)
Họ và tên sinh viên: NGUYỄN THẢO DUNG
1
HUẾ, 03/2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------
NIÊN LUẬN
KHÓA 37
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI – THỰC
TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA
THIÊN HUẾ (GIAI ĐOẠN 2013-2015)
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TH.S NGUYỄN THỊ PHI YẾN
SINH VIÊN THỰC HIỆN
NGUYỄN THẢO DUNG
MSSV: 13A5011047
LỚP: LUẬT K37E
HUẾ, 03/2016
2
Lời Cảm Ơn
Để thực hiện được đề tài niên luận “Giải quyết khiếu nại trong
lónh vực quản lý nhà nước về đất đai – thực tiễn tại thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế (giai đoạn 2013 – 2015)”. Trước hết em xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu trường Đại học Luật - Đại
học Huế và thư viện trường đã tạo điều kiện để em có thể được học tập
và nghiên cứu tài liệu trong quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời cũng
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướ ng dẫn Cô Nguyễn Thị
Phi Yến, người đã tận tình chỉ dẫn trong suốt quá trình, giúp em
định hướng được những kiến thức cơ bản làm nền tảng để thực hiện bài
niên luận này.
Trong quá trình thực hiện bài niên luận, do hạn chế về mặt kiến
thức cũng như phạm vi nghiên cứu. Nên em không thể tránh khỏi
những thiếu sót, vì thế rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ
cô. Đó sẽ là hành trang quý giá giúp em hoàn thiện kiến thức của
mình sau này.
Cuối cùng em kính chúc cô dồi dào sức khỏe và thành công trong
sự nghiệp cao quý.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thaûo Dung
3
4
MỤC LỤC
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất cung cấp
lương thực thực phẩm cho con người và cũng là nơi con người, sinh vật tồn
tại và phát triển. Với tốc độ gia tăng dân số như hiện nay, diện tích đất ngày
càng bị thu hẹp, vì vậy đất trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Cùng với đó là sự
phát triển khơng ngừng của xã hội kèm theo đó là các quan hệ xã hội ngày
càng phức tạp hơn. Đồng thời yêu cầu về một xã hội dân chủ ngày càng được
quan tâm, quyền con người trong đó có quyền khiếu nại cũng được chú trọng
nhiều hơn. Chính vì những lẽ đó mà các tranh chấp, khiếu nại luôn tập trung ở
lĩnh vực đất đai. Ở Việt Nam, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật về khiếu nại, nhằm tạo cơ sở pháp lý để người dân bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn thi hành
pháp luật còn nhiều vướng mắc.
Vì vậy, em chọn đề tài “ Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai – Thực tiễn tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
( giai đoạn 2013-2015)” để làm đề tài nghiên cứu của mình. Thơng qua hoạt
động thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế để tìm hiểu nguyên nhân tồn tại
những vướng mắc đó và đưa ra một vài kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại bảo đảm quyền khiếu nại – quyền cơ bản của
cơng dân.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Cơng tác xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo là hoạt động thiết thực và gắn
liền với mỗi người dân trên thực tế, thể hiện cách thức mà người dân có thể sử
dụng để bảo vệ lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội, nhưng thực tế cho
thấy vẫn còn một số tồn đọng và hạn chế trong hoạt động này. Ví dụ như các
cơ quan có thẩm quyền thì giải quyết trì trệ, khơng thống nhất; người dân thì
khơng xác định được cơ quan nào có thể giải quyết do đó đơn thư được gửi
6
chồng chéo đến nhiều cơ quan khác nhau. Do vậy mục đích nghiên cứu đề tài
này của em là nêu lên được thực trạng khiếu nại tố cáo đất đai trên địa bàn
thành phố Huế. Từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại về đất đai dựa trên sự phân tích , đánh giá các nguyên
nhân của thực trạng khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Huế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các
vấn đề chủ yếu sau:
+ Về mặt lý luận:
Làm sáng tỏ khái niệm, bản chất, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của
cơng tác giải quyết khiếu nại đất đai.
Phân tích làm rõ quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về công tác
giải quyết khiếu nại.
+ Về mặt thực tiễn:
Các quan điểm khác nhau về công tác giải quyết khiếu nại.
Phân tích thực tiễn áp dụng quy định giải quyết khiếu nại đất đai.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, giải
quyết khiếu nại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng đó là hoạt động trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại đất đai,
cụ thể là xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của cán bộ và hoạt động khiếu nại tố
cáo của người dân. Cụ thể là cách thức mà cán bộ, công chức thực hiện việc
xử lý đơn khiếu nại, tố cáo như thế nào và có sai sót gì khơng; cịn đối với
người dân thì xem xét họ có đang thực hiện quyền của mình đúng với quy
định của pháp luật không và cách thức thực hiện như thế nào.
Phạm vi nghiên cứu đó là: từ những quy định của pháp luật ( luật khiếu
nại 2011 và luật tố cáo 2011) và hiểu hiểu thực trạng cụ thể ở thành phố Huế,
để rút ra được những hạn chế, thiếu sót và cách khắc phục của hoạt động được
nghiên cứu.
7
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi ra, tơi
cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp so sánh.
Để phục vụ cho bài làm của mình, em đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích để nêu rõ các vấn đề được pháp luật quy định ở
phần chương 1 và phân tích làm rõ thực trạng cũng như hướng giải quyết ở
chương 2.
Phương pháp so sánh để làm rõ các đặc điểm một cách chi tiết nhất ở
phần khái niệm khiếu nại cũng như các quy định pháp luật liên quan.
Phương pháp thống kê tìm hiểu và thống kê các số liệu cụ thể được thể
hiện chủ yếu ở phần thực trạng.
Phương pháp tổng hợp để làm rõ vấn đề nghiên cứu và đưa ra kết luận,
chủ yếu được sử dụng ở phần kết luận của mỗi vấn đề.
5. Kết cấu của niên luận
Đề tài có 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung ( gồm 2 chương ) và phần
kết luận.
- Phần mở đầu
- Phần nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại đất đai.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện một số quy định của pháp
luật về giải quyết khiếu nại đất đai tại thành phố Huế - tỉnh Thừa Thiên Huế
(Giai đoạn 2013 – 2015)
- Phần kết luận
8
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI
VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐẤT ĐAI
1.1. Pháp luật về khiếu nại
1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2005 của Viện ngôn ngữ học: “ Khiếu nại
là đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét một việc làm mà mình
khơng đồng ý, cho là trái phép hay khơng hợp lý.”[11]
Dưới góc độ pháp lý thì theo quy định tại Điều 2, Khoản 1, Luật khiếu
nại 2011 quy định: “ Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán
bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy đinh, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xẻ lại quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức khi có căn cứ
cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, so với khái niệm từ từ điển Tiếng Việt 2005 thì khái niệm khiếu
nại được quy định tại Luật khiếu nại 2011 được quy định cụ thể, rõ ràng và
được quy định ở một phạm vi hẹp hơn. [4]
1.1.2. Vai trò của khiếu nại
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân đã được
Hiến pháp ghi nhận và được cụ thể hóa trong các văn bản luật liên quan [2].
Để việc giải quyết khiếu nại được triệt để, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và
lợi ích của cơng dân, Quốc hội đã ban hành Luật khiếu nại, tố cáo ngày
02/12/1998, đã được sửa đổi bổ sung vào các năm 2004 và 2005. Nay được
thay thế bởi Luật khiếu nại năm 2011 và Luật tố cáo năm 2011, hai luật này
đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2012. Qua đó, ta chứng minh rằng
quyền khiếu nại đóng một vai trò hết sức quan trọng.
9
Thứ nhất, khiếu nại là một trong những biện pháp mà để công dân, cơ
quan, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi có những căn cứ xác thực cho rằng quyền, lợi ích của mình bị xâm
phạm; khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, cơng dân thực hiện quyền
khiếu nại của mình, qua đó cơng dân, cơ quan, tổ chức u cầu chấm dứt
quyết định hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chứng, hành vi hành
chính trái pháp luật xâm hại. Đồng thời, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình họ có thể u cần khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do chính
những quyết định hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chứng, hành vi
hành gây ra.
Như vậy, khi công dân thực hiện quyền khiếu nại sẽ phản ánh trung thực
những tiêu cực, bất cập trong xã hội để từ đó đưa ta những biện pháp phòng
chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Hơn thế nữa, chính quyền khiếu
nại sẽ làm cho các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước khi ra quyết
định hay thực hiện hành vi hành chính cần suy xét kỹ càng, cần thiết và thận
trọng để đưa đến những quyết định đúng đắn, thực hiện những hành vi hành
chính đúng luật, hạn chế những sai phạm và quyền, lợi ích hợp pháp của cơng
dân sẽ được đảm bảo. Chính vì vậy, khiếu nại là quyền cơ bản của công dân
cũng đồng thời là biện pháp để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp khác.
Thứ hai, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quyền khiếu nại được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã
hội. Để giải quyết khiếu nại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét kỹ
để giải quyết đúng theo quy định của pháp luật, từ đó phát hiện những sai trái,
kịp thời minh oan và xử lý nghiêm những sai phạm. Bên cạnh đó, q trình
giải quyết khiếu nại sẽ giải quyết những bất cập, tồn đọng trong quá trình
quản lý, những khe hở của pháp luật, từ đó, chỉnh đốn, nâng cao hiệu quả hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức, điều chỉnh những bất hợp lý trong các
quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của cơ
qua, cán bộ công chức.
10
Thứ ba, góp phần củng cố mối quan hệ giữ nhân dân với nhà nước.
Trên cơ sở tiếp công dân, tiếp nhận, xác minh, xử lý các đơn thư tố cáo,
khiếu nại nhà nước sẽ hiểu được những tâm tư, nguyện vọng, ước muốn của
nhân dân trước những quy định của pháp luật. Mặt khác, việc tiếp nhận, xác
minh và xử lý các đơn thư khiếu nại đúng pháp luật sẽ kịp thời xử lý những
oan sai, giúp vấn đề khiếu nại được giải quyết triệt để, thấu tình đạt lý, khôi
phục quyền lợi cho nhân dân, những cán bộ liên quan có hành vi sai trái kịp
thời bị xử lý. Trong những trường hợp đó, khơng những giúp nhân dân hiểu
hơn các quy định pháp luật về vấn đề liên quan mà còn nâng cao lòng tin của
nhân dân trước Đảng và nhà nước, góp phần siệt chặt thêm mối quan hệ giữa
Đảng, nhà nước và nhân dân.
Thứ tư, quyền khiếu nại góp phần tích cực phát huy quyền dân chủ của
nhân dân, phòng chống tệ tham nhũng.
Việc thực hiện quyền khiếu nại là một trong những hình thức biểu hiện
nền dân chủ. Với phương châm: “ Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.,
việc thực hiện quyền khiếu nại sẽ giúp nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình và là một điều kiện để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước. Bên
cạnh đó, việc thực hiện quyền khiếu nại sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhanh chóng phát hiện những hành vi trục lợi, tham nhũng của một số
cán bộ công chức tha hóa đạo đức, góp phần phịng tham nhũng – một trong
những vấn đề nóng hổi và cấp bách hiện nay.
1.2. Người khiếu nại, đối tượng bị khiếu nại, người bị khiếu nại
1.2.1. Người khiếu nại
So với luật tố các năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005 )
khái niệm người khiếu nại được quy định tại Điều 2 Khoản 2 Luật khiếu nại
2011 khơng có gì thay đổi “ Người khiếu nại là cơng dân, cơ quan, tổ chức
hoặc cán bộ công chức thực hiện quyền khiếu nại”.[3]
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 này thì người khiếu nại chỉ là cơng
dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại. Tuy
nhiên, căn cứ vào Điều 3 Khoản 1 Luật khiếu nại năm 2011: “ Khiếu nại của
11
cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết khiếu
nại được dựng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”[4].
Như vậy, người khiếu nại còn bao gồm cả cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài đang cư trú và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2. Đối tượng bị khiếu nại
Điều 1 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “ Luật này quy định về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước; khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán
bộ, công chức; tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu
nại”.[4]
Theo quy định tại Điều 1 Luật khiếu nại thì đối tượng của khiếu nại là
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Quyết định hành chính
Theo quy định tại Điều 2 Khoản 8 Luật khiếu nại 2011 thì: “ Quyết định
hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để giải quyết về một vấn
đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần
đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”.[4]
Hành vi hành chính
Tại Điều 2 Khoản 9 Luật khiếu nại 2011 quy định: “ Hành vi hành chính
là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công
vụ theo quy định của pháp luật”.[4]
Khác với quyết định hành chính, hành vi hành chính khơng thể hiện dưới
hình thức văn bản. Hành vi hành chính bị khiếu nại có thể được thể hiện dưới
dạng hành động đó là một hành vi của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước
không làm đúng hoặc làm trái các quy định của pháp luật về một vấn đề nào
12
đó. Cũng có thể dưới dạng khơng hành động đó là việc không thực hiện một
trách nhiệm công vụ mà theo quy định của pháp luật họ phải thực hiện.
Quyết định kỷ luật cán bộ, công chức
Đối tượng khiếu nại ngồi quyết định hành chính, hành vi hành chính
cịn có quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Quyết định kỷ luật cán bộ, công chức được quy định tại Điều 2 Khoản
10 Luật khiếu nại 2011 như sau: “ Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn
bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình
thức kỷ luật đối với cán bộ, cơng chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức”.[4]
Cần phân biệt quyết định kỷ luật cán bộ, công chức với các quyết định
kỷ luật khác như quyết định kỷ luật lao động. Đối với quyết định kỷ luật lao
động, nếu người lao động khơng đồng ý thì khiếu nại theo quy định của pháp
luật về lao động; đối với quyết định kỷ luật viên chức thì khiếu nại theo luật
viên chức; đối với kỷ luật của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội thì có
thể khiếu nại theo quy định của điều lệ tổ chức đó.
1.2.3. Người bị khiếu nại
Điều 2 Khoản 5 Luật khiếu nại 2011 đưa ra khái niệm người bị khiếu nại
như sau: “ Người bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có
quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức bị khiếu nại”.[4]
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài thì người khiếu nại bao gồm:
- Cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết định kỷ luật cán bộ,
cơng chức bị khiếu nại.
Như vậy, người bị khiếu nại ở đây phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức nhà
nước mang quyền lực nhà nước có ban hành quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ công chức. Theo quy định của pháp luật
13
hiện hành, ngoài cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ, cơng chức có quyền ban
hành quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức thì các tổ chức chính trị, chính trị xã hội cũng thực hiện chức năng quản lý cán bộ, cơng chức, cũng có quyền ra
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Do
đó, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cũng là người bị khiếu nại.
1.3. Thời hiệu khiếu nại
Thời hiệu khiếu nại là khoảng thời gian mà người khiếu nại thực hiện
quyền khiếu nại yêu cầu cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét
lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ cơng
chức khi có căn cứ cho rằng các quyết định hoặc hành vi đó xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vấn đề khiếu nại chỉ được giải quyết khi
thời gian này vẫn còn. Nếu quá thời gian này mà người khiếu nại khơng thực
hiện việc khiếu nại thì coi như họ đã từ bỏ quyền khiếu nại.
Điều 9 Luật khiếu nại 2011 quy định thời hiệu khiếu nại như sau: “ Thời
hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc
biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính”.[4]
Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo
đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa, đi cơng tác, học tập
ở nơi xa hoặc vì những cản trở khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó
khơng tính vào thời hiệu khiếu nại.
Theo quy định trên thì thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi
hành chính. Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại
theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa, đi cơng tác, học
tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại
đó khơng tính vào thời hiệu khiếu nại. Trong những trường hợp này người
khiếu nại phải xuất trình giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, cơ sở y tế
hoặc cơ quan tổ chức nơi người khiếu nại làm việc với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Với quy định này, vừa có khoảng thời gian
người khiếu nại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, kịp thời ngăn chặn
14
các quyết định, hành vi sai trái, khắc phục thiệt hại xảy ra. Bên cạnh đó, có một
thời gian hợp lý để người khiếu nại suy nghĩ, cân nhắc và quyết định có khiếu
nại hay khơng. Nếu thời gian ngắn quá không đủ người khiếu nại bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm, nhưng khoảng thời gian quá dài
thì hầu hết các quyết định hành chính đã được thi hành, như vậy sẽ rất khó
khăn để xem xét, giải quyết và khắc phục hậu quả. Đồng thời quy định này vừa
thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo khi trong quy định dự trù những trường hợp
ốm đau, thiên tai hay các trở ngại khách quan khác. Chính vì vậy, quy định này
vừa đảm bảo tính khả thi, tính ổn định, liên tục trong quản lý hành chính nhà
nước, vừa đảm bảo được quyền cơ bản của công dân.
1.4. Khiếu nại về đất đai
1.4.1. Khái niệm khiếu nại về đất đai
Khiếu nại về đất đai là việc công dân, tổ chức, cơ quan đề nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính trong q trình quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định,
hành vi hành chính đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở
hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý đất đai đảm bảo cho việc
sử dụng đất đai hợp lý, phục vụ lợi ích cho chủ sở hữu, cũng như lợi ích và
quyền của người sử dụng đất. Vì vậy, bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khi
có đủ căn cứ đều có quyền khiếu nại và được nhà nước bảo đảm giải quyết
bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Các loại khiếu nại đất đai thường gặp là:
Quyết định hành chính như: quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
trưng dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; các quyết định bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất và các khiếu nại khác.
Các hành vi hành chính liên quan đến đất đai bị khiếu nại đó là các hành
vi của cán bộ, công chức nhà nước khi thực hiện các công vụ liên quan đến
các hoạt động nói trên.
15
1.4.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai
- Vai trò của việc giải quyết khiếu nại về đất đai
Giải quyết khiếu nại đất đai đóng một vai trị quan trọng trong quản lý nhà
nước về đất đai. Việc giải quyết đất đai hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho chính
quyền từ Trung ương đến địa phương thực hiện liên tục xun suốt chức năng
của mình, góp phần phát huy tính chủ động của cơ sở và quyền làm chủ của
nhân dân trong việc sử dụng và quản lý đất đai. Công tác giải quyết khiếu nại
đất đai được thực hiện tốt sẽ đảm bảo ổn định và công bằng xã hội, thúc đẩy
phát triển kinh tế, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc - một trong những vấn
đề rất được Đảng và nhà nước quan tâm hàng đầu như hiện nay.
- Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết khiếu nại về đất đai:
+ Giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật.
+ Nguyên tắc khách quan, dân chủ, công khai.
+ Kết hợp giải quyết khiếu nại với tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
đất đai.
+ Kịp thời, nhanh chóng và chính xác.
1.4.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai
Nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại là khi phát sinh
khiếu nại thì có quyết định hành chính, hành vi hành chính của ai thì người có
quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, cơng chức
có hành vi hành chính bị khiếu nại đó phải giải quyết lần đầu nếu người khiếu
nại không khởi kiện vụ án hành chính ra Tịa án.
Trường hợp người khiếu nại khơng đồng ý với quyết định giải quyết lần
đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu phải giải quyết lần hai ( nếu người khiếu nại lần hai mà khơng khởi kiện
vụ án hành chính ra Tịa án ). Trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý
với quyết định giải quyết khiếu nị lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại khơng được giải quyết thì Bộ
trưởng quản lý ngành, lĩnh vực phải giải quyết ( nếu người khiếu nại lần hai
16
mà khơng khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án ). Trong trường hợp người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng
hoặc q hạn mà khiếu nại khơng được giải quyết thì người khiếu nại có
quyền khiếu nại tiếp (chỉ có quyền khởi kiện tại Tòa án).
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài nên trong phần thẩm quyền này tôi tập
trung vào thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở chính quyền cấp tỉnh.
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở chính quyền cấp tỉnh được quy định
trong Luật khiếu nại 2011 như sau:
Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
mình, của cán bộ, cơng chức do mình quản lý trực tiếp.
Giám đốc sở và cấp tương đương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ,
cơng chức do mình quản lý trực tiếp. Giải quyết khiếu nại lần hai đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng cơ quan thuộc sở
và cấp tương đương đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại
lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Giải
quyết khiếu nại làn hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện,Giám đốc sở và cấp tương đương đã
giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn
nhưng chưa được giải quyết; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền gq khiếu
nại giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình.
Trong trường hợp người khiếu nại kiện vụ án hành chính tại tịa án thì
tịa án có thẩm quyền giải quyết. Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền của tòa án
được quy định tại điều 28 luật tố tụng hành chính năm 2011 cụ thể:
“1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết
định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vựa quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ
17
quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ
của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách
cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh.”
Như vậy, các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất
đai ngày được cụ thể và rõ ràng hơn, tạo điều kiện khá thuận lợi cho người
khiếu kiện thực hiện quyền khiếu nại của mình.
1.4.4. Thủ tục giải quyết khiếu nại
Tại điều 7 luật khiếu nại năm 2011 quy định trình tự giải quyết khiếu nại
cụ thể:
“1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính
là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình
thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính
hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Tịa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại khơng đồng ý với quyết định giải quyết lần
đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại khơng được giải quyết thì có
quyền khiếu nại lần hai đến Thủ tướng cấp trên trực tiếp của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa
án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại khơng được giải
quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính.
2. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng,
Thủ tướng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây
18
gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành
chính.
Trường hợp người khiếu nại khơng đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại khơng
được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án theo quy
định của Luật tố tụng hành chính.
3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án theo quy định của Luật
tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại khơng đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh howcj hết thời hạn
quy định mà khiếu nại khơng được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai
đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại
Tịa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần
hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại khơng được giải
quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính.[4]
Với quy định chi tiết trình tự giải quyết khiếu nại của các văn bản quy
phạm pháp luật sẽ giúp cho người khiếu kiện bảo đảm được quyền lợi của
mình, càng gia tăng niềm tin vào Đảng và Nhà nước, giúp cho bộ máy chính
quyền hoạt động hiệu quả trong lĩnh vựa đất đai.
Qua đó ta thấy được: Hiện nay khiếu nại về đất đang ngày một diễn
biến phức tạp hơn. Nội dung chủ yếu là khiếu nại về các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong giải quyết tranh chấp đất đai, xin lại nhà đất
do nhà nước đang quản lý, xin lại đất đã giao cho người khác sử dụng,v..v
Pháp luật đã có những quy định cụ thể để cho người dân được thực hiện việc
19
bảo vệ lợi ích của mình thơng qua hoạt động khiếu nại và cũng đã có những
quy định cụ thể về cách thức, quy trình xử lý các trường hợp khiếu nại. Đồng
thời đáp ứng được nhu cầu của người dân, từ đó cho thấy để việc giải quyết
khiếu nại cho người dân được khách quan, chính xác, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền cần tơn trọng người dân, có thái độ nghiêm túc, cố gắng xác minh
thông tin từ nhiều bên, mục đích để đạt được sự tin tưởng từ người dân, đem
lại công bằng cho xã hội.
20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐẤT ĐAI
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
(GIAI ĐOẠN 2013-2015)
2.1. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn thành phố Huế
Trong những năm gần đây, khiếu nại nói chung và khiếu nại đất đai nói
riêng liên tục xảy ra với số lượng và tính chất phức tạp ngày càng tăng. Công
tác giải quyết khiếu nại nói chung và giải quyết khiếu nại đất đai nói riêng đạt
nhiều thành quả, qua đó góp phần ổn định an ninh, chính trị, trật tự và an tồn
xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tỉnh phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình hình đơn
thư khiếu nại ngày càng tăng về số lưng và tính chất ngày càng phức tạp. Số
vụ kiện tồn đọng còn nhiều, một số trường hợp chưa được giải quyết thấu tình
đạt lý gây bức xúc cho nhân dân mà điểm nóng trong những năm qua đó là
khiếu nại về đất đai.
Trong 3 năm gần đây, thành phố Huế đã tiếp nhận tổng số đơn thư khiếu
nại cụ thể như sau: Năm 2013: số đơn thư khiếu nại là 89 đơn; Năm 2014 là
110 đơn; Năm 2015 là 174 đơn
Cụ thể:
Năm 2013, theo báo cáo của các huyện, sở, ngành, trong năm 2013, Ủy
ban nhân dân tỉnh và Thủ trưởng các cấp, các ngành đã tiếp nhận 2.712 đơn,
trong đó khiếu nại 293 đơn; tố cáo 65 đơn; tăng 29,7% so với cùng kỳ năm
2012. Tổng số đơn tồn năm 2012 chuyển qua 35 đơn, trong đó có 32 đơn
khiếu nại, 03 đơn tố cáo.
Nội dung đơn khiếu nại chủ yếu các quyết định hành chính trong quản
lý đất đai như quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định
thu hồi đất, quyết định về bồi dưỡng, hỗ trợ và tái định cư, khiếu nại xin lại
nhà do Nhà nước quản lý.
Kết quả phân loại xử lý đơn có 199 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết các
cấp, các ngành, trong đó có 174 đơn khiếu nại và 25 đơn tố cáo.
21
Tổng số đơn không thuộc thẩm quyền là 731 đơn ( 629 đơn khiếu nại,
102 đơn tố cáo ), các cấp, các ngành đã hướng dẫn công dân gửi đơn khiếu
nại và đã chuyển đến cấp có thẩm quyền giải quyết đối với đơn tố cáo.
Năm 2013 có 28 trường hợp khiếu nại về nội dung bồi thường giá đất, tái
định cư và trình tự thủ tục, trong đó:
- 01 trường hợp khiếu nại nội dung không bồi thường và bồi thường
khơng đúng diện tích khi nhà nước thu hồi đất.
- 02 trường hợp khiếu nại nội dung giá đất bồi thương.
- 04 trường hợp khiếu nại nội dung trình tự, thủ tục.
- 02 trường hợp khiếu nại hai nội dung: giá đất bồi thường và tái định cư.
- 06 trường hợp khiếu nại hai nội dung: trình tự thủ tục và tái định cư.
- 13 trường hợp khiếu nại hai nội dung: trình tự thủ tục và giá đất[5].
Năm 2014, tổng số đơn thư khiếu nại giảm so với năm 2013. Nguyên
nhân giảm là do qua các buổi tiếp dân đã giải thích cho nhân dân rõ đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và trực tiếp hướng dẫn cơng
dân gửi đơn đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Đa số đơn thư khiếu nại có nội dung liên quan đến đất đai như: khiếu nại
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp đất đai, đòi lại đất; bồi
thường và hỗ trợ tái định cư; số đơn cịn lại phản ánh nội dung gây ơ nhiễm
mơi trường và hoạt động khai thác khống sản.
Số lượt công dân đã tiếp: 09 lượt. Nội dung tiếp dân là tiếp thu những
kiến nghị của công dân, đồng thời giải thích rõ cho cơng dân hiểu đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, tài ngun khống
sản và mơi trường, trực tiếp hướng dẫn công dân gửi đơn thư đúng cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Tổng số đơn thư khiếu nại tồn đọng năm
2013 chuyển sang là 30 đơn. Tổng số đơn thư nhận được trong năm 2014 là
126 đơn. So với năm 2013 giảm 31 đơn. Kết quả phân loại đơn có: khiếu nại:
88 đơn; tố cáo: 01 đơn; kiến nghị, phản ánh: 65 đơn; tranh chấp: 02 đơn.
22
Năm 2014 có 19 đơn khiếu nại liên quan đến nội dung bồi thường giá
đất, trình tự thủ tục và tái định cư. Trong đó:
- 08 trường hợp khiếu nại nội dung không bồi thường giá đất và bồi
thường không đúng diện tích đất nhà nước đã thu hồi.
- 05 trường hợp khiếu nại nội dung giá đất bồi thường.
- 01 trường hợp khiếu nại nội dung tái định cư.
- 05 trường hợp khiếu nại hai nội dung: trình tự thủ tục và tái định cư[6].
Năm 2015, công tác tiếp dân đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố Huế; thủ trưởng các
cấp, các ngành quan tâm thực hiện nghiêm túc. Trong năm, các cấp, các
ngành đã tiếp 1.661 lượt với 3.476 lượt công dân; đồng thời tiếp nhận 502
đơn ( khiếu nại 459 đơn, tố cáo 43 đơn ), giảm 21% so với cùng kỳ năm
trước.
Kết quả phân loại xử lý có 127 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của các
cấp, các ngành; trong đó có 115 đơn khiếu nại, 12 đơn tố cáo. Trên cơ sở đó,
đã giải quyết 84/115 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 73% và 12/12
đơn tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 100%[7].
Riêng khiếu nại liên quan đến thu hồi đất và giải phóng mặt bằng những
năm gần đây thì năm 2013 có 50 trường hợp; năm 2014 có 31 trường hợp và
năm 2015 có 32 trường hợp.
2.2. Những thành tựu đạt được trong quá trình giải quyết khiếu nại
đất đai
Trong những năm qua, thành phố Huế đã đặt công tác giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản
lý đất đai. Thành phố Huế đã đổi mới cơng tác tiếp dân, kiện tồn bộ máy và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân và giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Việc đùn đẩy trách nhiệm giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo đã
giảm. Công tác giải quyết khiếu nại liên quan đến đất đai có nhiều bước
chuyển biến tích cực, số lượng đơn thư khiếu nại khơng thuộc cấp thẩm quyền
23
qua các năm giảm nhờ công tác tiếp dân và tuyên truyền phổ biến pháp luật,
chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện tốt, góp phần ổn định đời sống
chính trị, và hơn hết là quyền lợi của nhân dân được bảo đảm.
2.3. Một số hạn chế còn tồn đọng trong công tác giải quyết khiếu nại
về đất đai
Mặc dù những năm qua thành phố đã không ngừng cố gắng nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, q trình giải quyết khiếu
nại đất đai cịn tồn tại những hạn chế sau:
Thứ nhất, khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Để thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế xã hội, tỉnh đã tiến hành
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án đầu tư. Tuy nhiên,
vấn đề bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho những diện bị thu hồi đất ở các
địa phương gặp khơng ít khó khăn và vướng mắc như: chưa có khu tái định
cư, giá đất bồi thường không hợp lý, công tác thực hiện ở các địa phương
chưa tốt dẫn đến tình trạng kéo dài khơng giải phóng được mặt bằng,... cụ thể
một số trường hợp điển hình như:
- Vụ khiếu nại về việc đền bù, giải tỏa và bố trí tái định cư đối với các hộ
dân ở thôn Hà An, huyện Nam Đông.
- Vụ khiếu nại của các hộ bờ sông Hương, phường Phú cát ( 41/600 hộ )
liên quan đến việc đền bù, giải toả khi thực hiện dự án xây dựng chỉnh trang
đô thị dọc bờ sông Hương, phường Phú Cát, thành phố Huế.
Thứ hai, khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đây là dạng khiếu nại phổ biến hiện nay. Phát sinh một phần do sai sót
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất: không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng có
lý do chính đáng hoặc khơng rõ ràng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
sai sót về chủ sở hữu, thửa đất. Q trình giải quyết lại diễn ra chậm, phiền
hà, gây khó khăn cho người sử dụng.
Thứ ba, khiếu nại về việc giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà
nước.
24
Các khiếu nại này khá phức tạp, gồm nhiều khiếu nại xung quanh việc
giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, như giải quyết
khiếu nại về giải quyết tranh chấp thừa kế mà di sản để lại là quyền sử dụng
đất, thừa kế về di sản để lại là tài sản gắn liền trên đất. Điển hình là các khiếu
nại của ơng Lê Phú Vẽ, bà Hà Thị Bích tại La Chữ, huyện Hương Trà, ông
Vĩnh Nguyện trú tại Đà Nẵng.
Quá trình giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai người có thẩm quyền
chưa tổ chức gặp gỡ, đối thoại theo quy định của pháp luật, chưa kết hợp
đồng giữa các giải pháo vận động thuyết phục, giáo dục, đối thoại với việc xử
lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, chưa phát huy hiệu quả các
phương tiện thông tin đại chúng, các kênh thông tin tuyên truyền phục vụ cho
công tác giải quyết khiếu nại.
Thứ tư, khiếu nại các quyết định xử phạt hành chính về vi phạm chế độ
quản lý và sử dụng đất đai.
2.4. Nguyên nhân phát sinh khiếu nại về đất đai
Qua thực tiễn giải quyết khiếu nại cho thấy, có rất nhiều nguyên nhân
dẫn đến khiếu nại đất đai nhưng chủ yếu khiếu nại phát sinh từ các nguyên
nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự bất cập của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai.
Hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian dài đã tránh né việc giải quyết
một số quan hệ về đất đai, dẫn tới tồn đọng một số vụ việc cần giải quyết và
gấy ra sự vận dụng khác nhau giữa các địa phương khi giải quyết những vấn
đề giống nhau.
Từ chỗ pháp luật cơng nhận nhiều hình thức sử hữu đất đai chuyển sang
quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến sau này quy định cho người sử
dụng đất có đầy đủ các quyền, do vậy, việc nắm bắt kịp thời các quy định
pháp luật của cán bộ và người dân còn hạn chế, việc hiểu các quy định pháp
luật cũng không đầy đủ và quan niệm về chế độ sở hữu tư nhân về đất đai
trong nhân dân vẫn còn tồn tại. Việc ban hành văn bản pháp luật về đất đai
theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của đất nước nên thiếu đồng bộ và còn
25