Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Tìm hiểu thực trạng di cư lao động trên địa bàn xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.78 KB, 78 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

i


Bảng 3.1: Tình hình phân bố và sử dụng đất đai của xã Định Công.............Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Định Công.........Error: Reference
source not found
Bảng 3.3: Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật của xã năm 2008....Error: Reference
source not found
Bảng 3.4: Kết quả SX - KD của xã Định Công qua 3 năm 2006 - 2008.......Error:
Reference source not found
Bảng 4.2: Tình hình cơ bản của các hộ điều tra Error: Reference source not found
Bảng 4.1: Tình hình di cư lao động của xã qua 3 năm Error: Reference source not
found
Bảng 4.3: Phân loại hộ theo thu nhập và loại hình SX - KD.......Error: Reference
source not found
Bảng 4.4: Phân loại lao động di cư theo độ tuổiError: Reference source not found
Bảng 4.5: Trình độ học vấn của lao động di cư.Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Hình thức di cư và nơi đến của người lao động Error: Reference source
not found
Bảng 4.7: Nguồn cung cấp thông tin về nơi di cư đến cho đối tượng di cư..Error:
Reference source not found
Bảng 4.8: Thời gian di cư của lao động............Error: Reference source not found
Bảng 4.9: Loại hình công việc của lao động di cư.....Error: Reference source not
found
Bảng 4.10: Thu nhập của lao động di cư...........Error: Reference source not found
Bảng 4.11: Nguyên nhân di cư của lao động.....Error: Reference source not found


Bảng 4.12: Mức tiền gửi về nhà của lao động di cư trong 1 năm Error: Reference
source not found
ii


Bảng 4.13: Mục đích sử dụng tiền gửi về của lao động di cư theo loại hộ...Error:
Reference source not found
Bảng 4.14: Đánh giá mức sống của hộ sau khi có lao động di cưError: Reference
source not found

iii


PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là một xã hội nông nghiệp sản xuất lúa gạo. Song làm giàu từ
nông nghiệp, đi lên từ nông thôn từ lâu đã là một bài toán khó cho người nông
dân, thậm chí quá khó đến gần như nan giải. Thoát ly khỏi ruộng đồng, đi tìm kế
sinh nhai là không phải là hiện tượng mới mẻ đối với nông thôn Việt Nam.
Theo ông Mai Đức Chính, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, vấn đề di cư đang trở nên phổ biến và thành một xu thế tất yếu tại Việt
Nam. Điều tra gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong số lao động di cư,
có tới 2/3 là lao động trẻ (15-19 tuổi); hơn 50% là di cư để tìm việc làm, 47% là
để cải thiện điều kiện sống. Cũng theo kết quả điều tra năm 2006, chỉ có 8,16%
lao động được đào tạo, trong đó chỉ có 2,97% có bằng sơ cấp, 2,97% có bằng
trung cấp, 1,14% có bằng cao đẳng và 1,08% có bằng đại học. Do những yếu kém
về trình độ văn hóa và về kỹ năng lao động, tình trạng thu nhập thấp và thiếu
việc làm ngày càng phổ biến ở nhiều vùng nông thôn. Bên cạnh đó, quá trình đô
thị hóa và hình thành các khu công nghiệp diễn ra nhanh chóng đã thu hút lao

động nông thôn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp, tạo thành những
luồng người từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp tìm việc làm. Vì
thế số người di cư lao động từ nông thôn ra thành thị ngày càng nhiều.
Không nằm ngoài tình trạng chung ấy, Định Công là một xã thuần nông
thuộc huyện Yên Định - tỉnh Thanh Hóa, nguồn thu nhập chính của người dân chủ
yếu là từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, với cây trồng chính là cây lúa. Một
năm chủ yếu chỉ sản xuất được hai vụ lúa nên ngoài thời điểm chính vụ số lao động
nhàn rỗi của xã rất nhiều. Hiện nay, xã cũng chưa có nghề phụ nào nên vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động dư thừa đang gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, hiện

1


tượng di cư lao động của người dân trong xã đến các thành phố lớn, các khu công
nghiệp và các địa phương khác để tìm kiếm việc làm khá phổ biến ở xã.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề di cư ở Việt Nam nhưng những nghiên cứu về di cư lao động nông thôn
còn ít được chú ý. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, những ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực của nó đối với những người di cư và địa phương có người di
cư cần thiết phải được tìm hiểu.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu
thực trạng di cư lao động trên địa bàn xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hóa”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng di cư lao động trên địa bàn xã Định Công, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa để từ đó đưa ra một số biện pháp giải quyết tình hình di cư
lao động nông thôn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về di cư lao động.

- Nêu lên được thực trạng di cư lao động trên địa bàn xã.
- Phân tích ảnh hưởng của di cư lao động nông thôn đến đời sống kinh tế - xã hội
của người dân trong xã.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết tốt tình hình di cư lao động trên địa
bàn xã.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến di cư
lao động trên địa bàn xã. Đối tượng cụ thể là những người di cư và hộ có người
di cư.
2


1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài chỉ tập trung vào di cư lao động và ảnh hưởng của
nó đến các hộ gia đình có người di cư là chủ yếu.
- Phạm vi về không gian: Được tiến hành trên địa bàn xã Định Công, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa..
- Phạm vi về thời gian: Tiến hành từ tháng 01/2009 – 05/2009.

3


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về di cư
Di cư là một bộ phận hợp thành của biến động dân số và có quan hệ chặt
chẽ với nhiều vấn đề quan trọng của phát triển bền vững (Theo “Điều tra di cư

Việt Nam năm 2004” của Tổng cục Thống kê).
Có nhiều khái niệm về di cư được đưa ra, song mỗi khái niệm đều xuất
phát từ những phương diện khác nhau, do đó khó có một khái niệm thống nhất
cho mọi trường hợp bởi tính đa dạng, phức tạp của hiện tượng di cư. Không phải
mọi sự di chuyển của con người đều được coi là di cư, song thực tế có nhiều hình
thức di chuyển được coi là di cư. Bởi vậy, việc đưa ra một khái niệm di cư để
làm rõ nội dung và các loại di cư là hết sức cần thiết.
Theo Petersen (Trong phân tích thực trạng di dân tự do đến Đắc Lắc và
ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội, 2002), di cư là sự di chuyển
vĩnh viễn tương đối của một người trong một khoảng cách đáng kể. Định nghĩa
này về di dân còn thiếu cụ thể, với nghĩa vĩnh viễn tương đối đó là 6 tháng hay
bao lâu? khoảng cách đáng kể là bao nhiêu?
Theo Smith (Trong di dân tự do từ nông thôn đến đô thị Hà Nội và ảnh
hưởng kinh tế - xã hội của nó, 2000), ông cho rằng thuật ngữ di cư thường được
sử dụng để đề cập đến mọi sự di chuyển lý học trong không gian với ngụ ý ít
nhiều rõ rệt là sự thay đổi của nơi cư trú hay nơi ở.
Everret Lee (Trong phân tích thực trạng di dân tự do đến Đắc Lắc và ảnh
hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội, 2002), lại cho rằng: “Di cư là sự thay
đổi cố định nơi cư trú và cũng không đặt giới hạn về khoảng cách, về nơi cư trú’’.

4


Morgan (Trong phân tích thực trạng di dân tự do đến Đắc Lắc và ảnh
hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội, 2002), lại xác định di cư là sự di
chuyển vĩnh viễn tương đối của người dân ra khỏi tập đoàn đang sống tới một
đơn vị địa lý khác.
Năm 1958, Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa về di cư như sau: “Di cư
là một hình thức di chuyển trong không gian của con người từ một đơn vị lãnh
thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là sự di chuyển với khoảng cách tối

thiểu quy định” (Trong Cơ sở khoa học của di dân và phân bố dân cư vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, 1993). Sự di chuyển này diễn ra trong khoảng thời gian di
cư xác định và được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên. Sự thay
đổi nơi cư trú được thể hiện ở 2 khả năng:
+ Nơi xuất cư (hay nơi đi) là nơi người di cư chuyển đi.
+ Nơi nhập cư (hay nơi đến) là nơi người di cư chuyển đến.
Di cư là sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với chuẩn mực về
không gian và thời gian nhất định, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú (Tống Văn
Cường, 1997). Hiểu di cư theo định nghĩa này dựa trên các đặc điểm sau: Nơi
đến và nơi đi phải xác định, có thể là vùng lãnh thổ hay một đơn vị hành chính:
con người di chuyển bao giờ cũng có mục đích, đến nơi nào đó và ở lại đó trong
một khoảng thời gian để thực hiện mục đích. Nơi xuất cư là nơi ở thường xuyên
và nơi đến là nơi ở mới: khoảng thời gian để ở lại nơi mới trong bao lâu là đặc
điểm quan trọng xác định sự di chuyển nào đó có phải là di cư hay không. Tuỳ
mục đích, thời gian ở lại có thể là một năm, một số tháng, thậm chí là một số
ngày; một số đặc điểm nữa được đưa vào trong nghiên cứu cụ thể, chẳng hạn
như sự thay đổi hoạt động sống.
Theo Ủy ban Kế hoạch Nhà nước 1992, 1994 đã khẳng định: Di cư là sự
di chuyển của người dân từ chỗ này sang chỗ khác, nghĩa là từ một huyện, tỉnh,
nước này sang một huyện, tỉnh, nước khác trong thời gian một năm hoặc hơn
5


(Trong phân tích thực trạng di dân tự do đến Đắc Lắc và ảnh hưởng của nó tới
phát triển kinh tế - xã hội, 2002).
* Các loại hình di cư: Tuỳ theo các cách phân loại mà có những loại hình di cư
khác nhau.
- Theo độ dài thời gian cư trú có di cư lâu dài và di cư tạm thời:
+ Di cư lâu dài: là những người di cư đã thay đổi nơi cư trú thường xuyên
và nơi làm việc đến nơi mới với mục đích sinh sống lâu dài. Những người này

thường không trở về quê hương cư trú.
+ Di cư tạm thời: là sự thay đổi nơi ở gốc không lâu dài và khả năng quay
lại là chắc chắn. Di cư tạm thời bao gồm những người di cư mùa vụ và những
người tìm việc làm tạm thời hay di chuyển vì các mục đích khác nhau trong
khoảng thời gian xác định.
- Theo tính chất chuyên quyền, di cư được chia thành di cư có tổ chức và di cư
tự do:
+ Di cư có tổ chức là hình thức di chuyển của dân cư do Nhà nước tổ
chức, đầu tư theo kế hoạch phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Di
dân có tổ chức là công cụ quan trọng trong việc phân công lao động theo lãnh
thổ nhằm đạt các mục tiêu phát triển từng vùng và của cả quốc gia.
+ Di cư tự do là hình thức di cư không do Nhà nước tổ chức, bảo trợ hay
đầu tư, người di cư tự lo mọi chi phí di chuyển, tự quyết định nơi đến, việc làm
và nơi sống tại nơi định cư mới.
2.1.1.2 Khái niệm di cư lao động
Di cư lao động là sự di chuyển của người lao động theo lãnh thổ với chuẩn
mực về không gian và thời gian nhất định, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.
Di cư lao động thường là sự di cư của những người di chuyển khỏi nơi cư
trú cũ, đến nơi cư trú mới với mục đích chính là tìm kiếm các cơ hội việc làm ở
nơi mới. Những lao động di cư này phần lớn là những người thất nghiệp, bán
6


thất nghiệp, hoặc những người có việc làm nhưng không ổn định, mức thu nhập
thấp. Với mức thu nhập như thế họ không thể đáp ứng hoặc gặp nhiều khó khăn
trong việc đáp ứng những nhu cầu sống tối thiểu của bản thân, gia đình họ. Với
mục đích chính là cải thiện được đời sống kinh tế của mình, từng bước cải thiện
đời sống tinh thần cho bản thân, gia đình họ đã quyết định di chuyển khỏi địa
phương để tìm kiếm những cơ hội mới cho mình. Phần lớn những người tham
gia vào dòng lao động di cư là những người sống ở các vùng nông thôn – nơi mà

điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp rất nhiều khó khăn. Những người di cư lao
động chủ yếu là những người di cư tạm thời. Những người này di chuyển đến
các thành phố, thị xã và các địa phương khác trong khoảng thời gian nông nhàn,
hoặc rỗi rãi và tìm kiếm việc làm ở đó trong khoảng thời gian này. Họ không có,
hoặc chưa có ý định thông thường đó là ở lại đó, họ vẫn quay trở về quê cũ làm
việc trong những lúc có nhu cầu lao động ở quê.
* Các hình thức di cư lao động: Đó là các hình thức của các dòng di chuyển lao
động từ nơi ở đến nơi làm việc thường xuyên của họ. Hiện nay, có hai hình thức
di cư lao động chủ yếu, đó là: di cư nông thôn – thành thị và di cư nông thôn –
nông thôn.
+ Di cư nông thôn - thành thị là dòng di chuyển của lao động từ khu vực
nông thôn ra các thành phố, thị xã, các khu đô thị mới. Đây là dòng di cư phổ biến
hiện nay, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Cùng với quá trình đô thị hoá
đang diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu về lao động làm việc tại các khu đô thị ngày càng
lớn, do đó di cư nông thôn - thành thị sẽ rất có ý nghĩa đối với quá trình này.
+ Di cư nông thôn - nông thôn là dòng di chuyển lao động từ khu vực
nông thôn này đến một vùng nông thôn khác. Vùng nông thôn ở nơi đến và nơi
di chuyển đi thường có sự khác biệt, nhất là đất đai. Ở nơi đến thường là những
nơi có diện tích đất đai lớn hơn so với nơi xuất cư. Những lao động di cư đến

7


vùng nông thôn thông thường vẫn làm việc hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm
nghiệp, lĩnh vực hoạt động không có nhiều thay đổi sau khi di cư.
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến di cư lao động
Có rất nhiều các nghiên cứu về di cư đã chỉ ra rằng có hai nhóm yếu tố
chính ảnh hưởng đến di cư. Đó là yếu tố đẩy như: thiếu đất đai, thiếu việc làm,
thiếu vốn, thu nhập ở quê thấp, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thấp... Còn
các yếu tố kéo như: khả năng kiếm được thu nhập cao ở nơi nhập cư, cơ hội tìm

kiếm việc làm dễ dàng hơn, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội tốt hơn... Cũng
có nghiên cứu đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến di cư đó là các nguyên nhân kinh
tế (việc làm, thu nhập, các điều kiện sống khác...) và các nguyên nhân phi kinh tế
(đoàn tụ gia đình, hôn nhân, dân tộc, tôn giáo, học tập, đào tạo, sức khoẻ...).
Trong nghiên cứu “Di dân đến Hà Nội”, số liệu cho thấy, những khó khăn về
kinh tế như thiếu việc làm hoặc không có việc làm tại nơi xuất cư là nguyên
nhân quan trọng của di cư. Đa số những người di cư xuất thân từ những vùng
nông thôn nghèo và các gia đình nghèo, thiếu việc làm và thu nhập rất thấp. Các
nguyên nhân phi kinh tế như di chuyển để đoàn tụ gia đình, học tập - đào tạo có
ý nghĩa rất quan trọng đối với nhóm di cư lâu dài. Trong nghiên cứu “Di dân đến
Thành phố Hồ Chí Minh”, gần 65% số người được phỏng vấn đã rời bỏ quê quán
của mình vì các lý do kinh tế, trong đó gần 2/3 cho biết họ ra đi vì thiếu việc làm
hoặc thu nhập quá thấp. Như vậy, có thể thấy một bộ phận không nhỏ những
người di cư là vì lý do kinh tế mà cụ thể là thu nhập thấp, thiếu hoặc không có
việc làm ở nơi xuất cư. Họ ra đi với mong muốn từng bước cải thiện đời sống
tinh thần của bản thân, gia đình.
2.1.3 Ảnh hưởng của di cư đến các vấn đề kinh tế - xã hội
2.1.3.1 Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế
Di cư có tác động rất nhiều đến đời sống, đặc biệt là tình hình kinh tế của
những người di cư. Những người được phỏng vấn trong cuộc di dân nông thôn –
8


thành thị trong nghiên cứu “The Dynamics of Internal Migration in Viet Nam”
của Philip Guest đã khẳng định rằng tình hình kinh tế của họ đã được cải thiện
đáng kể so với trước khi di cư. Cả những hộ di cư có tổ chức và di cư tự do đều
có sự thay đổi đáng kể về thu nhập. 52% số người di cư có tổ chức cho biết tình
hình kinh tế của hộ được cải thiện sau di cư trong khi tỷ lệ này là 72% đối với
những hộ di cư tự do. Chỉ có 24% hộ di cư có tổ chức và 8,1% hộ di cư tự do cho
rằng tình hình kinh tế của họ kém hơn so với trước khi di cư.

Trước khi di cư, người di cư chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp. Sau di cư cơ cấu nghề nghiệp của họ đã thay đổi đáng kể, nhất là đối với
luồng di cư nông thôn – thành thị. Theo nghiên cứu “Di dân đến Hà Nội” 55% số
người di cư lâu dài và 83% số người di cư tạm thời xuất cư từ các vùng nông
thôn với nghề chính là sản xuất nông nghiệp. Khi đến Hà Nội, họ chủ yếu làm
các nghề phi nông nghiệp. Đa số những người di cư tiến hành các hoạt động
buôn bán nhỏ, dịch vụ công cộng hoặc làm việc trong các ngành công nghiệp
nhẹ và thủ công nghiệp; phần đông những người di cư tạm thời tập trung trong
khu vực kinh tế phi kết cấu và xây dựng, thực hiện các công việc nặng nhọc như
vận chuyển, xây dựng, bốc xếp… Mặc dù vậy, thu nhập của họ so với trước khi
di cư tăng lên đáng kể. Đối với những người di cư lâu dài thu nhập cao gấp 2,3 –
2,4 lần và của người di cư tạm thời là 4,7 lần. Những người di cư tạm thời tuy
mức thu nhập là khá nhỏ so với mức thu nhập của đô thị nhưng đối với mức thu
nhập của họ trước di cư và đối với khu vực nông thôn với thu nhập từ nông
nghiệp lại rất đáng kể. Họ và gia đình họ có thể cải thiện cuộc sống và đầu tư
phát triển sản xuất.
Di cư không chỉ có những tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế của
những người di cư mà nó còn có lợi ích khác có thể nhận thấy là những kĩ năng
mới do những người di cư mang lại. Những người di cư sau khi trở về quê mang
theo những kĩ năng mới có tác động tích cực đối với sản xuất nông nghiệp như
9


những kỹ thuật trồng trọt mới mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hoặc những người
di cư đã sử dụng những kinh nghiệm kinh doanh, buôn bán tích luỹ được trong
thời gian làm việc ở thành phố để tiến hành các hoạt động buôn bán và sản xuất
tại xóm làng của mình.
Bên cạnh đó, di cư có ảnh hưởng không nhỏ đến việc phân bố lại lực
lượng sản xuất, nguồn lao động theo lãnh thổ và khu vực kinh tế. Ở mức độ gia
đình, việc di cư có thể gây ra việc thiếu lao động tạm thời. Điều này đặc biệt

đúng vì thị trường lao động nông thôn Việt Nam chưa thực sự phát triển. Tình
trạng lao động di cư cùng với việc phân bố đất không thể điều chỉnh một cách
linh hoạt khiến một số khu vực đất nông nghiệp đã bị bỏ không. Điều này có thể
dẫn tới những thiệt hại rất lớn cho toàn xã hội. Nhưng trong kết quả nghiên cứu
của M4P cho thấy sản lượng nông nghiệp trong những năm không bị ảnh hưởng
của di cư. Điều này đưa ra gợi ý rằng lao động di cư chỉ đơn giản làm giảm bớt
lượng lao động dư thừa ở khu vực nông thôn( Theo Bản tin thị trường & phát
triển số tháng 12 - 1/2007).
2.1.3.2 Ảnh hưởng đến đời sống xã hội
Di cư không chỉ tác động đến đời sống kinh tế của các hộ di cư mà còn ảnh
hưởng không ít đến đời sống xã hội của họ. Cùng với sự cải thiện về đời sống vật
chất, đời sống tinh thần cũng được nâng lên. Các khoản thu nhập của họ được sử
dụng phần lớn trong các khoản chi tiêu hàng ngày của các thành viên trong gia
đình, chi cho giáo dục, y tế và các hoạt động khác. Thu nhập tăng lên làm cho các
khoản chi này cũng tăng lên làm cho đời sống được cải thiện về nhiều mặt.
Bên cạnh đó, mỗi người dân hay một nhóm cư dân, một cộng đồng đều có
phong cách sống chứa đựng những yếu tố văn hóa tinh thần, tôn giáo, dân tộc mà
khi di chuyển họ sẽ mang theo. Sự thích ứng và hòa nhập cần phải có thời gian,
nhanh hay chậm tùy thuộc vào sự khác biệt về văn hóa, kinh tế, xã hội giữa nơi
đi và nơi đến.
10


Thái độ, hành vi, phong tục tập quán, thói quen của con người không thể
thay đổi ngay mà được bảo lưu, mang theo đến nơi cư trú mới, phát huy tác dụng
trong một thời gian dài. Ngay cả khi số lượng thuần túy (số đi trừ số đến) có thể
không lớn, sự hiện diện của những người mới đến sinh sống với nền văn hóa và
đặc điểm sắc tộc khác nhau có thể gây nên sự xung đột, phân biệt đối xử trong
cộng đồng nơi đến.
2.1. Bản chất kinh tế xã hội của di cư

Bản chất kinh tế - xã hội của di cư được thể hiện thông qua các khía cạnh
sau:
- Là phương thức thực hiện phân công lao động xã hội theo lãnh thổ nhằm
hợp lý hóa phân bố dân cư và nguồn lao động, tăng năng suất lao động xã hội và
hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
- Là công cụ điều tiết cung - cầu nguồn lao động trong nền kinh tế thị
trường nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lao động ở các vùng.
- Là phương thức thực hiện những mục tiêu kinh tế của người lao động di
cư xuất phát từ động lực kinh tế. Người di cư bao giờ cũng di chuyển từ nơi có
thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp cung
lớn hơn cầu về lao động thì nhu cầu việc làm là nhu cầu số một của người lao
động. Do đó, trong hoàn cảnh nhất định người dân có thể chấp nhận di cư đến
các vùng đất lúc đầu có thể khó khăn, song tương lai có thể phát triển hơn nơi đi.
- Là biện pháp thực hiện hợp lý hóa phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh
thổ thông qua việc tạo thêm những năng lực sản xuất mới ở những vùng chậm
phát triển nhưng có ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm thiểu dư
thừa lao động còn chưa được sử dụng ở những lãnh thổ đông dân và có nhiều lao
động thiếu việc làm.
- Là quá trình chuyển giao công nghệ và trao đổi kinh nghiệm sản xuất
giữa các vùng lãnh thổ.
11


- Làm thay đổi vị thế xã hội của người di cư, làm thay đổi thành phần, cơ
cấu xã hội, cơ cấu dân tộc của cộng đồng dân cư các vùng xuất và nhập cư. Trao
đổi, hội nhập và hòa nhập những phong tục, tập quán, lối sống giữa các tầng lớp
dân cư qua đó tạo thêm một nền văn hóa phong phú và đa dạng, góp phần hình
thành một cộng đồng dân tộc thống nhất.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình di cư và quản lý di cư ở một số nước trên thế giới

2.2.1.1 Hàn Quốc
Cùng với quá trình công nghiệp hoá là sự phát triển không đều, kéo theo
sự chênh lệch ngày càng lớn giữa nông thôn và thành thị. Ngay trong những
năm 1960s của thế kỷ XX, di cư ra khu vực đô thị đã gây nhiều vấn đề tiêu
cực, thậm chí cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Hàn
Quốc đã cố gắng ngăn luồng di cư này không phải bằng các biện pháp hành
chính mà bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn để
người dân tiếp cận tốt hơn với cơ hội việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa
phương mình, phát triển nông thôn tổng hợp để giảm khoảng cách chênh lệch
nông thôn – thành thị. Có các hướng tạo việc làm phi nông nghiệp Hàn Quốc
đã sử dụng đó là:
1. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp truyền thống ở nông thôn
trong đó đặc biệt chú ý đến chế biến nông sản và sử dụng tài nguyên thiên nhiên
tại chỗ kết hợp với phát triển làng xã thông qua phong trào Làng mới, phát triển
các thị trấn, thị tứ, cơ sở hạ tầng nông thôn;
2. Đưa nhà máy về nông thôn, xây dựng các cụm công nghiệp nông thôn;
3. Khuyến khích các hoạt động phát triển kinh doanh du lịch dựa trên khai
thác lợi thế về sản xuất nông nghiệp và văn hoá xã hội của cộng đồng nông thôn;
4. Phát triển cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện sinh sống và làm việc cho
lao động di cư tại nơi đến.
12


2.2.1.2 Malaysia
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, lao động nông nghiệp ở Malaysia đã
giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1957 xuống chỉ còn 12% năm 2005. Chuyển
dịch cơ cấu lao động đang diễn ra nhanh chóng như vậy là nhờ có sự tham gia
của di cư từ nông thôn ra thành thị trong đó phần lớn là lao động trẻ tìm kiếm cơ
hội việc làm ở đô thị, khu công nghiệp.
Chính sách của Malaysia đối với quản lý luồng di cư có thể khác nhau ở

các giai đoạn nhưng tựu chung lại là giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành
thị bằng cách phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, cung cấp các điều kiện tốt
hơn để người dân nông thôn được tiếp cận tốt hơn với giáo dục và đào tạo để
tham gia thị trường lao động.
Các chính sách trực tiếp và gián tiếp đối với quản lý lao động di cư bao
gồm:
1. Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp, chuyển từ trồng cao su là
chính sang phát triển cọ dầu, cây lương thực và một số cây ngắn ngày khác.
Tăng cường chế biến công nghiệp đảm bảo liên kết giữa nhà máy chế biến với
người trồng nguyên liệu thông qua cơ chế lợi ích, phát triển bền vững gắn với
công nghệ sinh học thân thiện với môi trường.
2. Đẩy mạnh thực hiện chương trình khai hoang để người dân nông thôn
có đủ điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống, không rơi vào bần cùng hoá.
3. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, đặc biệt là các
hoạt động truyền thống, có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân;
4. Đầu tư cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ưu đãi
về giáo dục đặc biệt cho nhóm người Mã Lai để họ có điều kiện gia nhập thị
trường lao động, các trường học và trường dạy nghề đều nhận được sự hỗ trợ
của Nhà nước, học sinh nghèo được học miễn phí và nhận học bổng của
Chính phủ.
13


2.2.1.3. Trung Quốc
Trong thời gian dài Trung Quốc duy trì chính sách kiểm soát di chuyển
dân cư qua hệ thống đăng ký hộ khẩu, giấy phép làm việc tạm thời, hệ thống
tem phiếu mua lương thực cùng các biện pháp khác để hạn chế di cư lâu dài,
giới hạn tạm thời chuyển dịch di chuyển nông thôn – thành thị. Số người di cư
tạm thời ở Trung Quốc khoảng 50 – 120 triệu người. Một khảo sát di cư tại
Thượng Hải năm 1993 cho thấy những người di cư chiếm 20% dân số của

thành phố.
Luồng di cư với quy mô lớn tại Trung Quốc đã trở thành vấn đề xã hội,
bên cạnh các khó khăn về kinh tế còn có 2 vấn đề quan trọng khác là: Tăng
trưởng nhanh của việc làm phi nông nghiệp dẫn đến tăng đột biến về chi phí cơ
hội dẫn đến tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp; thay đổi cơ cấu của nền
kinh tế đặc biệt cơ cấu về sản xuất và phân phối giữa kinh tế nông thôn và
thành thị. Tuy nhiên lao động di cư cũng mang lại nhiều tác động tích cực tới
kinh tế nông thôn như khuyến khích phát triển kinh tế nông thôn; đẩy mạnh
hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh hiện đại hoá khu vực nông thôn;
kích thích việc hình thành các thành phố, thị trấn nhỏ qua đó đẩy mạnh quá
trình đô thị hoá; đa dạng các nguồn thu nhập của người dân, giúp cải thiện đời
sống của họ.
Chính quyền Trung Quốc đã nhận biết được những vấn đề nảy sinh của
việc di dân và xác định những năm cuối của thập niên 90s là thời điểm chín muồi
để thực hiện những thay đổi có tính chất quyết định, bao gồm đánh giá lại vai trò
của việc di cư. Lao động di cư được xác định có vai trò chính trong phát triển
kinh tế của đất nước, nhờ đó một số khởi xướng về chính sách đã được thực hiện
nhằm mục đích khơi thông thị trường lao động trong khắp Trung Quốc, đảm bảo
cho công nhân nhập cư được đối xử công bằng hơn, nhằm giải quyết những xung
đột giữa người nhập cư từ nông thôn và những người sử dụng lao động ở nơi
14


đến. Những cải cách quan trọng nhất đối với vấn đề di cư nhằm hướng tới sự tự
do hoá thị trường lao động trên khắp Trung Quốc gồm các nội dung về cải cách
hệ thống quản lý hộ khẩu, xây dựng thị trường lao động thống nhất, chính sách
về đảm bảo đối xử công bằng với lao động di cư.
2.1.1.4 Châu Á
Di cư - kể cả di cư tạm thời - để tìm việc làm và những mối quan hệ của nó
đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội đang là một hiện tượng có tính toàn

cầu, và có ảnh hưởng đến hầu hết các nước trên thế giới. Lao động di cư đóng góp
đáng kể cho sự tăng trưởng của các quốc gia, nơi họ đến làm việc. Các nước xuất
khẩu lao động thu được ngoại tệ, và có thêm cơ hội nâng cao tay nghề cho lao
động của nước mình. Châu Á cũng không nằm ngoài các nhận xét như vậy.
Từ những năm 1980, số lao động di cư hàng năm của châu lục này mỗi
năm tăng đến gần 3 triệu người; tiền gửi về quê hương của họ cũng lên đến
khoảng 76 tỷ USD hàng năm. Có số liệu cho biết, ở Philippin, tiền gửi về chiếm
14% GDP; còn ở Việt Nam, con số này là 7%. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ nữ trong
số lao động di cư ngày một cao: Những năm gần đây ở Sri – Lanca và Indonesia,
tỷ lệ này là 3/5 và 4/5.
Về một mặt nào đó, số lao động di cư tìm kiếm việc làm có thể là một
minh chứng cho sự năng động của khu vực, nhưng đồng thời lại đặt ra không ít
vấn đề phức tạp về chính sách và quản lý. Nhiều lao động giản đơn hoặc tay
nghề thấp là nạn nhân của sự lạm dụng hoặc bóc lột. Phí tuyển dụng có khi lên
đến 1/3 tổng số tiền lương hàng năm của người lao động. Vẫn tồn tại hiện tượng
buôn người. Chỉ tính riêng Đông Nam Á, mỗi năm ước khoảng 225.000 phụ nữ
và trẻ em rơi vào tệ nạn nói trên.
So với lực lượng lao động quốc gia thì ở những nước nhập lao động, tỷ lệ
lao động di cư như sau: Brunei 60%, Singapore 25,8%; Malaysia 17,7%; Hồng
Kông 6,6%; Đài Loan 5,9%; Thái Lan 5,5%; Nhật Bản 1,4%; Hàn Quốc 1,3%.
15


Nhằm tăng cường quản lý lao động di cư ở Châu Á, Văn phòng tổ chức
lao động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã đề xuất một Chương trình đặc
biệt, với sự tài trợ của Ủy ban Châu Âu hướng vào một số mục tiêu cụ thể.
Theo khuyến nghị của tổ chức này, thì các nước lao động, cần phải:
- Chia sẻ kinh nghiệm khi quản lý tình trạng thiếu lao động và chấp nhận
lao động.
- Xúc tiến các hoạt động nhằm bảo đảm việc làm đàng hoàng và đối xử

công bằng với lao động nhập cư.
- Khuyến khích đối thoại xã hội trong lĩnh vực này.
- Mở rộng việc bảo vệ lao động nhập cư bằng luật lao động và hệ thống an
sinh xã hội.
Với các nước xuất lao động, nên:
- Ban hành các chương trình và chính sách bền vững về xuất khẩu lao
động, bảo đảm được tính cơ động cao cho người lao động.
- Thu thập và trao đổi thông tin về các công cụ chính sách và chiến lược
hiệu quả để bảo vệ lao động xuất khẩu và tối ưu hoá các lợi ích của sự nghiệp này.
- Triển khai các quy chế và kinh nghiệm tốt trong tuyển dụng.
- Nâng cao năng lực của các đối tác xã hội khi đối thoại về các vấn đề di cư.
2.2.1.5 Thực trạng di cư nông thôn – thành thị ở một số nước đang phát triển
Trên thế giới nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, việc thiếu
quan tâm đến các vùng nông thôn và tình trạng nghèo đói ở đó đã khiến cho tốc độ
di cư từ nông thôn ra thành thị ngày càng gia tăng. Thêm vào đó là tốc độ gia tăng
dân số ở khu vực này, nhất là các hộ nghèo. Phần lớn những người di cư này đều
cho rằng việc rời ra thành phố là lối thoát sẽ giúp họ có nhiều cơ hội về việc làm
với mức thu nhập cao hơn nhiều lần ở vùng nông thôn,... không những cải thiện
được đời sống vật chất mà đời sống tinh thần cũng được cải thiện đáng kể. Chính
điều này đã làm cho dân số ở khu vực thành thị tăng đột biến. Theo ước tính của
16


Liên Hợp Quốc, năm 1999 có 47% dân số sống ở khu vực thành thị, vào cuối thập
kỉ này sẽ có hơn một nửa dân số sống ở khu vực này. Và đến năm 2030 con số này
có thể lên đến 60%, trong đó 95% dân số thành thị là ở các nước đang phát triển.
Các khu đô thị sẽ được nhanh chóng mở rộng, đặc biệt là ở khu vực Châu Á. Hơn
60% dân số tăng lên ở các thành phố của thế giới tập trung ở khu vực Châu Á như
Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bănglađet, Philipines và Việt Nam.
2.2.1.6 Kinh nghiệm về giải quyết vấn đề di chuyển lao động và quản lý vấn đề di cư

- Kinh nghiệm các nước cho thấy họ đều thừa nhận vai trò của di cư đối
với phát triển kinh tế của đất nước và tôn trọng quyền tự do di chuyển của người
lao động. Vai trò quản lý của cơ quan nhà nước đối với di cư được xác định phù
hợp nhằm hướng các dòng di cư phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Một số
nước đã chuyển từ các nỗ lực ngăn chặn dòng di cư sang lồng ghép chính sách di
cư với phát triển vùng.
- Kinh nghiệm về di cư theo định hướng đô thị của Trung Quốc là bài học về
nhược điểm cho hoạch định chính sách hạn chế di cư nhưng không kết hợp được
chiến lược phát triển kinh tế và cơ hội việc làm. Trung Quốc dần dần đã thừa nhận
lao động di cư vào đô thị là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế nhanh trong bước quá
độ tới một hệ thống kinh tế định hướng toàn cầu theo điều tiết của thị trường.
- Việc quản lý lao động di cư theo hướng phát triển một thị trường lao
động thống nhất, xoá bỏ các phân biệt giữa lao động đô thị và lao động nhập cư
là điều kiện cơ bản và quyết định để lao động di cư hoà nhập vào đời sống xã hội
nơi đến tại đô thị. Tuy nhiên, về mặt quản lý nhà nước đối với lao động di cư,
cần có cơ quan đảm nhận trách nhiệm này để giải quyết kịp thời nhiều vấn đề nổi
lên của lao động nhập cư và trở thành lỗ hổng của chính sách đó là người nghèo
ở nông thôn, người nghèo ở thành thị và người nghèo là người di cư được đối xử
khác nhau. Tuy nhiên, gợi ý các chính sách đối với lao động di cư ở đây là vấn
đề không chỉ đơn giản ở “việc làm và sinh hoạt” khi ngày càng nhiều người
17


thuộc thế hệ trẻ hơn tham gia vào lực lượng lao động di cư ra đô thị và họ sẽ ý
thức hơn về quyền công dân của họ cũng như quyền được tiếp cận các dịch vụ xã
hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội... Như vậy, người lao động
nông thôn nhập cư có nguy cơ trở thành một giai cấp bị thua thiệt vĩnh viễn và
điều này cần có một khung pháp lý cụ thể để điều chỉnh để tránh xảy ra những
hậu quả xảy ra ngoài tầm kiểm soát.
- Động cơ lớn nhất của di cư nông thôn – thành thị là lý do kinh tế. Các

vấn đề xã hội xảy ra đối với nơi đến và những hậu quả đối với nơi xuất cư cần
được xem xét có chính sách hạn chế tác động tiêu cực, khai thác mặt tích cực.
- Về vấn đề đất cho sản xuất nông nghiệp: Cần xử lý tốt vấn đề phân bổ và
trao quyền sử dụng kèm theo là các quyền năng khác trong quản lý sử dụng đất
đai đối với cả người di cư và người địa phương để tránh những vấn đề xã hội có
thể nảy sinh.
- Tổng kết kinh nghiệm từ các nước cho thấy chính sách các chính phủ đã
áp dụng nhằm tạo thêm việc làm phi nông nghiệp và khuyến khích chuyển dịch
cơ cấu lao động nông thôn tập trung vào các vấn đề sau:
1. Tăng đầu tư vào các dự án sử dụng nhiều lao động;
2. Phân bổ vốn đầu tư, tín dụng, chuyển giao công nghệ và đào tạo hướng
vào nâng cao năng suất của hệ thống nông nghiệp truyền thống;
3. Xúc tiến sử dụng đất theo hướng đa dạng hoá, nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trồng trọt ngắn ngày và của ngành chăn nuôi;
4. Cải thiện cơ cấu và hoạt động của các hiệp hội, hợp tác xã, các tổ chức
dựa vào cộng đồng để các tổ chức này trở nên chuyên nghiệp hơn theo định
hướng thị trường và tạo việc làm ổn định cho người lao động;
5. Tăng cường cung cấp tín dụng cho hoạt động phi nông nghiệp nhằm
vào khuyến khích tăng chế biến nông sản, kinh doanh nông nghiệp ở quy mô hộ
gia đình, doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa;
18


6. Khuyến khích bằng các đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp mới
thành lập ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp chuyển từ thành thị về nông
thôn, thị trấn nhỏ;
7. Phát triển đi đôi với có kế hoạch cẩn trọng giải quyết vấn đề liên quan
đến nợ của doanh nghiệp;
8. Trong điều kiện di cư nông thôn – đô thị trở nên quá “nóng” kinh
nghiệm của các nước hầu hết đều cho thấy việc hạn chế luồng di cư thông qua

phát triển nông thôn, công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhằm tạo thêm nhiều
việc làm là giải pháp hữu hiệu chứ không phải là các biện pháp hành chính.
2.2.2 Thực trạng di cư lao động ở Việt Nam
2.2.2.1 Tình hình di cư lao động chung ở Việt Nam
Công cuộc Đổi mới không chỉ trực tiếp đem lại cho người dân những cơ
hội kinh tế mà còn tác động đến di cư bằng nhiều cách khác nhau, đặc biệt trong
việc thúc đẩy các luồng di cư lao động từ nông thôn. Sự gia tăng tốc độ thương
mại hoá sản xuất nông nghiệp và sự thay thế lao động sống bằng vốn đầu vào là
nhân tố cơ bản giải phóng một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn và khuyến
khích họ đi làm ăn xa nhằm tìm kiếm những cơ hội kinh tế và thu nhập tốt hơn.
Gắn liền với di cư lao động, các sự kiện liên quan đến việc tham gia vào lực
lượng lao động cũng thay đổi, từ sự chuyển dịch nhỏ lẻ ở từng địa phương cho
đến quy mô cả nước như hiện nay. Di cư ở nước ta thường gắn với tình trạng thất
nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn, đặc biệt là ở Đồng bằng châu thổ sông
Hồng là nơi có mật độ dân số cao. Thất nghiệp và thiếu việc làm là do tăng
trưởng của nền sản xuất nông nghiệp, song lại không đủ khả năng thu hút được
hết số lao động dư thừa. Sự gia tăng quy mô dân số độ tuổi lao động tiếp tục làm
trầm trọng thêm sức ép về việc làm. Trung bình mỗi năm, Việt Nam cần phải tạo
ra 1,5 triệu việc làm mới. Số lượng thanh niên đến tuổi tham gia vào lực lượng
lao động hàng năm ước tính là 1,4 triệu người. Con số này đương nhiên chưa bao
19


gồm những người thất nghiệp từ năm trước song vẫn chưa tìm được việc làm.
Những lao động trẻ này khi tham gia vào thị trường lao động phải cạnh tranh gay
gắt trong tìm kiếm cơ hội làm việc phù hợp. Ngoài ra, việc thiếu các cơ sở đào
tạo trình độ cao và việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn cũng là một nhân tố
thúc đẩy xuất cư trong nhóm thanh niên có nhu cầu học tập.
Số liệu điều tra cho thấy, từ năm 1994 đến 1999 có gần 4,5 triệu người
chiếm khoảng 6,5% dân số trên 5 tuổi đã thay đổi nơi cư trú. Con số này không

bao gồm những người di chuyển ngắn hạn, những người di chuyển chưa đăng ký
và những người di chuyển trong 6 tháng trước cuộc điều tra. Theo báo cáo điều
tra di cư, có khoảng 1,6 triệu người di chuyển giữa các vùng nông thôn với nhau.
Những tỉnh có người di cư này là những tỉnh rất nghèo và những tỉnh có mật độ
dân số cao; 1,13 triệu người di chuyển giữa thành thị với thành thị và 1,18 triệu
người di chuyển từ nông thôn ra thành thị, trong khi chỉ có hơn 4 trăm nghìn
người di chuyển tự do từ đô thị về các vùng nông thôn. Hơn một nửa số người di
cư nằm trong độ tuổi dưới 25 và tỷ lệ phụ nữ di cư chiếm tỷ lệ cao trong những
năm 1980s, phản ánh rõ nét các cơ hội việc làm cho những người trẻ tuổi,
thường là những phụ nữ chưa có gia đình đang làm việc tại các khu công nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù chỉ khoảng hơn 25% số người di cư làm việc
trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp nhưng nó phản ánh tầm quan trọng của
di cư nông thôn – nông thôn ở Việt Nam. Di cư lao động chiếm một tỷ trọng lớn
trong sản xuất công nghiệp và xây dựng. Trong lĩnh vực dịch vụ, phần lớn người
di cư tham gia chủ yếu vào các hoạt động buôn bán, kinh doanh, vận tải, phục vụ
nhà hàng, quán ăn và giúp việc gia đình.
Theo số liệu điều tra mới nhất của Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho
thấy, trong tổng số 486500 người di cư giai đoạn 5 năm trước cuộc điều tra, số
người đến khu vực thành thị chiếm 57%, tiếp đến là luồng di cư nông thôn 30%.
Luồng di cư yếu nhất là di cư thành thị - nông thôn 13%. Ở khu vực nông thôn,
20


nữ giới chiếm tỷ trọng cao hơn nam giới trong cả hai luồng di cư nông thôn –
thành thị 21% so với 18% và nông thôn – nông thôn 16% so với 14%. Điều này
chủ yếu do sự phát triển của thị trường lao động tại các thành phố/khu đô thị đã
thu hút một lực lượng lớn lao động từ nông thôn ra thành thị. So với di cư đến
nông thôn, di chuyển đến thành thị đa dạng hơn về thể loại. Mức tăng trưởng
nhanh và đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong những năm qua đã thu hút khá hiệu
quả lực lượng lao động nhập cư. Hiện nay, ở bất cư địa phương nào cũng đều có

người di cư, nhà nhà ra đi, người người ra đi với những lí do khác nhau, tất cả
đều mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình và bản thân.
Có thể thấy vai trò tích cực của di dân là không thể phủ nhận. Nông thôn
nước ta không đủ đất canh tác so với mức tăng trưởng dân số và lao động trong
khi các ngành nghề phi nông nghiệp lại chưa phát triển. Hiện nay vẫn có ít nhất
trên 7 triệu lao động ở nông thôn không có đất canh tác, đang rất cần thu nhập và
việc làm. Đó là chưa kể con số 85 vạn người hàng năm ra nhập lực lượng lao
động nông nghiệp. Trong khi đó mỗi năm có từ 8000-10000 nghìn ha đất nông
nghiệp bị chuyển dụng sang những mục đích sử dụng khác. Vậy mà vốn đầu tư
vào địa bàn nông thôn chỉ bằng 1/10 so với khu vực thành thị. Sau thời vụ cấy
hái, người nông dân lại rơi vào tình trạng thiếu việc làm có thu nhập. Sự cách
biệt và chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa hai khu vực đã thúc đẩy người nông
dân rời bỏ quê hương ra thành phố và các địa phương khác kiếm việc làm, chấp
nhận những công việc nặng nhọc, vất vả và nguy hiểm, tất cả những ngành nghề
mà pháp luật không nghiêm cấm để mưu sinh và có cái ăn, cái mặc gửi về cho
gia đình.
2.2.2.2 Thực trạng lao động di cư tới các khu công nghiệp ở Việt Nam
Di chuyển lao động tự do tới các khu công nghiệp là một sắc thái riêng của
di cư nông thôn - thành thị trong quá trình phát triển của đất nước. Tính đến tháng
8-2008, cả nước có 150 khu công nghiệp và khu chế xuất phân bố ở 55 tỉnh, thành
21


trên cả nước với khoảng 1 triệu người lao động đang làm việc, trong đó có
700.000 người lao động di cư từ các tỉnh khác hoặc huyện khác đến. Thống kê
bước đầu cho thấy, 19% lao động di cư đến Tây Nguyên, 18% đến TPHCM và
17% đến các KCN Đông Nam bộ là dân cư xuất phát từ vùng đồng bằng sông
Hồng. Số lao động trực tiếp này chủ yếu tập trung tại một số tỉnh, thành phố phía
Nam như thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 14,3 vạn, tỉnh Bình Dương có hơn
13 vạn, tỉnh Đồng Nai có trên 18,8. Ngoài ra, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì

tổng số việc làm được tạo ra từ chương trình phát triển khu công nghiệp khoảng
trên 1,2 triệu người. Tỷ trọng lao động nhập cư trong tổng số lao động làm việc
trong các khu công nghiệp của cả nước chiếm bình quân khoảng 37%. Tuy nhiên,
ở các tỉnh, thành phố như: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương tỷ lệ
này chiếm trên 50% (www.vovnews.vn & www.sggp.org.vn)
Thu nhập bình quân một tháng (kể cả tiền lương và tiền thưởng) của người
lao động làm việc tại các khu công nghiệp trong các doanh nghiệp trong nước
(kể cả lao động nhập cư) bình quân từ 600000 đồng - 700000 đồng/tháng và
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ 800000 đồng - 1000000
đồng/tháng. Với mức thu nhập trên, chỉ có những người lao động tại địa phương
mới có thể bảo đảm các nhu cầu sống tối thiểu cho bản thân, còn những người
lao động nhập cư thì rất khó khăn do phải trang trải thêm nhiều chi phí khác như
thuê nhà ở, tiền điện, tiền nước,… (chưa kể đến chi phí cho nghỉ ngơi, vui chơi,
giải trí, học tập)… (www.thanhnien.com.vn)
Hiện tại, ở hầu hết các khu công nghiệp cả nước, số người lao động nhập
cư có điều kiện sống rất khó khăn. Do lao động nhập cư làm việc tại các khu
công nghiệp tăng mạnh về số lượng, dẫn tới nhu cầu nhà ở tăng cao, trong khi
hầu hết chính quyền địa phương và các chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và
các doanh nghiệp đều chưa chú trọng tới việc xây dựng nhà ở cho công nhân
thuê với giá thấp. Cụ thể, Bình Dương mới chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao
22


×