Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.24 KB, 47 trang )

Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một bộ
phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội. Bằng
sức lao động cần cù, chịu khó, siêng học, siêng làm, phụ nữ đã góp phần làm giàu
cho xã hội, làm phong phú cuôc sống con người. Trong cuộc sống vật chất, phụ nữ
là một lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người, phụ nữ còn
tái sản xuất ra con người duy trì nòi giống duy trì sự phát triển của xã hội.Trong
hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sang tạo nền văn hóa nhân loại. Đồng hành
với những hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, phụ nữ còn tích cực
tham gia đấu tranh giai cấp ,đấu tranh giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân
loại và ngày nay trong nền kinh tế phát triển, phụ nữ luôn song hành cùng nam giới
phấn đấu vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh
“và có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - ổn định xã hội, cũng
như là nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ tương lai của đất nước, cũng như là trong các
lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao…Tuy nhiên hàng ngàn năm nay ở khắp nơi trên
thế giới, phụ nữ vẫn phải chịu những thiệt thòi về mặt vị trí xã hội so với nam
giới .Điều đó đặc biệt thể hiện ở sự bất bình đẳng của phụ nữ trong việc được
hưởng các quyền chính trị. Chính vì lý do đó mà không ít các cuộc đấu tranh cho vị
thế bình đẳng giữa nam và nữ đã diễn ra và trở thành mối quan tâm chung của toàn
nhân loại. Còn ở Việt Nam trong xã hội ngày nay ,từ những kết quả mà phụ nữ đã
đạt được,cũng như đã nhận thức rõ vị trí vai trò của phụ nữ trong xã hội, pháp luật
Việt Nam đã ghi nhận các quyền của công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói
riêng và trong đó có quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc được hưởng các quyền
chính trị. Và trong giai đoạn hiện nay thì quyền bình đẳng đó được thưc hiện chưa?
và thực hiện liệu có hiệu quả không ?
[Type text]

Page 1



Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Với những hiểu biết của mình về quyền chính trị cùng với sự dẫn dắt chỉ bảo
của cô giáo em mạnh dạn nghiên cứu với đề tài :’’ Thực tiễn bảo đảm quyền chính
trị của phụ nữ ở Việt Nam” để làm đề tài niên luận của mình .
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a) Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích :
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về vấn đề bảo đảm quyền chính trị của
phụ nữ .
Hai là, phân tích thực trạng vấn đề đảm bảo quyền bình đẳng giới .
Ba là, đề xuất những phương hướng và giải pháp để đảm bảo quyền chính trị
của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến việc
bảo đảm các quyền chính trị cơ bản của phụ nữ ở Việt Nam, trong đó tập trung các
quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp, quyền
tham gia quản lý nhà nước, xã hội và quyền tham gia các tổ chức chính trị -xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối với đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về bảo đảm quyền chính
trị của phụ nữ ở Việt Nam .
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường
[Type text]

Page 2


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam

lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng chính quyền nhân dân và các chính
sách pháp luật do Nhà nước ban hành.
Ngoài ra đề tài sử dụng các phương pháp :So sánh, phân tích, tổng hợp
,thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài
Khi nghiên cứu về vấn đề đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ, tác giả hi
vọng có thể làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền chính trị
của phụ nữ, đồng thời thể hiện quyền bình đẳng ,dân chủ và tiến bộ của một nhà
nươc một xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung
của đề tài gồm 2 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ ở
Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam.

[Type text]

Page 3


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA
PHỤ NỮ
1.1. Quyền chính trị của phụ nữ và việc đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ
1.1.1. Khái niệm quyền chính trị của phụ nữ
1.1.1.1. Khái niệm
Quyền chính trị của phụ nữ là một trong những quyền con người quan trọng

nhất của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý
bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, Quyền chính trị của phụ nữ là yếu tố xác lập vị thế pháp lý bình
đẳng của phụ nữ với nam giới trong đời sống chính trị - xã hội.
Khi xem xét quyền chính trị của phụ nữ, không thể không nhìn từ góc độ bình đẳng
giới và pháp luật. Việc bảo đảm quyền chính trị là cơ sở để xác lập địa vị pháp
lý bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, bởi chỉ thông qua đó, phụ nữ mới
được tham gia vào quá trình ra những quyết định gắn liền với các quyền, lợi ích của
họ trên mọi lĩnh vực, từ đó hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn những phân biệt
đối sử. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất, cái gọi là thực
sự; và chỉ có bình đẳng về thực sự ,thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa
vị pháp lý bình đẳng của phụ nữ. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng và
pháp luật. Biểu hiện của bình đẳng về thực chất là phụ nữ thực hiện được quyền
chính trị và xác lập được địa vị pháp lý của mình, được tham gia một cách dân chủ
vào mọi hoạt động của đời sống chính trị và đời sống công cộng. Ngược lại, pháp
[Type text]

Page 4


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
luật là công cụ để bảo đảm và bảo vệ quyền tham gia bình đẳng của phụ nữ. Trong
mối quan hệ này, phụ nữ vừa là người hưởng thụ quyền, nhưng đồng thời cũng là
chủ thể trực tiếp đấu tranh xóa bỏ định kiến, tham gia xây dựng pháp luật về quyền
bình

đẳng


của

mình.

Trong khi quyền chính trị của nam giới hầu như mặc nhiên được thừa nhận thì
quyền chính trị của phụ nữ phải trải qua quá trình đấu tranh mới được ghi nhận
trong pháp luật, được thực hiện trong thực tế. Xác lập và thực hiện được quyền
chính trị của phụ nữ là yếu tố quyết định để xác lập và bảo đảm thực hiện sự bình
đẳng

giữa

nam



nữ

được

thực

I

thi

trong

thực


tế.

Thứ hai : Quyền chính trị của phụ nữ là hình thức pháp lý thể hiện bản chất
dân

chủ, bình

đẳng

của



hội.

Bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ được thực thi trên cơ sở không phân biệt
đối sử và bình đẳng thực chất chính là bảo đảm cho phụ nữ tham gia vào xây dựng
và quản lý nhà nước và xã hội. Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp ra quyết định
chắc chắn sẽ giúp cho những chính sách của nhà nước, đặc biệt là những chính sách
liên quan đến phúc lợi xã hội, mang tính cân bằng về giới hơn. Sẽ tránh những ý
kiến quan điểm ,chính sách thiên về nam giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện
của việc

tăng

cường

dân

chủ


trong



hội.

Quyền chính trị của phụ nữ bao gồm quyền bầu cử và ứng cử, quyền tham gia quản
lý nhà nước và một số quyền khác. Theo Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, việc bảo đảm thực thi quyền chính trị
của phụ nữ phải dựa trên ba nguyên tắc, đó là: bình đẳng, không phân biệt đối xử
và trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là yêu cầu khách
quan; trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét
về mặt lịch sử, dân chủ và bình đẳng không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là
yêu cầu khách quan. Hai phạm trù này không tách biệt, mà ngược lại, chúng hỗ trợ
và bổ sung cho nhau. Dân chủ ở đây bao gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
[Type text]

Page 5


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
tiếp, trong đó biểu hiện của dân chủ trực tiếp chính là sự tham gia của cả hai giới
trong quản lý nhà nước, còn dân chủ gián tiếp là bầu cử và ứng cử vào các cơ quan
đại diện quyền lực nhân dân. Như vậy, thực thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực
thi một phần quyền chính trị của phụ nữ; và ngược lại, bảo đảm thực thi quyền
chính trị của phụ nữ mới thực hiện được dân chủ, bình đẳng một cách đầy đủ trong
đời sống xã hội. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực hiện được quyền chính
trị


của

phụ

nữ

mới





hội

dân

chủ,

bình

đẳng

thực

sự.

Thứ ba: Quyền chính trị của phụ nữ là cơ sở và nền tảng để bảo đảm thực
hiện

các quyền


kinh

tế,



hội



văn

hóa

của

phụ

nữ.

Bảo đảm thực hiện quyền chính trị, hay quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của
phụ nữ là bảo đảm thực hiện các quyền con người của phụ nữ đã được pháp luật
quy định và bảo vệ. Quyền con người là một hệ thống các quyền thống nhất với
nhau. Vì vậy, có thể khẳng định cả hai nhóm quyền này đều quan trọng như nhau




quan


hệ

mật

thiết

với nhau.

Trong hệ thống quyền con người, quyền chính trị thường là những quyền được đề
cập đầu tiên trong số những quyền mà phụ nữ có. Chính vì vậy, để xác lập vị thế
bình đẳng của phụ nữ trong xã hội, trước hết phải xét đến quyền chính trị. Về cơ
bản, phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới nhưng để có sự
bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện các quyền chính trị của
họ. Nói cách khác, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Do đó, quyền chính trị của phụ nữ đóng vai trò là nền tảng, có tính quyết định tới
việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa tromh thực tế.
1.1.2. Đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ.
1.1.2.1. Khái niệm

[Type text]

Page 6


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ là việc xác lập,và bảo đảm năng lực
pháp lý bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

1.1.2.1. Ý nghĩa của việc đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ
Tại sao phải đảm bảo quyền chính trị cho phụ nữ ? Đó là :
Thứ nhất, là vì sự công bằng ,do phụ nữ chiếm một nửa dân số. Vì thế, phụ
nữ có thể đảm nhiệm 50% vị trí ra quyết định.
Thứ hai, là vì kinh nghiệm phụ nữ có những kinh nghiệm khác với nam giới
về mặt xã hội học và sinh học. Vì thế, phụ nữ nên được đảm nhận những vị trí có
tầm ảnh hưởng để có thể phát huy kinh nghiệm và cách tiếp cận nữ giới và bổ sung
hỗ trợ kiến thức cho nam giới mà những gì nam giới không có.
Thứ ba, là vì sự phát triển bền vững” theo một nghiên cứu của Đại học Quốc
gia Singapore, cơ quan lập pháp nào có tỷ lệ phụ nữ đông hơn thì các chính sách và
luật pháp về bảo vệ con người và môi trường sẽ được thông qua nhiều hơn so với
những cơ quan lập pháp có ít đại diện là phụ nữ” .Điều này khẳng định nếu như
việc đảm bảo quyền chính trị một cách tốt nhất thì góp phần vào sự phát triển bền
vững của đất nước không chỉ là hiện tại mà còn ở tương lai.
Thứ tư, là vì sự tăng trưởng kinh tế ,khi ở những vị trí ra quyết định, phụ nữ
luôn đưa ra những định hướng sáng tạo trong môi trường cạnh tranh để tạo ra sự ổn
định và tăng trưởng kinh tế.
Cho nên việc đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ có ý nghĩa hết sức quan
trọng nó thể hiện vai trò và vị trí của người phụ nữ trong xã hội.Ý nghĩa của việc
này cũng đã được ông Habib Bourguib tổng thống đầu tiên của Tuy-ni-di tổng kết
rằng”không thể nào phát triển một đất nước nếu trước hết không nâng cao địa vị xã
[Type text]

Page 7


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
hội của người phụ nữ “.Hơn nữa đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ không chỉ tạo
sự công bằng , đảm bảo quyền bình đẳng giới hỗ trợ bổ sung kiến thức giữa những
người khác giới, mà còn tác động vào sự phát triển bền vững kinh tế và môi trường,

khẳng định và xóa bỏ những quan điểm định kiến,hẹp hòi, trọng nam khinh nữ ,
thể hiện được vai trò của người phụ nữ không chỉ trong cuộc sống gia đình mà cả
xã hội đều đóng một vai trò rất quan trọng.
1.1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ
Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú trọng và tạo điều kiện để đảm bảo
quyền chính trị của phụ nữ được đảm bảo trên thực tiễn .Tuy nhiên bên cạnh đó thì
cũng có những yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo trên.
Thứ nhất, là Nhiều cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác vận động phụ nữ, chưa
chủ động nghiên cứu, dự báo và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên
quan tới phụ nữ. Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
về công tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ.
Thứ hai, là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa giải quyết tốt một số vấn đề
thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ nữ; việc
tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ trong từng thời kỳ
còn rất hạn chế.
Thứ ba, là định kiến giới “Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị “ đánh
giá "Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội do ảnh
hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu đời".
Ví dụ, có quan niệm lãnh đạo là công việc không thích hợp với phụ nữ, vẫn
còn tư tưởng coi thường khả năng của phụ nữ, nhất là coi thường khả năng lãnh đạo
và quản lý của chị em, ít chú trọng sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ
[Type text]

Page 8


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
một cách chủ động và có kế hoạch. Bên cạnh đó, có tư tưởng không muốn làm việc
dưới sự lãnh đạo của cán bộ nữ, chỉ phục tùng nam, không phục tùng nữ, trong cán

bộ, nhất là trong nam giới,chỉ cho rằng phụ nữ chỉ biết sinh đẻ làm công việc nội
trợ và chỉ là công dân hạng hai. Tư tưởng phong kiến, gia trưởng, coi thường phụ
nữ trong một số đảng viên, trong một bộ phận xã hội và gia đình còn ảnh hưởng
khá nặng của chế độ phong kiến.
Thứ tư, là trở ngại từ phụ nữ và vai trò giới. Một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an
phận, chưa chủ động vượt khó vươn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu
kéo,đưa đẩy chưa ủng hộ nhau. Nhiều phụ nữ, nhất là phụ nữ ở miền núi, vùng
nông thôn hẻo lánh, mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp còn nhiều. Phụ nữ còn bị
phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. Phụ nữ còn là nạn nhân của nhiều tệ nạn xã
hội đang có chiều hướng phát triển như: mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị
đoan...
Bên cạnh đó,vấn đề về giới tính cũng là một trong những trở ngại lớn đối với
phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Nếu như với nam giới, khi tham gia hoạt động
xã hội, là cán bộ quản lý, lãnh đạo thì được sự ủng hộ và tạo điều kiện của vợ và
các thành viên khác trong gia đình, thêm nữa nam giới ít hoặc không phải lo công
việc nội trợ. Đối với nữ giới thì ngược lại, khi tham gia công tác xã hội với vai trò
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp nào thì họ vẫn phải làm tốt các vai trò "người công
dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người", nếu không
được sự ủng hộ của chồng, con,của gia đình thì trở ngại đó là rất khó khăn đối với
một người phụ nữ.
Thứ năm, là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Theo quy
luật, những vùng, miền có sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cao thì sẽ kéo theo
sự phát triển về trình độ dân trí, về nhận thức trong đó có nhận thức về bình đẳng

[Type text]

Page 9


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam

giới. Và điều này sẽ tác động tích cực đến việc đảm bảo quyền chính trị của phụ
nữ.
1.1.3. Quy định của pháp luật đối với vấn đề đảm bảo quyền chính trị của phụ
nữ.
1.1.3.1 .Các văn bản pháp lý quốc tế
Nhắc đến văn bản pháp lý quốc tế thì chúng ta không thể nào không nói đến
các công ước.


Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)

CEDAW là công ước quốc tế đầu tiên về quyền phụ nữ không chỉ về khía cạnh
dân sự và chính trị mà còn về kinh tế, xã hội, văn hóa và gia đình. CEDAW chỉ ra
những ảnh hưởng của văn hóa và truyền thống làm giới hạn quyền của người phụ
nữ và gây khó khăn cho các nhà chức trách trong việc thay đổi các thành kiến,
khuôn phép, phong tục, tập quán phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.CEDAW bao
hàm nguyên tắc về nghĩa vụ của các quốc gia. Điều này có nghĩa là phụ nữ không
còn phụ thuộc vào thiện chí tốt đẹp của Nhà nước mà Nhà nước phải có nghĩa vụ
không thể chối bỏ được đối với phụ nữ.
CEDAW còn được gọi là “Công ước về Phụ Nữ” hay “Điều ước quốc tế về
quyền phụ nữ”. Công ước bao gồm lời mở đầu và 30 điều khoản được Đại Hội
Đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 18/12/1979 và có hiệu lực ngày 03/9/1981.
Đến nay trên thế giới đã có 184 nước là quốc gia thành viên Công ước CEDAW.
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17 tháng 2 năm 1982 và trở
thành quốc gia thành viên của Công ước này.

[Type text]

Page 10



Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Công ước CEDAW bảo vệ các quyền chính trị của người phụ nữ qua các
quyền sau đây:
Thứ nhất, Quyền được giáo dục theo Điều 10, 14 thì: nam nữ được tạo điều
kiện như nhau trong nghề nghiệp và hướng nghiệp, tham gia học tập và đạt được
bằng cấp ở các cơ sở giáo dục thuộc các loại hình khác nhau ở vùng nông thôn
cũng như thành thị. Được hưởng các loại hình đào tạo, giáo dục chính quy và
không chính quy, gồm các loại hình liên quan tới việc dạy chữ.
Thứ hai, Quyền được vay tiền ngân hàng và tham gia các hình thức tín dụng
khác (Điều 13, 14) được tiếp cận các loại hình tín dụng và vốn vay dành cho nông
nghiệp, các cơ hội thị trường, công nghệ phù hợp
Thứ ba, Quyền được tham gia vào các hoạt động giải trí, thể thao và các mặt
của đời sống văn hóa ( Điều 10, 13, 14): trên cơ sở bình đẳng, nam nữ có quyền
được tham gia các hoạt động giải trí, thể thao và mọi mặt của đời sống văn hóa;
tham gia mọi hoạt động của cộng đồng; nam nữ được tạo cơ hội như nhau để tham
gia vào các hoạt động thể dục thể thao.
Thứ tư, Quyền được hưởng các cơ hội làm việc như nhau cũng như những
phúc lợi xã hội và Quyền được thù lao như nhau trên cơ sở thành quả làm
việc (Điều 11, 14): trên cơ sở bình đẳng, phụ nữ và nam giới có quyền hưởng các
cơ hội có việc làm như nhau, bao gồm cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau
khi tuyển dụng lao động; quyền được hưởng thù lao như nhau, gồm cả phúc lợi,
được đối xử như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau cũng như được đối
xử như nhau trong việc đánh giá chất lượng công việc.
Thứ năm, Quyền được tham gia bầu cử, ứng cử và tham gia những chức vụ
trong bộ máy nhà nước .Theo Điều 7 của công ước thì :

[Type text]

Page 11



Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
“ Các nước tham gia Công ước phải Áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm xóa
bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị và cộng đồng của đất
nước và đặc biệt là phải đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với nam giới,
được thụ hưởng các quyền sau:
a. Tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng
cử vàotất cả các cơ quan dân cử;
b. Được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của chính phủ, tham gia
vào bộ máy và các chức vụ nhà nước ở mọi cấp chính quyền;
c. Tham gia vào các tổ chức xã hội và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời
sống công cộng và chính trị của đất nước”
Như vậy theo điều luật của Công ước này phụ nữ được đảm bảo
tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử
vào tất cả các cơ quan dân cử; được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách
của Chính phủ, tham gia các chức vụ của Nhà nước và thực hiện mọi chức năng
cộng đồng ở tất cả các cấp chính quyền; tham gia vào các tổ chức và hiệp hội phi
chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và chính trị của đất nước.
Thứ sáu, Theo Điều 8 “ Các nước tham gia Công ước phải Áp dụng mọi
biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo cho phụ nữ có cơ hội đại diện cho Chính phủ
mình trên diễn đàn quốc tế và tham gia côngviệc của các tổ chức quốc tế, trên cơ
sở bình đẳng với nam giới và không có bất cứ sự phân biệt nào”.
Như vậy theo điều luật này thì phụ nữ có quyền được đại diện chính phủ của
họ ở cấp quốc tế ,có cơ hội đại diện cho chính phủ trên diễn đàn quốc tế và tham
gia công việc của các tổ chức quốc tế.

[Type text]

Page 12



Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
CEDAW ngăn chặn các hành vi và chính sách gây bất lợi cho phụ nữ trên mọi
phương diện. CEDAW buộc các quốc gia thành viên không chỉ ngăn chặn những
xâm phạm quyền phụ nữ bởi các cơ quan nhà nước mà còn bởi các tổ chức và cá
nhân khác.CEDAW là điều ước về quyền con người duy nhất xác nhận và khẳng
định quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bao gồm cả việc tiếp cận
các phương pháp kế hoạch hóa gia đình của phụ nữ. Với tiêu chí xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ là tạo điều kiện quan trọng để phụ nữ
có cơ hội bình đẳng và phát triển đầy đủ, tham gia và hưởng lợi từ các hoạt
động, CEDAW là một trong những điều ước quốc tế về quyền con người được phê
chuẩn rộng rãi nhất, CEDAW ra đời được hơn 25 năm qua và đã nhận được sự
hưởng ứng của toàn thế giới, nó đã phản ánh và rất thích hợp với các quyền của
phụ nữ.


Công ước về quyền chính trị của phụ nữ năm 1952

Công ước này các Quốc gia thành viên mong muốn thực hiện nguyên tắc bình
đẳng về các quyền giữa nam và nữ, bình đẳng hóa địa vị của nam giới và nữ giới
trong việc hưởng và thực hiện các quyền chính trị, theo quy định của Hiến chương
Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người.Điều đó được
thể hiện rõ qua các vấn đề sau:
Thứ nhất, Theo điều 1 của công ước này thì “Phụ nữ có quyền bỏ phiếu trong
mọi cuộc bầu cử trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt
đối xử nào”. Điều 2. “Phụ nữ có quyền được bầu vào mọi cơ quan nhà nước do dân
cử được thành lập theo quy định của pháp luật quốcgia, trên cơ sở bình đẳng với
nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào”


[Type text]

Page 13


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Thứ hai, Phụ nữ có quyền làm việc tại các cơ quan nhà nước và thực hiện mọi
chức năng công quyền theo quy định của pháp luật, trên cơ sở bình đẳng với nam
giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Như vậy theo công ước thì phụ nữ có quyền tham gia bỏ phiếu,có quyền được
bầu vào cơ quan nhà nước trong tất cả các cuộc bầu cử liên quan tới chính trị
,không có sự phân biệt đối sử giữa nam và nữ,trên cơ sở bình đẳng.
1.1.3.2.Các quy định của pháp luật
Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến từ khi nhân dân ta
giành được độc lập từ tay thực dân phong kiến. Sau khi giành được chính quyền và
"Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã đánh dấu một bước chuyển
biến cơ bản trong đời sống của người phụ nữ. Từ nay chị em thực sự trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình cùng nam giới chung lo bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc". Theo đó, những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền công dân,
trong đó có quyền của phụ nữ được ban hành. Tuy nhiên, trong từng điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước, nên ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và
quyền của phụ nữ nói riêng được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có
sự đổi mới. Hiện nay, những quyền cơ bản của phụ nữ được ghi nhận trong Hiến
pháp và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau đây.


Qua các bản Hiến pháp
Hiến pháp năm 1946
Tháng 10/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa


chính thức được ban hành, và trong đó có quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được
công nhận. Hồ Chủ tịch nói: “Bản Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới dân tộc Việt
Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới phụ nữ Việt
[Type text]

Page 14


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Nam đã đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Cụ thể,
Điều 9 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi
phương diện”.Tức là phụ nữ ngang quyền với đàn ông về mọi mặt kinh tế, chính trị
, văn hóa , xã hội …
Khi quyền nam nữ bình đẳng được công bố và thừa nhận, nhiều người cho rằng
việc giải phóng phụ nữ như vậy đã được giải quyết, do đó thi hành luật pháp áp
dụng trong thực tế có thể là dễ dàng, thuận lợi. Hồ Chủ tịch đã sáng suốt chỉ ra
rằng, con đường đấu tranh để thực hiện quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ khó
khăn và lâu dài. Muốn giải phóng người phụ nữ không chỉ thực hiện một sự phân
công mới, bình đẳng giữa vợ và chồng trong những công việc gia đình, mà căn bản
là phải có sự phân công, sắp xếp lại lao động của toàn xã hội,đưa phụ nữ tham gia
vào nhiều ngành nghề như kinh tế ,chính trị, văn hóa… giống nam giới và không có
sự phân biệt. Cần tổ chức lại đời sống công nông cũng như sinh hoạt gia đình để
phụ nữ giảm nhẹ công việc bếp núc, chăm lo con cái, có điều kiện tham gia sản
xuất, học tập nâng cao trình độ mọi mặt, xóa bỏ những định kiến là phụ nữ chỉ biết
sinh đẻ và bếp núc chứ không có khả năng tham gia hay đảm nhiệm một chức vụ
nào đó ngoài xã hội.Để từ đó, chị em mới có đủ khả năng làm nhiều công việc
chuyên môn và đảm nhiệm được những chức vụ công tác ngang hàng với nam giới.
Đó là một cuộc cách mạng thực sự lớn và khó khăn.
Có thể nói, quy định của Hiến pháp năm 1946 có ý nghĩa rất lớn trong bối
cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập, góp phần phá tan

xiềng xích tư tưởng “trọng nam kinh nữ” của chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa
nửa phong kiến.
Hiến pháp năm 1959

[Type text]

Page 15


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Điều 24 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình
đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình’’.
Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn
các lĩnh vực mà người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới. Quyền bình
đẳng nam nữ được thể hiện trên 5 lĩnh vực từ xã hội đến gia đình bao hàm tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự ghi nhận, trân trọng và đảm bảo của toàn xã
hội đối với vai trò của phụ nữ. Còn đối với chị em phụ nữ, "phải nhận rõ địa vị làm
người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức
mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…"
Hiến pháp năm 1980
So với hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, trong Hiến pháp năm
1980có những điểm tiến bộ hơn đó là quyền của phụ nữ vừa được lồng vào các
quyền cơ bản của công dân, vừa được quy định riêng nhằm tạo ra những điểm nhấn
quan trọng, khẳng định quyền của phụ nữ.
Theo Điều 55, thì “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, đây là quy
định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, vì nó bao hàm tất cả các giới tính, khẳng
định quyền bình đẳng giới trong xã hội.
Lần đầu tiên, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của Nhà nước ta xác định:

theo Điều 57 thì“Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên
đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp".Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này cũng quy định đảm bảo
[Type text]

Page 16


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
sự bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực lao động, hôn nhân và gia đình, cụ thể:
“Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và
gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau.
Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và
người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng
lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để
phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã
hội. Chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã
hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công
tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ” (Điều 63)
và “hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng…. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các
con” (Điều 64).
Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp tiến bộ, ở đó
quyền của công dân Việt Nam nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được
khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn.
Hiến pháp năm 1992
Về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những quy
định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, nhưng nhấn mạnh thêm: "Nghiêm cấm mọi

hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" (Điều 63).
Hiến pháp sửa đổi năm 2013
Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới 2013 có những sửa đổi, bổ
sung và phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
[Type text]

Page 17


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
cơ bản của công dân, trong đó có cả quyền của phụ nữ. Theo đó, mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn, hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và
trẻ em. Đặc biệt, Điều 26 Hiến pháp nhấn mạnh:” Công dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà
nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai
trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
Như vậy, quyền của phụ nữ Việt Nam ngày càng được phát triển qua các bản
Hiến pháp, các quyền cơ bản đó bao gồm:
“ (1) Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm;
(2) Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia
đình;
(3) Có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình;
(4) Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác;
(5) Quyền có nơi ở hợp pháp; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
(6) Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước

ngoài về nước;
(7) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
[Type text]

Page 18


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
(8) Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình;
(9) Quyền bầu cử và ứng cử;
(10) Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước;
(11) Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (khi đủ mười tám tuổi
trở lên);
(12) Quyền khiếu nại, tố cáo;
(13) Quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác;
(14) Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ; quyền tự do
kinh doanh;
(15) Quyền được bảo đảm an sinh xã hội;
(16) Quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc;
(17) Quyền kết hôn, ly hôn;
(18) Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các
dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh,
chữa bệnh;
(19) Quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật...”
[Type text]


Page 19


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam


Quyền của phụ nữ trong các văn bản pháp luật

Quyền cơ bản của phụ nữ theo quy định của Hiến pháp được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật như: Luật Bình đẳng giới, Bộ luật Dân sự, Luật Bảo hiểm xã hội,
Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật
Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Cư trú, Bộ luật Hình sự, Luật Phòng
chống bạo lực gia đình, Luật Quốc tịch...
Luật Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó và không bị phân biệt đối xử về giới. Theo đó, Nhà
nước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và gia đình; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo
điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích
hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng
giới; hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều
kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa
phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp
hạng năm 2012 của Liên Hợp Quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ
47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng
thể hiện sự bình đẳng cao)

Luật Bảo hiểm xã hội
[Type text]

Page 20


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo
hiểm xã hội sau đây theo điều 4 thì: Các chế độ bảo hiểm xã hội:” a) Ốm đau; b)
Thai sản; c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; d) Hưu trí; đ) Tử tuất.” , thất
nghiệp, mất sức lao động... Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính
đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai
(nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), mức hưởng lương trợ cấp sinh đẻ theo điểm a
khoản 1 điều 39 thì “ Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương
tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai”,
dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là phụ nữ
cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội.
Bộ luật Lao động
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 dành một chương (Chương X) quy định riêng
về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình
đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao
động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian
biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp
tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc
sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp
lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống
lao động và cuộc sống gia đình. Luật quy định rõ, nghiêm cấm người sử dụng lao
động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam,
nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được
dành thời gian trong thời gian lao động để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không

được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì
kết hôn, có thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, Bộ luật Lao động sửa
[Type text]

Page 21


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
đổi năm 2013 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên
thành 6 tháng.
Luật Hôn nhân và gia đình
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 theo khoản 1 điêù 2 : Những nguyên tắc cơ
bản của chế độ hôn nhân và gia đình thì “1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng,và khoản 3 ,khoản 4 điều 2 thì “3. Xây dựng gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan
tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. 4. Nhà nước, xã
hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết
tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt
chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Điều đó khẳng
định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; vợ chồng có
nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ
sống chung với nhau...
Bộ luật Hình sự
Thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định những tội phạm liên quan đến phụ
nữ, các điều luật bảo vệ quyền của phụ nữ: Hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm h,khoản 1 Điều 48) và cũng là tình
tiết tăng nặng định khung: Giết người mà biết là có thai (điểm b,khoản 1, Điều 93),
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ đối với phụ nữ đang có thai (điểm d

,khoản1 Điều 104), hành hạ phụ nữ có thai (điểm a khoản 2 Điều 110), tổ chức sử
dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết là đang có thai (điểm d khoản 2
[Type text]

Page 22


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
Điều 197), cưỡng bức, lôi kéo sử dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết
là đang có thai (điểm đ ,khoản 2 Điều 200). Trong đó, Bộ luật Hình sự cũng thể
hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý tội
phạm là nữ giới; có chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: người phạm tội là
phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 1
Điều 46). Chính sách nhân đạo, khoan hồng được thể hiện cả trong việc áp dụng
hình phạt và thi hành án: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai
hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét
xử, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng
tuổi được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
Có thể nói, quyền của phụ nữ Việt Nam trong các bản Hiến pháp và các văn bản
pháp luật đều thể hiện rõ 2 yếu tố căn bản đó là “bình đẳng và ưu tiên”. Có những
quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước
pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính
trị, kinh tế và trong đời sống gia đình. Còn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng,
sắp xếp công việc, nghỉ hưu...) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể
hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội,
đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 thì
theo khoản 3 Điều 8. Dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng
cử đại biểu Quốc hội thì :

“Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban
thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn chủ tịch Ban chấp hành
[Type text]

Page 23


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần
trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc
hội là phụ nữ “. Như vậy có sự bảo đảm về quyền chính trị của phụ nữ với số lượng
phải có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.
Theo khoản 1 và khoản 2 Điều 9: Dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số
lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì”
1. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), Thường trực Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp huyện) dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và các đơn vị hành chính cấp dưới, đơn vị
sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần
trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được
xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương
2. Thường trực Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã) dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước
ở cấp mình và thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ

dân phố, khu phố, khóm (sau đây gọi chung là tổ dân phố), đơn vị sự nghiệp, tổ
chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã, trong đó bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong
[Type text]

Page 24


Thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ;
số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình
hình cụ thể của từng địa phương;”
Như vậy ở đây có sự đảm bảo về số lương và tỷ lệ phụ nữ tham gia vào
chính trị cụ thể là ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó
bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính
thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ và ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã, trong đó bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm
tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân là phụ nữ.
CHƯƠNG 2 :THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA PHỤ
NỮ Ở VIỆT NAM
2.1.Thực trạng hoạt động bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ
Mặc dù pháp luật Việt Nam có những quy định nhằm bảo đảm quyền chính
trị của phụ nữ ,bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trên tất cả các
lĩnh vực, nhưng trên thực tế vẫn còn đâu đó thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và
nữ.Nói cách khác thì nam vẫn được tôn trọng ,coi trọng ,còn quyền của nữ giới thì
ngày càng mờ nhạt .Vậy nguyên nhân của điều đó là do đâu? Vấn đề gì tác động?
Thực trạng bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ như thê nào ? Đã thực sự hiệu quả
chưa? Đó là những câu hỏi mà chúng ta cần tìm hiểu.
2.1.1.Thành tựu



Bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ ở Việt Nam

[Type text]

Page 25


×